Đại Đường Song Long Truyện

Chương 7: Hòa thị chi bích




Tống Sư Đạo thiết yến trong phòng lớn của chiếc chiến thuyền, giản đơn mà long trọng, chủ tọa là một đôi nam nữ.

Nam tuổi ước chừng bốn mươi, nhưng đầu tóc bạc trắng, trên mặt để một bộ râu dài màu ngân bạch, nhưng không hề có vẻ già cỗi, mà thập phần anh tuấn, có hào khí của nhất phái đại gia, hơn nữa thần thái cũng khiêm cung khách khí phi thường.

Nữ nhân tuổi chừng hai lăm hai sáu, dáng vẻ yêu mị phi thường, thái độ với nam nhân thập phần thân thiết, hơn nữa thần tình dáng điệu vô cùng khiêu khích, gây cho người ta một cảm giác không chính phái. Còn Khấu Trọng và Từ Tử Lăng thì lại liên tưởng đến các cô nương trong Xuân Phong lầu, bất quá nhan sắc của nữ nhân này vượt xa bất kỳ hồng cô nào trong kỹ viện đó mà thôi.

Sau khi Tống Sư Đạo giới thiệu, mới biết nam nhân chính là cao thủ trứ danh của Tống phiệt, Ngân Tu Tống Lỗ, nổi tiếng khắp vùng Giang Nam với một bộ Ngân Long quải pháp tự sáng tạo. Tống Lỗ là tộc thúc của Tống Sư Đạo, cũng là một trong các nhân vật chủ chốt của Tống phiệt.

Nữ nhân tên gọi Liễu Thanh, là tiểu thiếp Tỗng Lỗ mới thu nạp, còn về lai lịch thế nào thì cũng không nói kỹ càng.

Lúc Tống Sư Đạo định giới thiệu ba người mới chợt nhớ ra là y không biết danh tính, đang ngần ngừ không biết phải làm sao thì Phó Quân Sước đã lên tiếng nói tên ba người ra, không hề giấu diếm.

Tống Lỗ mỉm cười nói:

- Cô nương tinh hoa nội liễm, hẳn là người có võ công thượng thừa, bội kiếm cũng khắc biểu tượng của dị quốc, không biết lệnh sư là cao nhân phương nào mà có thể đào tạo ra được một nhân vật cao minh như cô nương đây?

Hai gã Khấu, Từ nhìn nhau le lưỡi, đúng là thành danh không phải may mắn, hai gã tuy chưa từng nghe qua danh tiếng của của Tống Lỗ, nhưng cũng biết y là nhân vật nổi danh, bởi vậy nên nhãn lực mới cao minh như vậy, nói chuyện mới đắc thể như vậy, từ đó không khỏi sinh lòng ngưỡng mộ.

Ánh mắt của hai gã còn có hiệu lực hơn tất cả mọi lời nịnh hót, Tống Lỗ cũng vì vậy mà nảy sinh hảo cảm với hai gã.

Phó Quân Sước chậm rãi đáp lời:

- Xin Tống tiên sinh thứ lỗi, Quân Sước có nghiêm lệnh của gia sư, không thể tiết lộ thân phận lai lịch.

Liễu Thanh lúng liếng liếc mắt nhìn hai gã tiểu tử một cái, mỉm cười nói:

- Hai vị tiểu huynh đệ này thật anh tuấn hiên ngang, tại sao lại không cùng Phó cô nương tham luyện võ công, không biết là người thế nào với Phó cô nương?

Khấu Trọng ưỡn ngực đằng hằng nói:

- Hai huynh đệ chúng tôi đang chuẩn bị theo mẹ của chúng tôi học võ công thượng thừa, đa tạ Tống phu nhân đã tán thưởng!

Tống Sư Đạo nghe thấy gã nói “mẹ của chúng tôi” thì giật thót mình, liếc mắt nhìn thân hình diễm lệ vô song của Phó Quân Sước, biến sắc nói:

- Mẹ của hai người?

Phó Quân Sước thoáng đỏ mặt, nghiêm khắc trừng mắt nhìn Khấu Trọng một cái rồi lên tiếng chữa lời:

- Đừng nghe hai tên tiểu quỷ này hồ ngôn loạn ngữ, tại chúng cứ đòi nhận ta làm mẹ...

Từ Tử Lăng cố ý xoa bụng rầy rà nói:

- Mẹ! Con đói rồi!

