Julia Yêu Dấu

Chương 10




Đến sáng hôm sau thì Jewel không thể chịu đựng thêm nữa. Cô phải biết được sự thật đằng sau lời nói của bá tước. Anh ta có giết vợ thật không? Có thể cô ấy đã chết trong khi sinh nở, và anh ta cảm thấy mình có lỗi? Cứ ngồi suy đoán thế này thật vô ích. Chắc chắn những người hầu biết hết mọi việc diễn ra trong nhà. Có cái gì đó khó chịu mà cô không thể diễn tả thành lời khi buôn chuyện về bá tước với những người được trả lương để phục vụ anh ta, nhưng cô không thể làm khác được. Cô cần phải biết.

“Emily,” Jewel ngập ngừng mở đầu vào sáng hôm sau khi cô hầu gái bước vào phòng cô, mang theo một khay điểm tâm đựng bình chocolate nóng bốc khói và những ổ bánh mì vỏ giòn tan. “Thật ngạc nhiên làm sao khi dễ dàng quen với sự xa xỉ như là ba bữa ăn ngon một ngày và nhiều hơn nếu cô muốn mà không cần phải nhấc ngón tay.”

“Vâng, cô Julia?” Emily đặt khay xuống chiếc bàn tròn cạnh cửa sổ. Jewel, trong chiếc áo choàng bằng lụa trắng, ngồi vào chiếc ghế bành được kéo đến gần bàn và chuẩn bị ăn. Emily rũ chiếc khăn ăn trải trên lòng cô và rót chocolate ra cốc trong khi Jewel phết bơ lên ổ bánh mì nóng và cắn một miếng với vẻ thích thú.

“Hôm trước tôi có nghe một chuyện khiến tôi thấy băng khoăng,” Jewel mở đầu một cách dối trá bằng một miệng đầy bánh mì. Nhìn lên Emily đang đứng bất động khi chờ cô chủ nói tiếp, Jewel sốt ruột lắc đầu. “Ôi, cô ngồi xuống đi! Nói chuyện thế này nghe kỳ nạ nắm.”

Đôi mắt màu nâu như màu mắt chó xpanhơn của Emily đã tròn càng tròn hơn. “Ôi không, cô Julia, tôi không thể! Nó không hợp khuôn phép!”

Jewel thở dài. Các gia nhân tuân thủ nghiêm ngặt những quy định được phép hay không được phép. Ví dụ như, Emily coi là quy tắc khi một quý cô phải tắm vào mọi tối trước khi đi nghỉ - một quy trình tắm rửa cẩn thận, hoàn toàn khỏa thân, ngâm mình trong nước nóng ngập đến cổ. Sau khoảng một tuần phản đối vô hiệu Jewel gần như cam chịu tuân theo. Cô thậm chí còn quen với sự im lặng của cô gái mỗi khi đến và đi trong khi cô đang mặc đồ hay đang cởi đồ. Và cô biết rằng Emily nghĩ là hợp quy tắc khi người hầu gái phải giúp cô chủ mặc và cởi quần áo. Jewel vẫn chưa chấp nhận chuyện đó, nhưng với sự kiện trì lặng lẽ của Emily cô đoán nó chỉ là vấn đề về thời gian trước khi cô khuất

“Ít nhất hãy ăng một miếng vậy,” Jewel lẩm bẩm, thất vọng, nhưng Emily từ chối lần nữa.

“Cảm ơn ý tốt của cô, cô Julia, nhưng nếu bà Johnson phát hiện ra tôi đang ăn uống cùng chủ nhân thì tôi có thể mất việc.”

Jewel đầu hàng và đi thẳng vào vấn đề chính. “Cô có biết vợ của bá tước nàm sao mà chếc không?”

Mắt Emily lại tròn xoe, và cô gái lo lắng hết nhìn trái lại nhìn phải như sợ có ai đang nghe lén.

“Bà ấy... bà ấy bị ngã.” Câu trả lời nhỏ lí nhí. Jewel ngoạm một miếng bánh mì phết bơ to và nhìn cô hầu một cách suy đoán trong lúc nhai.

“Tôi biết hẳn phải có nhiều hơn thế. Tôi muống cô nói cho tôi.”

