Đế Đài Xuân

Chương 9




Ngày ba tháng Mười, năm Trọng Hi thứ mười lăm.

Trên niên lịch vốn là một ngày bình thường, thế nhưng đó cũng là ngày đánh dấu sự kiện đầu tiên trong chuỗi biến đổi phi thường của triều Đại Uyên.

Khuya đêm đó, Vĩnh Yên cung của đương triều Thái hậu đột nhiên cháy, hỏa thế từ bên cạnh tẩm phòng của Thái hậu bùng lên, trong chớp mắt đã lan ra hơn phân nửa cung. Giữa đêm hanh khô, Bắc phong nổi mạnh, sức lửa ỷ vào sức gió, cứ thế mà khói tỏa mù mịt, lửa bốc ngùn ngụt, hồng quang bừng bừng tựa như tà dương rọi sáng một góc trời.

Hoàng đế một thân thụy y* đơn bạc đuổi tới, mấy lần định xông vào lửa đỏ cứu mẫu hậu nhưng bị ngăn lại, chỉ biết gào khóc đến khản cả giọng, ngay đến Hoàng hậu cùng Đoan Quý phi thường ngày được hắn nhất mực sủng ái cũng không khuyên giải nổi. Toàn cảnh chỉ thấy một màn hỗn loạn thất điên bát đảo.

Hậu quả của trận hỏa hoạn này thập phần nghiêm trọng: gần hai phần ba Vĩnh Yên cung bị hủy hoại, Phục Kiến cung cạnh đó cũng bị lửa lan đến. Nơi bị thiêu rụi hoàn toàn chính là tẩm phòng hướng Nam của Thái hậu, tàn tích sót lại chỉ còn ngói nát đá vụn. Đừng nói toàn thây, đào lên được một nắm hài cốt đã là kỳ công.

Mặc dù nhiều năm qua ẩn mình trong thâm cung, không tham dự chính sự, nhưng người vùi thân biển lửa này dù sao cũng là Thái hậu tôn quý nhất của triều Đại Uyên. Tức thì trên dưới triều đình lẫn dân gian nổi lên nghi vấn chồng chất, đồn đãi tứ phía, xôn xao cho rằng đây không phải là tai kiếp ngoài ý muốn.

Tỉ dụ như, hai ngày trước khi tấn bi kịch này xảy ra, Thái hậu từng cùng Mạnh Quốc sư nảy sinh xung đột tại Nội Thiên điện, nghe lời nói của Thái hậu tựa hồ ám chỉ trong tay đang nắm một phần di chỉ nào đó của tiên hoàng…

Hoặc như, Cấm quân hộ vệ hoàng cung vốn phải phái người tức thời cứu hỏa, thế nhưng mấy hôm trước đã bị Mạnh Quốc sư lấy lý do thích khách hoành hành mà điều đến chính tư dinh của mình, bởi vậy đêm đó nhân lực không đủ, khiến cho hỏa thế một khi phất lên không thể khống chế, dẫn đến thảm kịch.

Tóm lại, vô số mũi dùi, không cái nào không chĩa vào Mạnh Thích Thanh, ám chỉ chính lão ở sau lưng một tay thao túng khiến Thái hậu đột tử, nhưng tra tới tra lui vẫn không truy ra ai đã tung tin đồn này.

Mạnh Thích Thanh mấy năm nay độc lĩnh triều cương, quyền hành vô hạn, chỉ một nghi tội thí sát* Thái hậu mặc dù không làm gì được lão, nhưng chung quy gánh ở trên mình cũng chẳng hay ho gì. Huống chi lão biết rõ, việc này quả tình không phải mình làm, nên lão đoán nhất định có thế lực âm thầm hoạt động, mục đích là đem tội danh ám sát Thái hậu giá họa cho lão nhằm ra đòn phủ đầu.

Lão giận dữ hạ lệnh cho Hình bộ cùng Nội đình phủ phối hợp, dốc hết tài lực điều tra hung thủ phóng hỏa Vĩnh Yên cung hòng bắt cho bằng được kẻ đã ngấm ngầm hạ độc thủ.

E rằng nhân tính chính là như vậy, luôn thích suy bụng ta ra bụng người. Mười mấy năm qua Mạnh Thích Thanh chưa từng bận tâm đến nữ nhân yếu đuối giấu mình nơi thâm cung kia, nên cũng không nghĩ sẽ có kẻ bất chấp nguy hiểm để cứu người mà lão cho là vô dụng thoát khỏi hoàng cung. Nếu ngay cả nhận định cơ bản nhất cũng sai lạc, vậy bất luận có huy động lực lượng điều tra hùng hậu đến đâu đi chăng nữa thì cũng chỉ như mò trăng đáy nước* mà thôi.

Vì vậy hết thảy đều dựa theo dự đoán của Ứng Sùng Ưu mà tiến triển. Dương Thù cũng hoàn mỹ đóng trọn vai của mình, ngày nào cũng khổ sở khóc rống trước linh cữu của Thái hậu. Mạnh Thích Thanh xưa nay biết bọn họ mẫu tử tình thâm, do đó không mảy may nghi ngờ.

Ngày mười tháng mười là đầu thất* của Thái hậu, quần thần theo quy lễ đến tế điện cúng bái.

Hoàng đế ngồi trước linh vị, sắc mặt tái nhợt, hai mắt thâm quầng, dường như đã nhiều đêm không chợp mắt, thần khí phờ phạc vô cùng. Khi các đại thần nhất tề quỳ xuống khóc than, hắn vẫn gục mình bên quan tài, nức nở rền rĩ, lại còn đập đầu liên hồi lên nắp quan, đập đến tóe máu.