Liễu Thanh không nén nổi, khúc khích che miệng cười.

Hai chú cháu Tống Sư Đạo và Tống Lỗ cảm thấy đầu óc mơ hồ, không thể nào hiểu nổi quan hệ giữa mỹ nữ tuyệt sắc với hai tên tiểu quỷ này.

Phó Quân Sước thấy hai tên tiểu quỷ nhìn Liễu Thanh si si dại dại, bất giác sinh ra một cảm giác đố kỵ quái lạ, hừ lạnh một tiếng nói:

- Còn dám hồ ngôn loạn ngữ, ta sẽ... ta sẽ...

Tống Sư Đạo vui vẻ nói:

- Xin mời Phó cô nương và hai vị tiểu huynh đệ nhập tiệc, chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng tâm tính thiếu niên, thấy Tống Sư Đạo tôn trọng mình, bao nhiêu ghen tuông lúc nãy đã giảm đi quá nửa, lại thấy trên bàn toàn là sơn trân hải vị, nên lập tức ngồi xuống, chẳng hề để ý đến lễ giáo giang hồ.

Bọn Tống Sư Đạo cũng đã phần nào đoán được gốc gác của hai gã nên cũng chẳng để vào lòng, chỉ khẩn khoản mời Phó Quân Sước ngồi xuống, Tống Sư Đạo và Tống Lỗ ngồi hai bên tả hữu, Liễu Thanh thì ngồi xuống bên cạnh Tống Lỗ, bồi tiếp Khấu Trọng và Từ Tử Lăng ăn uống.

Hai đại hán đứng hầu lập tức bước lên rót rượu cho mọi người.

Phó Quân Sước nói:

- Trước giờ tôi không uống rượu, hai tên tiểu tử này cũng không tiện uống, ba vị xin cứ tự tiện.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đang muốn thử mùi vị của mỹ tửu xem thế nào, nghe thấy nàng nói vậy lập tức lộ vẻ thất vọng ra mặt.

Phó Quân Sước thầm cảm thấy vui vẻ, cuối cùng thì nàng đã trị được hai tên tiểu quỷ này một mẻ.

Tống Lỗ mỉm cười nói:

- Vậy mọi người không ai uống rượu nữa? Tiểu Thanh có vấn đề gì không?

Liễu Thanh nhoẻn cười nói:

- Thiếp thân làm sao có vấn đề chứ? Chỉ sợ là hai vị tiểu huynh đệ đây có vấn đề thôi!

Khấu Trọng ưỡn ngực nói:

- Đại trượng phu có thể co có thể duỗi, có thể uống cũng có thể không uống, làm sao có vấn đề được chứ?

Ba người Tống gia đều đã lăn lộn giang hồ không ít, biết đủ mọi hạng người, hiểu rõ gã đang nói cứng, nhưng cũng không lên tiếng chọc phá mà chuyển sang nói chủ đề khác.

Tống Lỗ hiển nhiên là người rất sành sỏi ẩm thực, thuận miệng giới thiệu các mỹ thực trên bàn, lại nói cả cách nấu nướng, chọn nguyên liệu, khiến hai gã Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã đói đến mềm người nghe mà tròn mắt há miệng, hai tay liên tục càn quét thức ăn trên bàn.

Phó Quân Sước lại không hề hứng thú với thức ăn trên bàn, chỉ ăn hai ba miếng rau xanh rồi dừng đũa, ngọc dung tịnh như nước hồ thu, đẹp tựa Quan Âm Đại Sĩ giáng thế vậy.

Tống Sư Đạo càng nhìn nàng càng ái mộ, nhưng bởi Tống Lỗ vừa rồi đã chỉ ra là nàng đến từ dị quốc, thật chẳng khác gì một tảng đá đè lên tim y, bởi vì họ Tống nhà y nghiêm cấm việc thông hôn với dị tộc, nếu chẳng may mỹ nữ tuyệt sắc này là người dị tộc, thì trừ phi y ra khỏi gia môn, bằng không chỉ có thể hữu duyên vô phận mà thôi.

Liễu Thanh lại rất có hứng thú với hai tên tiểu tử không biết trời đất là gì này, mỉm cười nhìn hai gã ăn uống như phong quyển tàn vân, thỉnh thoảng còn giúp đỡ hai gã gắp thức ăn, tiếp đãi rất chu đáo.

Đợi cho hạ nhân dọn dẹp hết bát đĩa, Tống Lỗ liền tự tay đun trà đãi khách.