Emily liếm môi. “Bà ấy, phu nhân Moorland, đi dạo vào một buổi sáng. Thường thì bà ấy đưa cả cô Chloe đi cùng, nhưng hôm ấy trời rất lạnh. Hôm đó vào đầu xuân, cách đây cũng đã gần hai năm, giống như bây giờ. Cô Chloe bị một cơn sổ mũi nhẹ nên bà để cô ở nhà. Bà Caroline cũng ở đây - bà ấy là bà của phu nhân Moorland. Thật buồn cười vì bà Caroline được gả vào gia đình này trước, cho anh trai của đức ngài, và lẽ ra bà ấy sẽ là phu nhân Moorland nếu cậu chủ Edward còn sống, nhưng ông ấy đã chết cho nên bà Elizabeth trở thành phu nhân. Thường thì bà Caroline hay đi dạo với phu nhân khi nào cô Chloe ở nhà. Nhưng vào buổi sáng đặc biệt đó, lão bá tước phu nhân, đang ở thăm để cố vòi được ít tiền của đức ngài, đã sà Caroline vào làng có công chuyện, cho nên phu nhân ra ngoài đi dạo một mình, và bà ấy không bao giờ quay về nữa. Tức là không còn sống nữa.”

Emily ngừng lời. “Vậy nàm sao bà ấy chết?” Jewel nôn nóng hỏi, ổ bánh mì lơ lửng trên tay vì cô quên cả ăn.

“Có một tu viện cổ nằm bên vịnh Wash, một phế tích thực sự,và phu nhân thường đi dạo ở đó. Vào ngày bà chết, người ta nói rằng bà đã leo lên tháp chuông. Không hiểu vì sao bà ấy... đã ngã xuống.” Emily lại ngừng lời, tỏ ra khiếp hãi. Nỗi sợ của cô gái mách bảo Jewel rằng còn có nhiều uẩn khúc trong câu chuyện này.

“Nói với tôi tất cả đi, Emily, đi mà. Lếu bà ấy chếc do một cú ngã, thì tại sao... tại sao ai cũng bảo rằng đức ngài đã giếc bà ấy?”

Emily trông vô cùng khổ sở. “Ôi, cô Julia, quả thật tôi không nên nói về chuyện này. Chúng tôi đã được căn dặn không bao giờ được nói về chuyện này.”

“Ai bảo cô thế?”

“Bà Johnson. Bà ấy bảo rằng không muốn có bất kỳ tin đồn nào về bá tước trong ngôi nhà này.”

“Tin đồn lào, Emily?” Jewel hỏi, sắp phát điên.

“Có người bảo là... có người bảo là đức ngài đã đ phu nhân khỏi ngọn tháp đó.”

Jewel nhìn chằm chằm Emily một hồi lâu. “Sao người ta nại nói thế? Đức ngài ở bên bà ấy núc bà ấy ngã sao?”

Emily lắc đầu. “Không, cô ạ. Ít nhất ông ấy không ở cùng phu nhân lúc phu nhân ra khỏi nhà. Nhưng mỗi khi hẹn hò thì họ hay gặp nhau ở cái phế tích cổ ấy, trước khi lấy đức ngài phu nhân sống ở gần đó. Còn đức ngài... ờ, đức ngài và phu nhân có những mối bất hòa.”

“Thế không có nghĩa nà ông ta đã giết bà ấy.” Jewel phẫn nộ một cách kỳ lạ khi nghĩ đến việc nỗi đau của bá tước chỉ dựa trên một giả thuyết mơ hồ đến vậy.