Mạnh Thích Thanh thân là Quốc sư chủ tế, đành phải tiến lên ân cần khuyên nhủ: “Thái hậu nay đã quy tiên, thỉnh hoàng thượng cố nén bi thương.”

Dương Thù đầu tóc rối tung, gắng nén tiếng khóc, nghẹn ngào nói: “Thái hậu mặc dù đã thành tiên, nhưng trẫm thân là nhân tử cũng không thể không làm tròn nhân sự. Thảm kịch đêm đó đều do Cấm quân cứu giá bất lực, chẳng lẽ Quốc sư cũng không trừng phạt ư?”

Mạnh Thích Thanh giật mình, nói: “Cấm quân thất trách, đương nhiên sẽ có xử trí thích đáng, bệ hạ cứ yên tâm.”

Dương Thù lạnh lùng phản bác: “Tội lớn như vậy, gán cho hai chữ ‘thất trách’ là xong sao? Trẫm thấy Trưởng Phó thống lĩnh Cấm quân tổng cộng tám người, đều lôi ra xử tử răn đe hết đi.”

Tuy nói Dương Thù chưa từng tự mình chấp chính, nhưng hắn dù sao cũng mang danh Thiên tử chí tôn, một lời thốt ra tự nhiên là ý chỉ, huống chi Mạnh Thích Thanh còn muốn làm trò trước mặt văn võ quần thần nên cũng không thể trắng trợn bỏ ngoài tai lời của hắn. Có điều, tám tên thống lĩnh Cấm quân kia đều là tay sai đắc lực của Mạnh thị, giết một kẻ đền tội cũng đành, đòi chém hết là chém sao? Lúc này mới bác bỏ: “Thái hậu gặp nạn bỏ mình, thiên hạ đều bi phẫn, nhưng tám vị Tướng quân đều là công thần trụ cột, chưa điều tra kỹ càng sao có thể khinh suất xử trí? Thỉnh bệ hạ suy xét lại.”

Dương Thù làm con rối bấy lâu, chung quy không dám tự tiện phát ngôn, cho dù ngẫu nhiên có, cũng bị Mạnh Thích Thanh nhẹ nhàng trấn một câu liền thu hồi. Nhưng hôm nay không rõ là do hắn bi thương hay uất hận quá độ mà thần tình kích động, cử chỉ hung hãn, hai mắt đỏ lòe lòe, rõ ràng một bộ liều mình bằng được mới thôi. Quốc sư vừa dứt lời, hắn liền nổi giận đùng đùng, lớn tiếng quát: “Cấm quân không tận lực làm tròn trọng trách hộ vệ khiến Thái hậu bỏ mình, sự thật rành rành, còn suy suy xét xét cái gì?!”

Mạnh Thích Thanh thấy hắn quyết liệt như vậy, không khỏi chau mày, liếc xuống dưới điện đưa mắt ra hiệu.

Lập tức có vài tên quan viên tam phẩm tứ phẩm lật đật bước ra khỏi hàng, lần lượt khuyên can: “Bệ hạ, tình cảnh khi đó hỗn loạn, cũng chưa chắc toàn bộ đều là lỗi của Cấm quân, thẩm tra lại vẫn hơn.”

“Đêm đó Bắc phong dữ dội, quả thật không thể cứu vãn, thần nghĩ chúng tướng Cấm quân đã tận lực, dù có luận tội trừng phạt cũng không nên quá hà khắc, để tránh có kẻ đàm tiếu rằng bệ hạ bất công.”

“Thần cũng cho rằng bệ hạ không nên quá nôn nóng, có Quốc sư đại nhân chủ trì thẩm tra án này, ắt có thể an ủi Thái hậu dưới suối vàng.”



Nghe bọn người kia kẻ xướng người tùy nhịp nhàng đắc ý, Dương Thù phẫn nộ đến run lẩy bẩy, môi dưới cơ hồ đã bị cắnmuốn bật máu, ánh mắt thê lương quét qua đám triều thần vận hắc phục quỳ dưới điện. Tuy rằng trong đó có rất nhiều vị thần sắc nửa đau xót nửa sợ sệt, bất nhẫn liếc nhìn Dương Thù, nhưng dưới tầm mắt lãnh liệt của Mạnh Thích Thanh vẫn không một ai có dũng khí đứng lên tuyên bố “Thần tán đồng chủ ý của bệ hạ.”

Đợi hoài đợi mãi, Dương Thù rốt cuộc chẳng khác gì một quả bóng căng bị đâm nát, ngửa đầu cười thảm hai tiếng, đoạn gục xuống bậc thềm, lặng lẽ tuôn lệ, yếu ớt than: “Thái hậu trước khi tạ thế một ngày còn cùng trẫm tâm sự, nói muốn đi lễ Phật ở Kim Đỉnh bảo tự trên Tây Linh sơn, cầu chúc cho chúng sinh bình an. Nào ngờ chỉ sau một đêm đã hồn tiêu phách tán, không biết phiêu du nơi nào! Mẫu hậu… Người nghĩ cho thiên hạ, nhưng người đi rồi, thiên hạ còn có ai nghĩ tới người đâu…” Nói xong liền vật ra khóc lớn.