Y thấy Phó Quân Sước không có hứng thú với chuyện ăn uống liền chuyển chủ đề:

- Phó cô nương đến Trung thổ của chúng tôi không biết có quen thuộc hay không?

Tống Sư Đạo lập tức để lộ thần sắc khẩn trương, biết rõ Tống Lỗ đã nhìn ra tấm lòng ái mộ của y với Phó Quân Sước, cố ý dò hỏi để chứng minh thân phận dị tộc của nàng, dập tắt hy vọng của y.

Phó Quân Sước nhạt giọng hỏi lại:

- Tống tiên sinh làm sao chỉ dựa vào bội kiếm của tiểu nữ mà đã đoán định Quân Sước là người đến từ ngoại vực?

Hai mắt Tống Sư Đạo lập tức sáng rực lên.

Tống Lỗ ra vẻ áy náy nói:

- Xin thứ cho Tống mỗ mạo muội, không biết cô nương đã nghe qua câu chuyện về Hòa Thị Bích hay chưa?

Khấu Trọng giơ tay lên như học sinh trả lời thầy giáo:

- Ta đã nghe qua rồi. Tần Chiêu Tương Vương lấy mười lăm tòa thành trì để đổi lấy trấn quốc chi bảo của Thang Huệ Văn Vương là Hòa Thị Bích. Triệu Vương phái Lạn Tương Như hộ tống Hòa Thị Bích đến bái kiến Tần Vương, Lão Lạn này ngu đần mang ngọc bỏ trốn, cũng may là Tần Vương càng ngu hơn, để cho lão và Hòa Thị Bích trở về nước, câu chuyện này gọi là “hoàn bích quy Triệu” hay cái con khỉ mốc gì đó.

Chúng nhân đều bật cười phát lên, Liễu Thanh cười dữ dội nhất, chỉ tay hỏi Khấu Trọng:

- Vậy Hòa Thị Bích đó sau này thế nào?

Phó Quân Sước cũng thầm cảm kích, biết Khấu Trọng sợ nàng không trả lời nổi câu hỏi của Tống Lỗ mà tiết lộ thân phận nên mới tranh trả lời trước, đồng thời nàng cũng thầm kinh ngạc trước sự cơ trí của “đứa con” này.

Khấu Trọng chỉ vì đã nghe qua Bạch lão phu tử kể chuyện hoàn bích quy Triệu nên mới có lời mà nói, còn về chuyện sau khi “quy Triệu” thì làm sao mà gã biết được, đành phải gượng cười nói:

- Chuyện này e chỉ có trời mới biết.

Liễu Thanh cười tươi như hoa nở, dựa cả người vào Tống Lỗ, dáng vẻ yêu kiều khôn tả.

Tống Lỗ thấy tên tiểu tử này làm ái thiếp vui vẻ như vậy, trong lòng cũng rất vui thích, nhất thời quên cả chuyện thăm dò Phó Quân Sước, chậm rãi giải thích:

- Hòa Thị Bích về sau rơi vào tay Tần Thủy Hoàng, Tần Thủy Hoàng đã lệnh cho Lý Tư khắc lên trên ngọc tám chữ triện: “thọ mệnh ư thiên, ký thọ vĩnh xương”, từ đó Hòa Thị Bích liền trở thành ngọc tỷ của Hoàng đế.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng liền gật gù, biểu tình như kiểu “thì ra là thế”.

Tống Sư Đạo sợ rằng Tống Lỗ sẽ tiếp trục truy vấn Phó Quân Sước liền tiếp lời:

- Sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang lật đổ đại Tần, Tần Vương Tử Anh liền đem Hòa Thị Bích hiến cho Lưu Bang, Lưu Bang liền gọi là “truyền quốc tỷ”, kể từ đó Hòa Thị Bích trở thành tượng trưng cho chuyện được mất thiên hạ. Về sau Vương Mãng có ý đồ soán vị nên đã sai đệ đệ là Vương Vũ vào Trường Lạc cung đánh cắp Hòa Thị Bích trong tay Lý Nguyên thái hậu, không ngờ bị Lý Nguyên thái hậu ném xuống đất làm vỡ mất một mảnh. Vương Mãng liền sai người dùng hoàng kim vá vào, khiến Hòa Thị Bích lại có thêm nhã danh Ngọc Thể Kim Giác.