“Không.” Emily bắt đầu nhiệt tình nói. “Nhưng có những căn cứ khác. Ông bác sĩ nói cách phu nhân rơi xuống đất không giống như bị ngã đơn thuần. Bà rơi ra ngoài quá xa, như là bị đẩy. Và bà ngã ngửa, không phải úp sấp bụng. Và một trong những thằng bé nhà ông tá điền nói rằng nó đã trông thấy ai đó - nó nghĩ đấy là đức ngài vì nó thấy người đó có mái tóc vàng - đi vào tu viện cùng phu nhân ngày hôn ấy. Và ai nấy điều biết rằng đức ngài và phu nhân có nhiều mâu thuẫn. Cái cách mà họ nhìn nhau khiến người khác lạnh sống lưng. Như là họ căm ghét nhau vậy. Có lần tôi nghe thấy phu nhân nói với ông ấy rằng ông không xứng làm một người cha, và đức ngài đáp lại điều đó làm họ thành một cặp xứng đôi vì bà không xứng làm một người mẹ. Họ không nói chuyện với nhau mấy tuần liền, và đức ngài đi lên London. Ông chỉ trở về trước khi bà chết độ một tuần. Và họ hẳn đã có một cuộc cãi vã tồi tệ vì phu nhân không ở cùng một phòng với đức ngài nữa. Chẳng ai trong chúng tôi biết được những mâu thuẫn đó là gì, và tôi đoán là không ai ngoài bá tước biết cả. Và tôi cầu cho ai đó may mắn moi được thông tin gì từ ông.”

Emily lúc lắc đầu để nhấn mạnh. Jewel nhìn sững Emily, thậm chí quên cả ăn với điều vừa nghe được. Bá tước đã giết vợ mình thật sao? Tất nhiên là không! Giống như nhiều người khác, cô đang để trí tưởng tượng của mình túm lấy những sợi tơ của tin đồn và lời ong tiếng ve để dệt thành cả chiếc áo. Bằng chứng chống lại bá tước mà cô nghe được là cực kỳ mong manh.

“Vậy đức ngài có bị buộc tội giết người không?” Tâm trí Jewel chùn lại trước hình ảnh ngài bá tước cao quý bị giải đến trước tòa đại hình Old Bailey. Emily lắc đầu.

“Người ta bảo là không đủ bằng chứng để buộc tội. Thứ nhất, thằng bé đã khẳng định nó trông thấy đức ngài đi vào nhà thờ cùng phu nhân mới có tám tuổi. Ngài chánh án trong cuộc điều tra nói rằng không một bồi thẩm đoàn nào kết án được người đàn ông dựa trên lời khai của một thằng bé ở tuổi đó. Và ông ấy bảo, chỉ vì người chồng và vợ có những mâu thuẫn không có nghĩa là người chồng phạm tội sát nhân. Và còn có cả thầy dòng nữa.” Emily dừng lại ra vẻ quan trọng.

“Thầy dòng lào?” Jewel hỏi dù biết Emily đang nhử mình.

“Vấn đề là ở đó. Không có thầy dòng nào cả. Tức là thầy dòng bằng xương bằng thịt ấy. Mọi người đồn đại đó là hồn ma của thầy dòng Benedict, một trong những thầy dòng áo trắng sống trong tu viện cổ cách đây ba trăm năm. Ông ấy được cho là kẻ thù ghê gớm nhất của bá tước đời thứ nhất, người được nữ hoàng Elizabeth ban thưởng toàn bộ vùng lãnh thổ trước đó vẫn thuộc về tu viện. Thầy dòng Benedict cự tuyệt không chịu rời khỏi tu viện khi bá tước đời thứ nhất ra lệnh đuổi họ đi, và bá tước đã xử lý bằng cách treo cổ ông ta. Và tòa nhà này được xây dựng trên chính nơi diễn ra chuyện đó. Từ đó trở đi, một thầy dòng áo trắng hay hiện ra trước mắt mọi người quanh đây mỗi khi có thành viên trong gia đình Peyton sắp sửa qua đời. Họ bảo rằng ông ta tới để mang kẻ thù cùng đi với mình vào cõi chết. Nó đã diễn ra trong gần ba trăm năm cho tới giờ mà chưa lần nào sai. Người ta kể rằng thầy dòng áo trắng đã hiện lên ở chỗ tu viện cổ trước khi cậu chủ Edward bị giết trong một tai nạn đi săn, và có người trông thấy ông ta trước khi bá tước già qua đời. Và vài người, bao gồm cả Martin, người hầu chính, trông thấy ông ta trước phu nhân chết. Ngay trong ngôi nhà này, cô Julia ạ.” Emily ngừng lời, mắt mở lớn, hiển nhiên là sợ hãi một cách thích thú trước câu chuyện của chính mình.