Mạnh Thích Thanh thấy Dương Thù đã có điểm nhượng bộ, cũng không muốn làm cho tình thế thêm nan giải, vội chớp lấy câu chuyện này. “Bệ hạ trước hết xin nén bi thương. Nếu Thái hậu lúc sinh thời có chí nguyện này, sau khi an táng ổn thỏa, thần có thể thu xếp pháp sự tại Kim Đỉnh tự, trước là siêu độ cho Thái hậu, sau là hoàn thành tâm nguyện của người.”

Lão vừa dứt lời, Dương Thù dường như nghĩ đến việc gì liền ngẩng phắt lên, một phen nắm chặt cánh tay lão, ngữ điệu dồn dập: “Không sai… Ngươi nói không sai… Mẫu hậu tuy rằng đã quy tiên, nguyện vọng của người vẫn còn đó… Mọi sự trẫm đều ủy thác nơi Quốc sư, trẫm nhất định phải đến Kim Đỉnh tự vì lão nhân gia quỳ lạy tụng kinh… Đúng rồi, pháp sự của quốc mẫu, thể theo quy lễ các thần tử cũng nên tham dự. Quốc sư đứng đầu quần thần, chuyến này có thể phiền Quốc sư suất lĩnh chúng thần cùng trẫm đồng hành không?”

Mạnh Thích Thanh mày lại nhíu, kiên nhẫn nói: “Một Kim Đỉnh tự nho nhỏ, làm sao chứa nổi nhiều người như vậy? Chỉ cần hoàng thân quốc thích đi theo, còn quần thần cúng tế tại gia là được rồi.”

Dương Thù nghiến răng, ánh mắt lại bắn ra nộ hỏa. Hắn cả giận nói: “Thái hậu là thiên hạ chi mẫu, các thần tử vì người quỳ vài ngày là hợp với lẽ thường, có gì quá đáng? Lúc sinh thời người sống giản dị đoan tĩnh, tạ thế rồi không thể cử hành tang lễ trọng thể sao?”

Mạnh Thích Thanh lạnh lùng nói: “Pháp sự của Thái hậu tuy rằng quan trọng, nhưng bệ hạ nghĩ có thể mang hết ngần ấy bá quan văn võ lên Tây Linh sơn sao?”

Dương Thù bị lão bắt bẻ đâm ra á khẩu, chỉ có thể thở hồng hộc, ngón tay bấu chặt lấy mặt đá hoa dưới đất, hồi lâu sau mới lẩm bẩm: “Nếu ngại đông người thì… chỉ cần quan viên từ tam phẩm trở lên hộ tống trẫm cùng Quốc sư thôi, vậy chẳng phải vẹn cả đôi đường rồi?”

Thấy thái độ Hoàng đế khác thường, cứ dây dưa không buông, Mạnh Thích Thanh âm thầm sinh nghi, nhưng biểu tình vẫn điềm tĩnh như cũ, bâng quơ đáp: “Chủ ý của bệ hạ, lão thần sẽ suy xét.”

Dương Thù còn định nói thêm, quan xướng lễ đã theo ám hiệu của Quốc sư the thé hô lớn: “Lễ tế chấm dứt, quần thần lui xuống——”

Nội thị quỳ hầu ở hai bên vừa nghe thấy, lập tức tiến lên nâng tay hai bên tả hữu của Dương Thù, cả đoàn vừa dìu vừa kéo hắn trở về tẩm điện. Nửa canh giờ sau, Mạnh Thích Thanh đến thăm dò, thấy hắn hóa ra đang nằm úp mặt trên giường khóc lóc, cũng chẳng muốn ngó ngàng tới nữa, chỉ phân phó hạ nhân trông chừng rồi xoay người đi ra ngoài, nào ngờ vừa đến cửa đại điện chợt nghe thái giám truyền báo: “Hoàng hậu nương nương giá lâm!” Lão bèn dừng bước, ngẫm nghĩ một lát.

Hoàng hậu Trầm thị vào cung đã hai năm, Mạnh Thích Thanh qua nhiều lần quan sát, đối với nàng cơ bản coi như vừa lòng. Đại Tướng quân Trầm Vinh là người có quyền có thế nhất trong phái cựu tướng của tiên hoàng, lại vì cuộc hôn phối này mà lòng trung với Mạnh Thích Thanh tăng thêm một bậc, càng khiến lão tin rằng khi đó lựa chọn không lầm. Có điều, vị Hoàng hậu này rõ ràng tuổi trẻ thể kiện, thời gian qua lại được thánh sủng tới tấp, thế nhưng không hề có hỉ sự. Chỉ có một lần, vào một năm trước, thái y từng chẩn ra hỉ mạch, nhưng hai tháng sau lại bất cẩn sẩy thai, sau đó cũng không thụ thai nữa. Mạnh Thích Thanh vốn mưu tính cho nàng sinh đại hoàng tử, đến lúc kế vị cũng không người dị nghị, nhưng lão âm thầm đánh giá một thời gian lại phát hiện tính cách của nữ nhân này không biết là do xuất thân tướng môn hay trời sinh vốn vậy. Sau khi nàng tiến cung, tâm tư đều trao trọn cho phu quân, một lòng nhu thuận theo hắn, mong được hắn yêu chiều, trừ lúc thi thoảng nháo ra chút sự tình ghen tuông tranh sủng vặt vãnh thì căn bản là một nữ nhân đơn thuần thiện lương, tuyệt không có tâm cơ. Nếu cùng nàng hợp mưu sinh Thái tử giả, đại sự bậc này biết đâu sớm muộn gì cũng có tin đồn ra vào, ngược lại còn hỏng việc, cho nên suy đi tính lại, cuối cùng lão chọn Đoan phi. Bất quá lúc này lại chính là lúc phải hảo hảo lấy lòng nàng một chút, kẻo trong tương lai bồi dưỡng tân hoàng, Trầm Tướng quân lại không phục mà sinh lòng phản nghịch.