Khấu Trọng cười hì hì nói:

- Câu chuyện này nhất định là giả rồi, ném mạnh như vậy Hòa Thị Bích chẳng lẽ không vỡ vụn thành bao nhiêu mảnh rồi.

Tống Lỗ động dung nói:

- Khấu tiểu huynh đệ quả là cơ trí tinh minh, nhưng chuyện này đích thực là chính xác vô cùng, bởi vì ngọc này chẳng phải ngọc thường. Năm xưa người Sở là Biện Hòa đi chặt củi trong rừng, thấy một con phượng hoàng vô cùng xinh đẹp đậu trên một tảng đá xanh, nghĩ đến câu nói: “Phượng Hoàng bất lạc vô bảo địa” [1], đoán định bên trong tảng đá nhất định có bảo vật, liền đem về hiến tặng cho Sở Lịch Vương, chẳng ngờ bọn thợ ngọc trong cung đều bảo tảng đá Biện Hòa hiến tặng chỉ là một tảng đá thường, Sở Vương tức giận liền chặt đi chân trái của y rồi đuổi đi. Biện Hòa không hề ôm hận, đợi cho Vũ Vương đoạn vị, lại đem hiến bảo lần nữa, kết quả là bị chặt nốt chân phải. Đến khi con trai của Vũ Vương là Văn Vương lên ngôi, biết được chuyện này mới cho người mang tảng đá đó vào cung, ra lệnh cho công tượng cẩn thận mài dũa, cuối cùng từ bên trong tảng đá lấy ra được một viên kỳ thế bảo ngọc long lanh tinh khiết, để tưởng niệm Biện Hòa nên đã đặt tên là Hòa Thị Bích.

Tống Sư Đạo tiếp lời:

- Nếu là bảo thạch bình thường, bọn công tượng trong cung của Sở Vương không thể không hiểu được, đâu đến nỗi hiểu lầm là một tảng đá bình thường. Nội một việc phải mài vỡ lớp vỏ đá mới lộ ra bảo thạch cũng biết Hòa Thị Bích không giống với những bảo thạch bình thường khác rồi, đập mạnh xuống đất như vậy mà chỉ sứt một góc nhỏ, đủ thấy chỗ không tầm thường của Hòa Thị Bích rồi.

Lần này thì đến Phó Quân Sước cũng cảm thấy hứng thú:

- Vậy rốt cuộc Hòa Thị Bích là thứ đồ gì vậy?

Tống Sư Đạo lần đầu tiên được giai nhân hỏi đến, trong lòng thầm vui sướng, hưng phấn nói tiếp:

- Theo cổ thư của Tống gia thì ngọc này là kỳ thạch của tiên giới, bên trong ẩn tàng một bí mật kinh thiên động địa, còn chuyện đó là bí mật gì thì không ai biết được.

Từ Tử Lăng hiếu kỳ hỏi:

- Sau khi Vương Mãng chết, Hòa Thị Bích lại rơi vào tay ai nữa?

Liễu Thanh cười cười nói:

1 Phượng hoàng không đậu xuống những nơi không có bảo vật.

- Truyền đến đời Hán Thiếu Đế, Hòa Thị Bích lại thất tung lần nữa. Đến thời Tam Quốc, Trường Hà thái thú Tôn Kiên khi tấn công vào Lạc Dương chợt thấy một miệng giếng hào quang tứ phía liền sai người xuống xem. Kết quả tìm được một thi thể cung tần, tay ôm chặt một cái hộp đỏ. Tôn Kiên liền thử mở ra xem, thì ra bên trong chính là Hòa Thị Bích. Về sau Tôn Kiên chết trận, Hòa Thị Bích lại rơi vào tay Tào Tháo, truyền đến đời sau. Đến khi nhà Tùy diệt Nam Trần, Dương Kiên cho người tìm khắp hoàng cung nhà Trần nhưng cũng không tìm được nơi Trần chủ giấu Hòa Thị Bích, đây chính là chuyện mà bình sinh Dương Kiên cảm thấy đáng tiếc nhất.

Phó Quân Sước không cầm được liền hỏi:

- Tại sao đột nhiên chư vị lại nhắc đến chuyện Hòa Thị Bích này?

Tống Sư Đạo biến sắc:

- Xem ra cô nương thân tại giang hồ mà không biết giang hồ đang phát sinh chuyện lớn.