“Vậy cái gọi nà thầy dòng áo trắng có vai trò gì trong việc đức ngài không giếc vợ?”

Emily, đã cúi xuống gần hơn và chống cả hai tay lên chiếc bàn nhỏ trong lúc say sưa kể về truyền thuyết kia, lại thẳng người lên. “Ngài chánh án không tin vào hồn ma thầy dòng nào hết. Ngài nói nếu có rất nhiều người nhìn thấy, thì đó là vì ai đó đã ăn mặc giống thầy dòng. Và đến khi nào có người có thể chứng minh được ai là người mặc áo thụng trắng, lảng vảng quanh tu viện cổ và ngôi nhà này - đức ngài có thể giải thích mình đang ở đâu mỗi lần thầy dòng xuất hiện, mặc dù đức ngài nói ông đang cưỡi ngựa bên ngoài lúc phu nhân gặp nạn - sau đó, nếu như ngài ấy quy cho ai đó tội giết người thì ngài ấy thật không phải. Cho nên ngài ấy bảo cái chết của phu nhân chỉ là một tai nạn. Điều đó khiến cha của phu nhân nổi điên thực sự, và ông ta không bao giờ nói chuyện với bá tước sau chuyện đó. Hầu hết mọi người nghĩ ông ta chính là người bắt đầu phao tin bá tước đã giết phu nhân. Nhưng Ngài Tynesdale già cả đã chết hồi năm ngoái, và những lời đồn thổi cũng chết theo ông. Tuy vậy mọi người vẫn nhớ.”

Jewel cắn ổ bánh mình còn thừa, một nếp nhăn hằn giữa đôi lông mày khi cô thu nạp tất cả những gì vừa được kể. Cái đoạn về hồn ma của thầy dòng áo trắng làm cho cô sợ. Nhưng cô không thể hình dung ra hình ảnh ngài tước mặc áo thụng trắng của thầy tu và đi quanh vùng. Ý nghĩ quá lố bịch đến nỗi không thể xảy ra đó khiến cô cảm thấy khá hơn. Dĩ nhiên anh ta chẳng làm chuyện gì như thế, cũng như không ném vợ mình khỏi ngọn tháp. Thậm chí điều đó quá ngu ngốc để mà suy đoán.

“Tôi giúp cô mặc quần áo nhé, cô Julia?”

Trong khi Julia mải nghĩ, Emily đã lấy trang phục hôm nay của cô. C hỏi được thốt ra bằng một giọng hy vọng, nhưng Jewel không hề lưỡng lự mà lắc đầu quầy quậy.

“Tôi có thể tự xoay sở được, cảm ơn.” Rồi khi Emily, vẻ mặt thất vọng, bắt đầu đi ra khỏi phòng, thì Jewel gọi giật cô gái lại.

“Cái tu viện ấy ở hướng nào, hả Emily?”

“Cô không muốn đến đó đâu, cô Julia! Nó...”

“Tôi chỉ muốn trong thấy ló thôi. Ngưỡn mộ một di tích ấy mà, cho nên hãy nói đi.”

Emily trông ngờ vực, nhưng cô gái cũng chỉ đường cho Jewel. Jewel cho Emily lui kèm theo một câu cảm ơn nữa, và mặc quần áo vào. Chưa đầy nửa giờ sau cô đã rảo bước trên con đường trống toàn thạch nam hướng về vịnh Wash.

Những cây thạch nam vẫn còn ướt hơi sương, tỏa ra mùi hương ngọt ngào mỗi lần váy cô quệt vào một lùm cây xanh cứng cáp. Những khóm đỗ quyên rậm rạp với đủ màu sắc từ đỏ thẫm tới hồng rồi trắng mọc lộn xộn dọc theo con đường mòn đã bị mài nhẵn bởi nhiều thế hệ những bước chân đi qua. Những rừng thông mọc lên trải dài tới tận đường chân trời phía tây, trong khi ở phía đông mặt đất đã sụt xuống để tạo thành những vách đá trông ra vịnh Wash.