Bởi vậy, Mạnh Thích Thanh trong khi đợi Hoàng hậu tiến vào, trên mặt đã thủ sẵn nụ cười ôn hòa.

Chỉ một khắc sau, Trầm Hoàng hậu một thân tang phục trắng muốt, mang theo vài cung nữ tùy thân vội vàng đi đến, ngẩng đầu vừa thấy Mạnh Thích Thanh đứng ngoài cửa điện, thần sắc tức thì kinh hãi. Trong hậu cung từ lớn đến nhỏ, từ Thái hậu đến cung nhân, đều thập phần nể sợ vị Quốc sư này, Trầm Hoàng hậu cũng không phải ngoại lệ. Nhác thấy lão, nàng liền chậm lại cước bộ.

“Tham kiến Hoàng hậu nương nương.” Mạnh Thích Thanh khom người thi lễ.

“Quốc sư không cần đa lễ. Không biết Quốc sư đang cùng bệ hạ nghị sự, vậy bổn cung trở về trước.”

“Nương nương không phải đi, bệ hạ hiện đang thương tâm, thật cần nương nương khuyên nhủ mà; trong hậu cung này ai mà chẳng biết người hoàng thượng coi trọng nhất là nương nương.”

Nghe xong lời ấy, Trầm Hoàng hậu lập tức lộ vẻ vui mừng, vừa mở miệng định nói, lại nghe tiếng thái giám lanh lảnh: “Quý phi nương nương giá lâm.”

Quý phi trong cung chỉ có một mình Đoan Quý phi đang mang long thai. Nàng từ trước đến nay là kình địch tranh sủng đáng gờm nhất của Hoàng hậu, nay lại mẫu bằng tử quý*, gần đây đúng là uy thế vô hạn; vừa nghe thấy nàng đến, Hoàng hậu cũng có chút mất hứng.

Cùng xuất thân tướng môn, Đoan Quý phi lại khác hẳn với Trầm Hoàng hậu cao lớn kiện mỹ. Nàng tựa như một bảo vật thanh nhã động lòng người, kiều mị nhập cốt, dung mạo lại khuynh quốc khuynh thành, có thể xưng đệ nhất trong hậu cung. Lúc này tuy nàng mặc tang phục, thắt lưng lại nở nang hơn xưa, nhưng vừa bước vào vẫn khiến người bất chợt cảm thấy xuân phong phơi phới.

“Ngươi tới làm gì?” Trầm Hoàng hậu lạnh lùng hỏi.

“Nghe nói bệ hạ đau thương quá độ, long thể bất an, muội muội đương nhiên tới vấn an rồi.” Đoan Quý phi cầm khăn lụa khẽ chấm khóe mắt. “Nào ngờ Hoàng hậu nương nương đã tới trước. Theo lệ lẽ ra muội muội phải thi lễ, có điều gần đây thân mình có điểm bất tiện, nương nương không nỡ nào trách cứ muội chứ?” Nói xong lại hướng sang Mạnh Thích Thanh cười khả ái: “Quốc sư cũng có mặt, thật vất vả cho ngài.”

Mạnh Thích Thanh hừ nhẹ một tiếng, lãnh đạm nói: “Quý phi nương nương ngọc thể nếu đã bất tiện, cần gì phải nhọc thân như vậy. Hoàng thượng nơi này đã có Hoàng hậu chiếu cố chu đáo, thỉnh nương nương hồi cung tĩnh dưỡng đi.”

Đoan Quý phi không ngờ Mạnh Thích Thanh lại đứng về phía Hoàng hậu, không khỏi sửng sốt. Nhưng nàng là một nữ tử cực kỳ thông minh lanh lợi, nhận được mệnh lệnh ẩn ý trong ánh mắt Quốc sư, lập tức trên mặt nở ra nụ cười yêu kiều. “Quốc sư nói phải, có Hoàng hậu nương nương chăm sóc thì còn gì phải lo nữa. Làm phiền nương nương, thần thiếp xin cáo lui.” Dứt lời, hơi cúi người, đoạn cùng cung nhân vây quanh rời đi.

Mạnh Thích Thanh lúc này mới quay lại nói với Hoàng hậu: “Nương nương yên tâm, chỉ cần có thần ở đây, nương nương lúc nào cũng là chủ quản lục cung, phi tần trong cung sau này vẫn phải nhờ nương nương quản giáo mới được.”

Trầm Hoàng hậu mở to mắt, gượng cười, cũng không rõ nàng có hiểu ẩn ý của vị Quốc sư chưởng quyền này hay không. Mạnh Thích Thanh chợt thấy phiền muộn trong lòng, không muốn nhiều lời nữa, bèn phất tay đi thẳng.

Thân ảnh của lão mất hút, đoàn người ngoài Chính Dương cung liền đi vào tẩm điện của Hoàng đế, cung nhân bên trong vội vàng quỳ xuống.

Dương Thù đang nằm trên nhuyễn tháp vừa rộng vừa lớn bên cửa sổ, chăn che kín mặt, thân mình run rẩy, dường như vẫn còn đang khóc.

“Hoàng thượng đã dùng bữa chưa?”

“Hồi bẩm nương nương, chúng nô tì đã chuẩn bị bữa trưa nhưng hoàng thượng không chịu dùng, chỉ uống qua một bát canh gà.”