Tống Lỗ vuốt râu cười nói:

- Hòa Thị Ngọc Bích, Dương Công Bảo Khố, chỉ cần có một có thể an định thiên hạ. Giờ đây chiến hỏa liên miên, thiên hạ đại loạn, những ai có khả năng đều muốn làm Hoàng đế. Vì vậy hai thứ này trở thành thứ mà cả thiên hạ đều muốn tranh giành. Gần đây nghe giang hồ truyền ngôn, Hòa Thị Bích đã xuất hiện ở Lạc Dương, những kẻ tự cho mình có chút bản lĩnh đều đến Lạc Dương để tìm chút vận khí, chuyến này chúng ta đưa hàng đến Tứ Xuyên xong cũng đến Lạc Dương một chuyến, xem xem khí số Tống gia thế nào?

Tống Lỗ quả thực phong độ bất phàm, không hổ là xuất thân sĩ tộc, bất luận là khẩu khí lớn thế nào nhưng cũng làm người nghe cảm thấy thoải mái.

Khấu Trọng hai mắt sáng lên nói:

- Nếu có được Hòa Thị Bích thì có thể đoạt được thiên hạ, hà, tôi và Tiểu Lăng nhất định phải đi thử một phen mới được.

Phó Quân Sước lạnh lùng nhìn gã nói:

- Dựa vào bản lĩnh của tên tiểu quỷ ngươi liệu có xứng không? Ta tuyệt không để cho các ngươi đi Lạc Dương, nếu còn nghĩ lung tung nữa, sau này ta quyết không... không để ý đến ngươi nữa.

Nàng vốn định nói không truyền pháp quyết, song lời ra đến miệng lại chữa lại, uy lực tự nhiên giảm đi rất nhiều.

Bọn Tống Lỗ ba người tuy vẫn không rõ ràng quan hệ của ba người thế nào, nhưng cũng có thể cảm nhận được Phó Quân Sước bề ngoài lạnh lùng, lời nói khắc bạc nhưng kỳ thực lại vô cùng quan tâm đến hai tên tiểu tử đáng yêu này.

Tống Sư đạo ôn hòa nói:

- Phó cô nương nói rất đúng, loại nhiệt náo này tốt nhất không nên tham gia thì hơn, đặc biệt là Hòa Thị Bích lại liên can đến một môn phái thần bí nhất trong võ lâm. Môn phái này cứ cách một thời gian lại phái người nhập thế tu hành, võ công cao thâm khó dò.

Phó Quân Sước tò mò hỏi:

- Đó là môn phái gì vậy?

Tống Lỗ nói:

- Phó cô nương hỏi đúng người rồi, nếu như là người khác, có thể ngay cả tên môn phái ấy cũng chưa từng nghe qua nữa.

Hai gã Khấu, Từ cũng vô cùng hiếu kỳ, lưu tâm lắng nghe.

Tống Sư Đạo nói:

- Môn phái này tên là Từ Hàng tĩnh trai, hơn trăm năm nay đã chiếm vị trí tối cao vô thượng ở trong huyền môn, nhưng những người biết về Tĩnh trai đều không chịu tiết lộ bất cứ chuyện gì liên quan đến môn phái này. Vì vậy chúng tôi đã phái đi rất nhiều người để điều tra về Hòa Thị Bích và Từ Hàng tĩnh trai nhưng cũng hiểu biết không nhiều, chỉ biết là trong trai toàn những nữ tử tu luyện thiên đạo. Nghe đồn đạo gia đệ nhất cao thủ Tán chân nhân Ninh Đạo Kỳ đã từng đến Tĩnh trai, tìm trụ trì luận võ, chẳng ngờ Trai chủ lại cho ông ta xem trấn trai chi bảo là Từ Hàng Kiếm Điển, Ninh Đạo Kỳ còn chưa xem hết đã hộc máu thọ thương, biết khó mà lui, những người biết chuyện này cũng không nhiều, vì vậy mà không hề lưu truyền trên giang hồ.

Khấu Trọng vỗ vai Từ Tử Lăng, thở dài nói:

- Đây mới đúng là bí kíp chân chính.

Trong chúng nhân, đương nhiên chỉ có hai người mới hiểu được ý tứ của gã.

Tống Lỗ thở dài than:

- Nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên, càng hiểu biết nhiều càng thấy mình nhỏ bé, không dám tự kiêu nữa.

Từ Tử Lăng khâm phục nói:

- Tống đại gia mới là nhân vật chân chính.

