Kim Sơn Hồ Điệp

Chương 82: Công viên Cổng Vàng (4)




Chuông điện thoại reo vào lúc chín giờ rưỡi tối San Francisco. La Văn vẫn cứ như thường, đến tối thứ bảy là tới hội đồng hương Tân Ninh đánh bài, A Phúc đã ngủ, Vân Hà vẫn chưa về, trong tiệm chỉ có một mình Hoài Chân.

Trước lúc điện thoại đổ chuông, một chiếc tàu chở hàng từ Trung Quốc cập bến. Từng thùng hàng do cư dân trên phố người Hoa mua ở quê được xe tải vận chuyển đến phố người Hoa. được Vì trong số hàng hóa có rất nhiều rau dưa trái cây, nên không thể chậm trễ đưa tới vào ngày hôm sau được. Người giao hàng của công ty vận chuyển P.H Dụ Hải đưa hàng hóa đến đầu phố Grant Ave, đứng ở giao lộ thổi kèn, lớn giọng đọc to tên họ của người nhận. Hoài Chân ngồi đằng sau quầy, mắt thấy các cửa sổ mỗi nhà vừa tắt đi lại sáng lên, những cô gái hoặc các dì mặc đồ ngủ màu hồng màu trắng lê dép vội vã chạy từ trong nhà tới cây bồ kết ở đầu hẻm.

Tên La Văn cũng được xướng lên. May mà tiệm giặt A Phúc cách cây bồ kết không quá xa, người giao hàng nhìn thấy cô dáng người bé nhỏ, bèn giúp cô chuyển hai thùng hàng đến ngoài cửa tiệm A Phúc, bảo cô kiểm tra xem. Nếu không phải nhờ thế thì cô đã bỏ qua cuộc điện thoại kia.

Cô vừa dùng tiếng Anh nói “xin chào” thì đã không còn tâm trí để tâm đến nội dung trong ống nghe. Vì người giao hàng đã kéo một chiếc túi nhăn nhúm, gần như nổi mốc ở dưới đáy thùng lên, bụi gần như bay lên mặt cô.

Người giao hàng nói bằng tiếng Quảng: “Ngọ tì gúi pồi sàng gè. Sàng lợi mìng dáu dắt ti xi xù… Lị dim ngm di ngọ cấu ma?”

(Chúng tôi sẽ bồi thường, bởi vì trong thùng có tơ lụa… Cô hiểu ý của tôi không?)

Cô bị mùi cơ thể xộc đến làm gần như tắt hơi, gật đầu đáp, “Tôi hiểu tôi hiểu.”

Có chớp mắt đầu óc Hoài Chân bị chạm điện, không kịp đổi qua tiếng Anh mà dùng luôn tiếng Quảng nói vào đầu dây: “Néi tấu dáu dím moong, gaa ngm gaa di…” (Hoài Chân muốn nói là “có hơi bận, có thể chờ một lát không?”)

Người ở đầu dây cũng trả lời bằng tiếng Quảng: “Anh đợi em.”

Lần đầu tiên gặp nhau, Hoài Chân nghe anh dùng tiếng Quảng Đông nhạo báng, nên cô khắc sâu giọng tiếng Quảng của anh hơn là tiếng Anh và tiếng Đức, nên gần như trong nháy mắt đã nhận ra ngay.

Ban đêm gió lớn thổi vù vù trên phố, Hoài Chân run rẩy. Ở đầu dây bên kia rất ồn, có một cây vĩ đang kéo bài nào đó đại diện cho trường phái cổ điển Vienna, xen lẫn với đó là tiếng nói chuyện ồn ào, giống như đang ở trong một nhà hàng cao cấp hoặc một quán bar đêm.

Anh không nói tiếp, Hoài Chân cũng không cúp máy. Trong tay cô cầm tờ hóa đơn La Văn để lại, chỉ có thể kẹp điện thoại giữa bả vai và mặt. Nếu cư dân trên phố người Hoa đi ngang qua thì sẽ thấy, vào chín giờ rưỡi, cô con gái nhỏ của tiệm giặt A Phúc đi dép lê đứng trên bậc thềm ngoài ngưỡng cửa, kéo dài dây điện thoại treo tường.

Người giao hàng lấy hai chiếc khăn trải giường thêu lụa và hai tấm màn thêu lụa ở trong một thùng ra, ngoài ra còn có vải gấm và vải nhung được mua từ Thượng Hải cho để may quần áo, ghi lại mức độ nhiễm bẩn trên hóa đơn, từ đó báo cáo lại tổn thất với công ty vận tải.