“Được rồi, mang chút cháo lên, sau đó lui xuống đi.”

“Dạ.”

Thức ăn được đưa lên xong, cung nhân đều vâng lệnh lui hết ra ngoài. Vài tên thái giám được giao nhiệm vụ theo dõi âm thầm ở ngoài cửa sổ nghe lén một lúc, cũng không nghe ra việc gì quan trọng, bất quá là Hoàng hậu ôn tồn an ủi, còn Hoàng đế thỉnh thoảng sụt sùi kể lể mấy câu mà thôi.

Sau đó, Hoàng hậu lên tiếng gọi người vào thu dọn bàn ăn, sai thêm vài cung nữ bưng nước hầu hạ rửa mặt, lại pha một chung trà Bích Loa Xuân* thơm ngát, cuối cùng cũng trấn an được tiểu Hoàng đế thôi không khóc nháo nữa.

Nghỉ trưa thức dậy, Hoàng đế liền truyền chỉ triệu kiến Lễ bộ Thượng thư, thái giám vội hồi báo với Mạnh Thích Thanh, được lão đồng ý mới truyền vào Tây điện diện thánh. Đầu tiên là hỏi han việc chuẩn bị cho tang lễ của Thái hậu, sau liền mệnh cho Thượng thư sau khi quàn linh cữu phải sắp xếp đi Kim Đỉnh tự, còn đòi vương công hoàng thất phẩm cấp cao đi theo bồi giá.

Lễ bộ Thượng thư chưa thấy cái gật đầu cho phép của Mạnh Thích Thanh, nào dám tùy tiện đáp ứng Hoàng đế, đành phải khuyên mấy câu: “Xa giá mang nhiều người như vậy, chỉ e quấy nhiễu địa phương. Thái hậu nếu đã có chí nguyện vì con dân thiên hạ, ắt cũng không muốn nhìn thấy bệ hạ hao tài tốn của. Về chuyện tùy tùng quan viên đi theo, sau khi thần bẩm báo với Quốc sư, nhất định sẽ an bài chu toàn.”

Dương Thù hừ một tiếng, răn: “Đây là vì Thái hậu quỳ bái niệm kinh, nếu có gì sơ sót trẫm sẽ không tha. Lui xuống.”

Lễ bộ Thượng thư thở phào, dập đầu rời đi. Sau đó, Dương Thù lại sai người mang kinh Kim Cương* đến, ở trong phòng tịnh thân dâng hương, gọi Hoàng hậu mài mực, chính mình đích thân đề bút sao chép, chuẩn bị cho sau này làm pháp sự, những kẻ còn lại đều đuổi hết ra ngoài.

Nhận thấy bốn phía đã thanh tịnh sạch sẽ, Dương Thù hạ thấp giọng đắc ý nói: “Ái khanh, hôm nay trẫm ở tế điện biểu diễn vô cùng xuất sắc nha, đáng tiếc ngươi không có phúc xem.”

Ứng Sùng Ưu trừng mắt liếc hắn một cái. “Còn nói nữa, trưa này thần vừa bước vào liền thấy ngài úp mặt vào chăn mà cười! Khi đó Mạnh Thích Thanh còn chưa đi xa, ngài không biết cẩn thận một chút sao?”

“Người khác đều nghĩ là ta khóc mà, chỉ có ngươi nhìn ra ta đang cười thôi. Trước kia mỗi lần ngươi giả vờ ghen tuông đấu đá với Đoan Quý phi, ta đều muốn cười mà không được, chỉ biết dằn xuống. Lần này nha, có cái chăn che đầu, liền nhịn không nổi.” Dương Thù nói xong lại thấy buồn cười, kéo kéo tóc Ứng Sùng Ưu, nói: “Phu tử, còn nhớ dạo trước Tết Trùng Cửu* trong cung mở yến, ta khen Phù phi đàn hay, ban thưởng Hùng Hoàng tửu cho nàng ta, kết quả ngươi ở bên cạnh đột nhiên nũng nịu một câu ‘thần thiếp cũng muốn a’, làm ta sợ tới mức suýt té khỏi ghế…”

Mặt Ứng Sùng Ưu ửng đỏ, lập tức biện bạch: “Lúc đó Mạnh Thích Thanh ngồi nhìn chúng ta chằm chằm, thần bất quá giả vờ chút thôi, làm gì khoa trương như lời bệ hạ nói đâu?”

“Thật sự mà nói, hai năm nay chúng ta cùng nhau vượt qua không ít hiểm cảnh, nhưng ta thấy thử thách lớn nhất chính là những lúc Ứng phu tử ngươi làm nũng với ta, mà ta vẫn phải điềm nhiên như không…” Dương Thù vỗ ngực. “Ngẫm lại thấy bội phục mình thật!”

Ứng Sùng Ưu liếc mắt một cái, nói: “Bệ hạ yên tâm, thần nhất định dốc toàn lực giúp bệ hạ sớm vượt qua khổ ải. Không đầy vài ngày sau, ngài liền vĩnh viễn không cần đối phó với thử thách này rồi. Chỉ riêng vì mục đích này, ngài chẳng phải càng nên cẩn thận sao?”

Dương Thù nhíu mày, kiên định nói: “Ngươi cùng các vị ái khanh bên ngoài đã vì ta làm nhiều việc như vậy, ta tuyệt không cho phép mình đến bước này còn thất bại. Chỉ cần Mạnh Thích Thanh không nghi ngờ Thái hậu giả chết, kế hoạch của chúng ta đã thành công quá nửa rồi.”