Gã ở Dương Châu quen gọi người khác là đại gia, nên tự nhiên cũng gọi Tống Lỗ như vậy.

Tống Lỗ cười cười nói:

- Hai vị huynh đệ gân cốt cực tốt, nếu Tống mỗ gặp hai người sớm vài năm, e rằng quyết chẳng thể bỏ qua.

Hai gã Khấu, Từ cùng lúc biến sắc, lòng như chùn hẳn xuống.

Mẹ đã nói như vậy, Tống Lỗ cũng nói như vậy, xem ra cả đời này hai gã cũng đừng hòng trở thành cao thủ được.

Phó Quân Sước cũng cảm thấy khó chịu, lòng thầm hạ quyết tâm: “Thế nào cũng phải thử bồi dưỡng hai gã”.

Trong lòng đã quyết, liền nói:

- Muộn rồi, tiểu nữ muốn đi ngủ sớm một chút.

Tống Sư Đạo tuy rằng không muốn, song vẫn đành phải theo lời nàng, kết thúc buổi yến tiệc.

Khấu Trọng vốn muốn tìm hiểu xem Hòa Thị Bích và Từ Hàng tịnh trai rốt cuộc có quan hệ gì, nhưng lại sợ làm Phó Quân Sước không vui, lại muốn học Cửu Huyền đại pháp nên cố nén lại không hỏi, cùng Từ Tử Lăng theo Phó Quân Sước về phòng.

Trong phòng của Phó Quân Sước, ba người ngồi xếp bằng tròn ở ba góc, ánh trăng xuyên qua cửa sổ vừa hay chiếu đúng vào người của Phó Quân Sước, khiến nàng càng giống như Quan Âm Đại Sĩ hạ phàm.

Phó Quân Sước thần tình nghiêm túc, nhẹ giọng hỏi:

- Các ngươi có biết tại sao ta đi rồi lại quay lại cứu các ngươi khỏi tay tên huyện lệnh béo đó không? Sau đó ở bến thuyền tại sao lại không nỡ để các ngươi rời khỏi không?

Khấu Trọng thấy thần tình nàng nghiêm túc như vậy, không dám đùa cợt, nghiêm giọng trả lời:

- Có phải là vì mẹ yêu quý chúng con không?

Phó Quân Sước thở dài nói:

- Cũng có thể nói như vậy, trong số tuỳ tùng của Vũ Văn Hóa Cập có một người là do Cao Lệ Vương phái đến, vì vậy sau khi đưa các ngươi đến Bắc Pha huyện, ta liền dùng ám hiệu đặc biệt liên lạc với y, thăm dò thương thế của Vũ Văn Hóa Cập.

Từ Tử Lăng cả mừng nói:

- Thì ra Vũ Văn Hóa Cập cũng bị thương?

Phó Quân Sước đắc ý nói:

- Đương nhiên rồi. Cửu Huyền đại pháp của ta đâu phải tầm thường, không trả giá thì làm sao đả thương nổi ta, có điều hắn cũng không phải hạng vừa, chỉ ngồi hai canh giờ đã hồi phục hoàn toàn, chỉ nội một điểm này cũng có thể thấy hắn cao hơn ta một bậc. Đồng thời ta cũng biết được hắn vì Trường Sinh quyết mà bất chấp tất cả truy bắt hai ngươi, vì thế nên ta mới quay lại cứu hai tên tiểu quỷ các ngươi, ta làm sao để tên bạo quân vạn ác đó diên niên ích thọ được chứ?

Khấu Trọng khó khăn nói:

- Mẹ hoàn toàn có thể đoạt Trường Sinh quyết của chúng con, tùy tiện tìm một chỗ nào đó chôn xuống là có thể sạch sẽ tay chân, đỡ phải vướng víu hai tên tiểu tử như chúng con nữa rồi.

Phó Quân Sước ngắt lời gã nói:

- Ta không thích làm những chuyện vô nghĩa như thế.

Từ Tử Lăng kích động hỏi:

- Vậy tại sao mẹ lại bỏ chúng con lại ở Đan Dương?