Jewel bước dọc theo con đường nằm bên mép vách đá, kinh ngạc trước mùi muối trong lành của biển và vẻ đẹp hùng vĩ của những con sóng xô vào ghềnh đá lởm chởm phía dưới. Những con mòng biển và nhạn biển lượn vòng trên nền trời xanh nhạt trên đầuêm những tiếng rít inh tai của chúng vào tiếng gầm gào của biển. Đối với một cô gái chưa bao giờ ra khỏi London, sự hùng vĩ của một không gian rộng mở và vẻ đẹp thiên nhiên thật là đáng kinh ngạc.

Sau khoảng hai mươi phút đi bộ hăng hái, Jewel trông thấy tòa tu viện cổ. Cái kết cấu hai tầng bằng đá đã đen sẫm lại bởi tuổi tác phủ kín dây leo và rêu. Rõ ràng vịnh Wash ngày càng lấn sâu vào đất liền vì tu viện nằm ngay trên mép vách đá. Bức tường ngoài cùng của nó đã đổ xuống biển từ lâu. Chỉ có tháp chuông ba tầng là còn nguyên vẹn ở phía bên kia, nhưng lại có thể sập bất cứ lúc nào vì tháp chuông chỉ tựa trên một gờ đá nhỏ.

Jewel cảm thấy một ngón tay lạnh ngắt đang lần theo sống lưng cô khi cô nghĩ cái lỗ hổng hình vòm kia hẳn đã từng có một cái chuông lớn là nơi mà Elizabeth ngã xuống. Jewel rùng mình khi đi vòng sang bên kia khu phế tích, bước qua những khối đá lởm chởm rơi xuống từ những bức tường nguyên vẹn nằm trong đất liền. Có một làn khí lạnh ở nơi này mà không liên quan gì đến nhiệt độ thời tiết.

Phía sau tu viện, sát những vách đá nhô ra biển là một nghĩa trang nhỏ. Chỉ có một vài tảng đá để đánh dấu mộ phần. Nhưng Jewel đoán là nhiều tảng đá đánh dấu mộ đã bị thất lạc cùng thời gian. Cái bóng của tháp chuông ngả xuống những ngôi mộ, và Jewel lại run lên lần nữa. Nơi này vừa làm cô sợ vừa khiến cô mê mẩn.

Jewel chỉ định ngắm nhìn cái phế tích thôi, nhưng khi cô trông thất một lỗ hổng nhỏ hình vòm trên tường, cô không thể cưỡng lại thôi thúc muốn vào trong. Leo qua một đống đá phủ rêu, cô đứng tại một khung cửa và nhìn quanh. Rõ ràng căn phòng nhỏ này đã từng là nhà nguyện. Những cửa sổ tò vò còn sót lại mở cả về phía đất liền và phía biển, và trên đỉnh một ô cửa vẫn giữ lại vài mảnh vỡ của kính màu hồng ngọc. Mặt trời chiếu xiên qua tấm kính hắt một tia sáng đỏ xuống một cái hốc hình vòm khoét vào mặt đá xù xì của bức tường phía trong. Từ vị trí của nó thì đằng sau hẳn là nơi đã đặt bệ thờ, cô đoán nó đã từng có một bức tượng, có lẽ là Chúa Jesus hoặc đức mẹ Mary.

Ý nghĩ những thầy tu đã chết từ nhiều thế kỷ quỳ gối cầu nguyện trong nhà nguyện này đem lại cảm giác rờn rợn. Nhưng tệ hơn là ý nghị Elizabeth chắc chắn đã nhiều lần bước qua căn phòng này khi còn là một cô bé ưa khám phá, là một quý cô trẻ khi gặp Sebastian, và là một người đàn bà khi chết. Đó là một ý nghĩ sởn gai óc, và Jewel định lui ra với sự ấm áp của mặt trời thì cô nghe thấy tiếng ai đó đang khóc. Cô cứng đờ người, lắng nghe chăm chú. m thanh nghèn nghẹn, khó có thể nghe rõ, nhưng không thể nhầm lẫn: người nào đó - hoặc thứ gì đó - đang thổn thức.

Jewel cảm thấy tóc dựng lên sau gáy. Âm thanh đến từ đâu đó ở bên trên, và trong một khoảnh khắc khủng khiếp cô mường tượng ra hình ảnh hồn ma của Elizabeth đang khóc trên tháp chuông nơi cô ta đã rơi xuống chết. Nhưng cô xua ngay ý nghĩ lố bịch đó đi, tất nhiên rồi, chắc chắn là có người đang ở trên đó, và dù là ai trên ấy thì cũng đang khóc nức nở.