“Tiểu Linh cùng Văn Nhi lần này hành sự rất gọn gàng, liên lạc giữa nội cung và Trương Tướng quân phía Cấm quân cũng thập phần suôn sẻ, đêm đó Bắc phong lại còn ào ào kéo tới, bệ hạ quả nhiên là được trời cao phò hộ nên vận khí mới tốt như vậy.”

Dương Thù cười ha hả: “Hơn nữa còn nhân cơ hội này thiêu đi vài tên nô tài đáng chết của Mạnh Thích Thanh trà trộn vào cung của mẫu hậu, chỉ tiếc là không thể trừ khử cả đám, thật là khiến người ta vẫn thấy chưa đủ thống khoái mà.”

“Những kẻ này nếu dễ dàng giết hết toàn bộ sẽ khiến người sinh nghi, trái lại chỉ chết vài tên, hơn nữa còn có hai vị công công trước nay luôn tháp tùng Thái hậu, rõ ràng nạn nhân có tâm phúc của Mạnh Thích Thanh, cũng có cung nhân một lòng một dạ với Thái hậu, như vậy mới có thể che mắt lão. Hôm nay Mạnh Thích Thanh có nghi ngờ đề nghị đi Tây Linh sơn của ngài không?”

“Lão cáo già ngoan cố đó, nhất cử nhất động của ta bị lão cân nhắc tới lui không thôi. Bất quá như vậy cũng tốt, dù sao mục đích của chúng ta vốn là khiến lão sinh nghi, hơn nữa còn phải nghi lầm.” Dương Thù vươn tay nắm lấy vai Ứng Sùng Ưu, kéo sát vào lòng mà ôm, cười cười: “Hoàng hậu ái khanh của trẫm, ngươi cứ yên tâm, kế sách này chúng ta phải hy sinh bao nhiêu khắc đêm xuân mới nghĩ ra được, Mạnh Thích Thanh được phép không trúng kế sao?”

Ứng Sùng Ưu chau mày vùng vẫy ra, gắt giọng: “Ngài lại thế nữa rồi. Mau chép kinh đi, kế sách dù chu đáo nhưng cũng phải hảo hảo thi hành mới được. Tình hình phụ thân thế nào?”

“Đúng như ước định, hôm nay trên tế điện Thái phó buộc một dây vải trắng trên tay trái, xem ra mọi sự không có vấn đề.”

“Hảo.” Ứng Sùng Ưu gật đầu. “Đêm nay ngài nghỉ lại Vĩnh Trĩ cung của Đoan Quý phi cũng đừng để lộ sơ hở.”

“Ai.” Dương Thù thở dài. “Không có ngươi bên cạnh, đêm nay lại ngủ không ngon rồi.”

Ứng Sùng Ưu cúi đầu, vờ như không nghe thấy những lời này mà chỉ xem như gió thoảng bên tai. Y im lặng mài mực, đến khi được nửa nghiên thì dừng lại, ngồi xuống ghế cạnh Dương Thù, giở sách ra đọc. Dương Thù cũng bắt đầu chép kinh Kim Cương, ngoại trừ chốc chốc ngoảnh sang liếc Ứng Sùng Ưu thì cũng không nói gì thêm.

Hai canh giờ trôi qua trong chớp mắt, thái giám bên ngoài lên tiếng thỉnh dùng bữa tối. Dương Thù cố ý trì hoãn một lát mới cùng Ứng Sùng Ưu đi ra.

Trong mắt của nội thị đứng một bên hầu hạ, Hoàng đế sau khi tịnh thất chép kinh, tâm tình so với lúc trước dường như có khá hơn, nhưng vẫn mặt ủ mày chau. Dùng xong bữa tối với Hoàng hậu, Hoàng đế gieo mình lên ghế, mắt mở to tựa như đang mông lung nghĩ ngợi việc gì, lại bất chợt xoay người ngồi dậy, khiến Hoàng hậu bên cạnh đang chuẩn bị đắp chăn cho hắn bị dọa giật mình.

“Người đâu, bãi giá Vĩnh Trĩ cung.” Vừa hoàn hồn, Dương Thù bỗng nhiên hạ chỉ, không thay y phục, cũng không phát hiện sắc mặt Hoàng hậu đột nhiên sa sầm, cứ thờ ơ một đường đi ra ngoài.

Ứng Sùng Ưu giả vờ đuổi theo vài bước, đoạn dừng lại, ôm bộ dáng ghen tức quay về Chính Dương cung.

Vĩnh Trĩ cung bên này, Đoan Quý phi được tin liền một phen mừng rỡ, gấp gáp thay xiêm y, trang điểm thành thập phần xinh đẹp mà vẫn thanh thoát tao nhã, uy nghi diễm lệ. Nàng nghênh giá ngay tại cung môn, vào đến nội điện lập tức phân phó hạ nhân dâng lên trà bánh.

Dương Thù ủ rũ lẳng lặng ngồi đó, trên mặt không có lấy nửa ý cười.

“Thái hậu đã cưỡi hạc quy tiên, hoàng thượng cũng nên bảo trọng long thể.” Đoan Quý phi ôn nhu khuyên nhủ. “Hiện giờ đang tang kỳ, thần thiếp không tiện thiết tiệc rượu vì hoàng thượng giải sầu, chỉ biết bỏ chút tâm tư, làm một ít điểm tâm có phong vị cho hoàng thượng, ngài ăn vài miếng, xem như không cô phụ tấm lòng của thần thiếp đi.” Nói xong liền tựa người vào, tay ngọc thon dài nõn nà cầm lấy một khối nhuyễn cao đỏ thắm, nâng đến bên miệng Dương Thù.