Phó Quân Sước thở dài nói:

- Cuối cùng không phải là ta cũng không bỏ các ngươi được sao? Ta cũng không biết tại sao lại đối tốt với hai tên tiểu quỷ các ngươi như vậy. Vốn ta chỉ muốn đưa các ngươi đến Đan Dương sau đó để các ngươi có chân tự đi, tự sinh tự diệt là xong, nhưng nghĩ lại thấy Vũ Văn Hóa Cập có thể động dụng quan phủ toàn thiên hạ, các ngươi có mọc cánh cũng khó thoát khỏi ma trảo của hắn nên mới không cầm lòng được mà quay lại tìm hai ngươi. Ngươi tưởng rằng ta đã nhìn trúng Tống Sư Đạo rồi à? Đương nhiên không phải vậy, ta sớm đã quyết chết vì đất nước, làm sao còn để ý nam nữ tư tình nữa, chỉ là muốn mượn thuyền của y đưa hai người các ngươi đi xa hiểm cảnh một chút mà thôi. Khi thuyền đậu lại lần nữa, hai ngươi phải lập tức lên bờ, chạy đến phạm vi thế lực của nghĩa quân, như vậy Vũ Văn Hóa Cập mới không có cách bắt các ngươi được nữa.

Khấu Trọng ngắt lời nàng:

- Chúng con tính đem Trường Sinh quyết hủy đi, như vậy thì dù Vũ Văn Hóa Cốt kia có đuổi kịp cũng không lấy được bảo thư nữa.

Phó Quân Sước và Từ Tử Lăng cảm thấy vô cùng ngạc nhiên, không ngờ tên tiểu tử luôn tham tài tham lợi này lại chịu hy sinh như vậy.

Phó Quân Sước gật đầu nói:

- Nghe tiểu Trọng nói vậy, ta thật sự rất vui, nhưng tạm thời vẫn chưa đến bước đó. Bây giờ ta sẽ truyền cho các ngươi công phu đả tọa. Chỉ là hai ngươi phải lập thệ, nếu chưa đạt được đệ nhất trùng cảnh giới khí cơ triêu động thì không được ra giang hồ, chỉ có thể tìm một tiểu trấn yên tĩnh, tránh đi chiến hỏa, sống một cách an an lạc lạc.

Từ Tử Lăng hai mắt đỏ lựng:

- Mẹ! Mẹ đối với chúng con thật là tốt.

Khấu Trọng cũng cảm động nói:

- Dù là mẹ ruột của chúng con còn sống cũng quyết chẳng thể tốt hơn mẹ được!

Hai gã liền lập tức lập thệ.

Phó Quân Sước dạy hai người hợp chưởng trước ngực, nghiêm mặt nói:

- Trước khi luyện công phải luyện tính đã, đầu tiên phải tiêu trừ tất cả tạp niệm, sau đó ngồi xếp bằng tròn tĩnh tọa, chân trái hướng ra ngoài, trân phải hướng vào trong, lấy dương bao âm, ngón cái bàn tay trái niết ngón giữa, ngón cái bàn tay phải ấn vào lòng bàn tay trái bắt quyết, tay phải bên ngoài, lấy âm bao dương. Đây gọi là Liên Hoàn quyết trong Cửu Huyền đại pháp, còn gọi là Thủ cước hòa hợp khấu liên hoàn, tứ môn khẩn bế thủ chính trung.

Từ Tử Lăng không hiểu hỏi:

- Mẹ không phải đã nói Cửu Huyền đại pháp trọng thần khinh hình hay sao?

Tại sao giờ lại để ý đến hình thức như vậy?

Phó Quân Sước trầm mặc giây lát, thở dài than:

- Nếu như các ngươi thật sự luyện thành thần công, tất sẽ là nhân vật tuyệt thế có thể khai tông lập phái, tạo dựng thế cục. Ta trước giờ chưa từng suy nghĩ đến điểm này, có điều ta chỉ có thể y pháp mà dạy cho các ngươi, các ngươi nếu có thể nghĩ ra phương pháp khác thì cứ tùy tiện mà thử, nhưng tâm pháp nhất quyết phải tôn trọng pháp quyết, bằng không sẽ dễn đến họa hoạn bất ngờ.

Khấu Trọng tán thưởng nói:

- Mẹ thật là sáng suốt, các sư phó ở trong võ trường dạy đồ đệ chẳng bao giờ nói như vậy.

Tiếp đó Phó Quân Sước lại giảng giải cặn kẽ về kỳ kinh bát mạch và vị trí các yếu huyệt cho hai gã, đến lúc hai gã nhớ hết được thì đã quá canh ba rồi.

Lúc này thuyền lớn đột nhiên chậm lại, bên bờ truyền lại tiếng bước chân dồn dập.

Ba người cùng lúc biến sắc.