Không cưỡng lại được mà đi tới, Jewel bước qua một khung cửa nhỏ bên cạnh cái hốc hình vòm và nhận ra mình đang ở ngay trong tháp chuông. Nhựng bậc thang được đục vào đá uốn khúc lên phía trên. Jewel lưỡng lự, mọi bản năng trong cô thúc giục cô chạy bay ra ngoài nơi có ánh nắng mặt trời, nhưng âm thanh của tiếng khóc kéo cô lại. HIển nhiên là tiếng khóc đến từ căn gác nơi từng để tháp chuông, và nó nghe thương tâm. Dù là ai trên đó thì cũng đang đau khổ tận sâu thẳm tâm hồn.

Jewel không thể cưỡng lại. Cô phải biết liệu đó có phải hồn ma của Elizabeth không, hoặc một người sống, một người con gái đang có chuyện buồn. Bởi vì những âm thanh đó chắc chắn là của phụ nữ. Khi cô leo lên trên, cẩn thận tránh bị trượt chân trên những bậc thang mòn vẹt đầy rêu, cô cảm thấy những dây thần kinh xoắn lại thành một cuộn trong người.

Một ánh sáng vàng ấm áp hình như đang tỏa ra từ gác chuông bên trên. Jewel giương đôi mắt m nhìn lên ánh sáng rực rỡ tràn ra qua nơi đã từng là cửa sập và giờ đây chỉ là một lỗ hổng trên nền đá, tự hỏi trong khiếp sợ là liệu đây có phải một kiểu hiện hình của hồn ma hay không. Ngay khi tim cô bắt đầu nảy lên tận cuống họng, cô nhận ra đó là ánh nắng đang tràn qua căn gác trống nơi chiếc chuông từng ngân lên.

Tiếng khóc dần dần to hơn và dễ nhận ra hơn. Một lần nữa Jewel lại có cảm tưởng về một nỗi đau xé lòng. Rồi cô cẩn thận thò đầu qua lỗ hổng và thấy ánh nắng đang phản chiếu rực rỡ trên một mái đầu nhỏ vàng óng.

Chloe. Đó là Chloe đang nằm co ro trên sàn, cuộn lại trong tư thế bào thai với đầu rúc vào hai đầu gối. Chiếc áo choàng nhung màu rượu vang phủ kín cô bé như một tấm chăn, và thân hình bé nhỏ rung lên với lực ép của những tiếng nức nở.

Jewel cảm thấy trái tim mình thắt lại. Hình ảnh một bé gái khóc nơi mẹ nó đã chết làm quặn thắt tâm hồn cô. Cô lặng lẽ chui hẳn qua lỗ hổng, rồi di chuyển để quỳ xuống bên cạnh đứa trẻ đang thổn thức.

“Chloe,” Jewel khẽ khàng nói, bàn tay đưa ra để chạm vào mái tóc rực rỡ của cô bé.

Đứa trẻ ngẩng phắt đầu lên, đôi mắt nó to tròn và đẫm nước, chói mắt bởi ánh nắng mất một lúc khi nó chớp mắt nhìn Jewel. Đó là ánh mắt vui mừng khôn xiết trên gương mặt bé nhỏ đến mức Jewel lập tức nhận ra trong một thoáng ngắn ngủi là Chloe đã nghĩ là mẹ nó đang quỳ bên cạnh nó. Rồi mắt đứa bé nheo lại trước ánh nắng, và miệng nó méo xệch đi. Nó bật dậy, phát ra một tiếng kêu giận dữ. Khi Jewel cố nắm lấy nó, để ôm và an ủi nó, thì nó đẩy cô ra với một sức mạnh khiến Jewel ngã ngửa ra sàn.

“Chloe, đợi đã!”

Nhưng đã quá muộn. Trước khi Jewel có thể đứng lên, cô bé đã biến mất qua cái cửa sập. Jewel chỉ có thể nghe thấy tiếng lộp cộp mà đôi chân đi dép lê gõ trên cầu thang khi nó chạy đi mất.