Dương Thù nhìn nàng, há miệng đón nhận, thuận tay kéo nàng vào lòng.

Đoan Quý phi cười khanh khách, lắc mình né tránh, thở gấp nói: “Đêm nay bệ hạ không đến tẩm cung của Hoàng hậu sao?”

“Không đi.” Dương Thù vươn vai. “Trẫm mệt rồi, nàng hầu trẫm nghỉ ngơi đi.”

Đoan Quý phi vội vàng đứng dậy, sai người bưng nước xông hương, hầu hạ Dương Thù rửa mặt, chính mình cũng gỡ xuống trâm cài, thay một bộ tơ y gần như trong suốt, mái tóc dài đen nhánh buông xõa, phong tình vạn chủng nằm xuống cạnh Dương Thù.

Thế nhưng không giống như mọi khi, Dương Thù tuy rằng vòng tay ôm lấy nàng, cảm giác lại rất miễn cưỡng, dù có hôn lên đôi môi đỏ mọng cũng chỉ qua quýt vội vàng, bộ dạng không chút hứng thú.

“Bệ hạ, có phải ngự thể không khỏe?” Đoan Quý phi ân cần hỏi.

Dương Thù nhắm mắt lại, ậm ừ một tiếng.

“Có muốn thần thiếp gọi thái y đến không?”

“Không cần, ngủ một giấc là được.” Dương Thù khẩu khí mặc dù ôn hòa, nhưng Đoan Quý phi vốn nhạy bén vẫn nghe ra ngữ điệu chừng như ẩn giấu khó chịu. Mắt nàng nhẹ nhàng đảo quanh, thử rúc mình sát vào người hắn hơn nữa, áp mặt cọ xát.

Quả nhiên, tuy rằng động tác cực khinh, nhưng phản ứng đầu tiên của Dương Thù chính là né tránh.

Chuyện này trước kia chưa từng có. Đoan Quý phi lập tức đoán được nội tình bên trong.

“Mấy ngày này túc trực bên linh cữu vất vả, khó trách hoàng thượng mệt mỏi như vậy. Hay là thần thiếp giúp hoàng thượng đấm lưng đi.”

Mày Dương Thù thoáng chau, nhưng lại nhanh như chớp giãn ra. Hắn miễn cưỡng cười nói: “Vậy làm phiền ái phi rồi.”

Đoan Quý phi ngồi dậy, vừa đấm được hai cái, đột nhiên ‘ôi’ một tiếng, gập người ôm bụng.

“Sao vậy?” Dương Thù không mặn không nhạt hỏi một câu.

“Còn không phải tiểu quỷ này nháo sao.” Đoan Quý phi cười đến ngọt ngào như mật, một bên kéo tay Dương Thù chạm vào bụng mình, một bên rũ xuống mi mắt tinh tế quan sát đối phương.

Ngón tay vừa tiếp xúc da bụng mềm mại thoáng chốc cứng đờ, biểu cảm tinh tế vụt qua trên mặt Thiên tử trẻ tuổi tỏ rõ hắn kỳ thật vẫn đang ép mình nhẫn nại. Bộ dáng này so với lần trước hắn hân hoan sung sướng giá lâm Vĩnh Trĩ cung phải nói là một trời một vực, không khỏi khiến Đoan Quý phi hồ nghi.

“Hoàng thượng, ngài thấy hài nhi của chúng ta sau này nên đặt tên gì cho hay đây?”

“Hãy còn sớm, đến lúc đó nói sau.”

Đoan Quý phi tuy rằng trong lòng sinh nghi, nhưng trên mặt vẫn cười tươi như hoa, ngả đầu lên vai Dương Thù, thỏ thẻ ướm lời: “Hoàng thượng, Mạnh Quốc sư mấy hôm trước tiến cung, nói hài nhi này là Thiên tử tương lai, đặt tên là chuyện rất khẩn yếu, cho nên ngài ấy thỉnh các vị đại sư thông thạo thuật số ở các nơi, tính toán cát danh cho nó, hoàng thượng thấy sao?”

Lần thăm dò này quả nhiên có hiệu quả. Dương Thù biến sắc, nhất thời bất nhẫn mà hất tay Đoan Quý phi ra, cả giận nói: “Nằm trong bụng của nàng, muốn gọi thế nào cứ gọi đi.”

Đoan Quý phi lập tức mở to hai mắt, lệ châu trong vắt dâng lên. “Hoàng thượng nói gì vậy, đây cũng là cốt nhục của hoàng thượng mà?” Nguồn :

Dương Thù sắc mặt tái xám, bật thốt lên: “Trẫm không có phúc khí này!” Nhưng lời vừa thoát khỏi miệng, hắn liền biết không ổn, lập tức trưng ra một vẻ tươi cười ôn hòa, vỗ về bờ vai Đoan Quý phi, dịu dàng nói: “Nàng cũng biết vì Thái hậu chết thảm mà nhiều ngày qua trẫm đã thương tâm như thế nào, tinh thần sa sút, tính tình tự nhiên sẽ không tốt, không phải muốn trút giận lên ái phi đâu. Nàng bảo dưỡng long thai quan trọng, tha thứ cho trẫm.”

Đoan Quý phi dịu dàng cười, nói: “Tâm ý của hoàng thượng thần thiếp hiểu được, chỉ hận không thể cùng hoàng thượng chia sẻ gánh nặng, nào dám tự thấy ủy khuất. Nếu hoàng thượng tinh thần không tốt, hay là uống một chén nhiệt thang an thần, ngủ một giấc, ngày mai thức dậy nhất định sẽ nhẹ nhõm hơn.” Nói xong vén chăn xuống giường, sai người đem lên nhiệt thang, tự mình thổi nguội, âu yếm chăm chút đến khi Dương Thù uống hết, lại nhỏ nhẹ vỗ về hắn một phen, ôm nhau mà ngủ.

Có lẽ liều nhiệt thang này thực sự công hiệu, nguyên bản Dương Thù thần tình bất nhẫn nhắm mắt không bao lâu liền hơi thở trầm ổn, từ từ chìm vào giấc ngủ, hơn nữa sau đó bị lay vài cái cũng không tỉnh.

Thấy Dương Thù đã ngủ say, Đoan Quý phi từ trên giường ngồi dậy, cắn môi đăm chiêu. Một hồi sau, nàng rón rén bước xuống giường, mang nhuyễn hài đi đến bàn viết ngoài ngoại điện, cầm bút viết nhanh vài câu, rồi gấp giấy lại thành một mẩu nhỏ, đi ra cửa thấp giọng gọi: “Thuận Thành đâu!”

Ngoài cửa vang lên tiếng động, một gã thái giám dáng người gầy gò vận hoàng y chậm rãi chạy vào, quỳ xuống hỏi: “Nương nương có gì sai bảo?”

“Giờ này ngươi còn xuất cung được không?”

“Hồi bẩm nương nương, giờ này cửa cung đã đóng.”

“Bổn cung có việc quan trọng phải nhanh chóng thông tri cho Mạnh Quốc sư, ngươi là người của hắn, chẳng lẽ bản lĩnh tùy nghi xuất cung cũng không có?”

Thái giám Thuận Thành cười hì hì: “Vừa rồi là nô tài theo quy củ mà nói thôi, nếu quả thật là đại sự, vì nương nương nô tài bằng mọi giá cũng phải hoàn thành.”

Đoan Quý phi cười nhạt, ném mẩu giấy xuống đất, phán: “Đem vật này giao cho Mạnh Quốc sư, trên đường đi phải cẩn thận.”

“Dạ, nương nương yên tâm.” Thuận Thành bò lên hai bước, nhặt mẩu giấy lên đoạn nhét kỹ vào túi ngầm trong ống tay áo, khom người lui ra.

Hai canh giờ sau, hai vị mưu sĩ tâm phúc trong Quốc sư phủ bị người từ trên giường gọi dậy, triệu tới Đông hoa thính*.

Mặc dù là mật đàm giữa đêm, nhưng Mạnh Thích Thanh đứng bên cửa sổ vẻ mặt vẫn âm trầm như cũ. Lúc này lão đã cảm giác được sóng ngầm cuồn cuộn muốn chấn nứt mặt băng, nhưng lão giả kinh nghiệm dạn dày này vẫn không lộ chút hoang mang lo lắng nào.

Trước cửa sổ có đặt một cái bàn cao, bày biện trà cụ cùng vài ba đạo văn thư, trong số đó có một mẩu giấy gấp nhỏ được vuốt phẳng phiu, trên ghi vỏn vẹn tám chữ:

“Việc của hoàng tự, hắn đã nghi ngờ.”

>Chú thích<

* Thụy y: áo ngủ.

* Thí sát: thí [弑] nghĩa là giết người có cấp bậc cao hơn mình, theo phong kiến là con giết cha mẹ, bề tôi giết quân thần…

* Mò trăng đáy nước: nguyên gốc là “kính hoa thủy nguyệt” – dịch sát nghĩa là hoa trong gương, trăng dưới nước – dùng để chỉ sự việc hư vô mơ hồ như ảo ảnh, như mò trăng đáy nước, ngắm hoa trong gương.

* Đầu thất: Tập tục dân gian Trung Quốc để tang người chết trong bảy bảy bốn chín ngày, gọi là tố thất (hoặc thiêu thất, trai thất). Theo lệ, cứ mỗi bảy ngày thì cúng một lần – bảy ngày đầu tiên chính là “đầu thất”.

* Mẫu bằng tử quý: còn được gọi là mẫu dĩ tử quý, nghĩa là mẹ nhờ con mà có địa vị vinh quang.

* Bích Loa Xuân: một trong thập đại danh trà của Trung Quốc, xuất xứ tại Giang Tô, tỉnh Tô Châu, ven Thái Hồ gần núi Động Đình nên còn được gọi là “Động Đình Bích Loa Xuân”. Tương truyền Hoàng đế Khang Hi tuần du đến Tô Châu, thấy nhánh cây trà cuốn lại như hình xoắn ốc (loa = ốc) nên đặt tên cho nó là Bích Loa Xuân.

* Kinh Kim Cương: một trong những bài kinh Phật có ảnh hưởng rất lớn trong Phật giáo Trung Hoa nói riêng và Đông Á nói chung.

* Tết Trùng Cửu: còn gọi là Trùng Dương, là một ngày hội dân gian Trung Quốc vào mùng chín tháng chín âm lịch hằng năm. Loài hoa được dùng để trang trí trong ngày này là hoa cúc. Ngoài lề: ngày lễ hoa cúc đẫm máu trong phim Hoàng Kim Giáp là Trùng Cửu.

* Đông hoa thính: phòng khách phía Đông.