Lại mở một chiếc thùng khác ra, lấy một túi su hào, đậu bắp, bắp cải Quảng Đông, tỏi tây và bí đao ra. May mắn chính là, hàng hóa trong chiếc thùng này không bị sứt mẻ gì.

Hai thùng hàng báo giá ở hải quan là 24 đô la, người giao hàng ghi đơn bồi thường 8 đô ra, nói với cô là La Văn cần phải cầm thẻ căn cước đến công ty vận chuyển đường thủy nhận. Vừa xé biên lai, anh ta vừa trách móc: “Ai lại để đồ ăn dưới đáy thùng chứ?”

Hoài Chân cũng đại khái đoán được ý đồ La Văn làm thế, cô đỏ mặt luôn miệng cám ơn người giao hàng, trong lòng hơi xấu hổ.

Đợi người của công ty rời đi thì trên bến tàu đổ chuông mười giờ.

“Mẹ em mua ít rau dưa và vải vóc ở trong nước,” Cô sực nhớ đến anh vẫn còn ở bên kia, bèn cầm ống nghe nói, “Chắc New York đã một giờ sáng rồi nhỉ.”

Anh nói, “Anh ở Falmouth.”

Hoài Chân ơ lên, “Falmouth ở Anh ư?”

Anh cười, “Falmouth ở Caribbean.”

Trên tường ở tiệm giặt có dán một tấm bản đồ, cô tìm kiếm ở trên đó một lúc, “Có thể môn địa lý ở trường em chưa học đến…”

“Nhưng em biết ở Anh có một Falmouth.” Anh nghe thấy tiếng lật bản đồ, bèn nhắc nhở, “Nhìn xuống phía Nam Boston đi.”

“Em thấy Plymouth.”

“Xuống phía Nam nữa.”

Tay Hoài Chân trượt dọc xuống trên bản đồ, từ đảo Martha’s Vineyard lui về, cuối cùng cũng thấy nét chữ Falmouth bé nhỏ trên mũi bán đảo. Trong quá trình di chuyển, cô ấy thấy một loạt các cái tên Exeter, Bristol, Hannover, Lisbon và tên các thành phố châu Âu khác lần lượt xuất hiện trên bản đồ bờ Đông nước Mỹ, thành phố lớn nằm xung quanh các góc nhỏ.

“Falmouth ở Mỹ.” Hoài Chân bật cười.

“New England thú vị lắm đúng không?”

“Em tưởng anh đến đại lục châu Âu hay Jamaica rồi chứ.”

“Falmouth với em còn chưa đủ xa sao?”

Không biết vì sao, từ lời nói hờ hững lạnh lùng của anh, Hoài Chân lại nghe ra ý bất mãn và oán niệm mãnh liệt.

Đương nhiên là xa rồi, còn xa hơn từ San Francisco đến Long Island, là khoảng cách giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương.

“Ban đêm ở thị trấn…” Cô lục lọi mọi từ tiếng Anh trong đầu, nhưng cố mấy cũng chỉ tìm được một từ tiếng Đức, “Rất langweilig.”

Ceasar bỗng bật cười, “Đúng thế, rất langweilig.”

Hoài Chân không biết anh cười gì, chỉ biết hình như anh vui lại rồi.

Cô hỏi, “Chơi với bạn ở quán bar hả?”

“Anh tự ra ngoài. Tìm một câu lạc bộ gọi điện cho em, muốn biết gần đây em thế nào rồi, có…”

Hoài Chân nhớ lại lần trước ở ngay trước mặt La Văn mà anh dám giở giọng mập mờ đồi trụy, thế là cô ngắt lời anh, “Gần đây vẫn đang làm việc, hai tuần nay bận lắm.”

“Ừ, lần trước gọi đến có giọng nữ nghe máy. Anh hỏi có em gái ở đấy không, người đó nói ngày nào em cũng ra ngoài làm việc, gần đây không nghe máy trong cửa tiệm nữa.”

“Có lẽ là chị hoặc mẹ em…”

Có người da trắng cao to đứng ngoài gõ cửa, chỉ vào túi quần áo trên mặt đất, đợi cô đi đến kiểm tra.

Hoài Chân đành nói với anh, “Có khách đến rồi.”

“Cuối tuần sau em có ở đây không?”

“Cuối tuần sau sao? Có một chị gái từ Thượng Hải đến sắp kết hôn, ở công viên Cổng Vàng, chị ấy mời em và chị cùng đi…”

“Tham gia hôn lễ?”

Người da trắng ở cửa thúc giục, lớn tiếng nói mấy câu trách móc.

Cô đành xin lỗi Ceasar ở đầu dây và khách ngoài cửa, sau đó đặt ống nghe điện thoại lên bàn, đi đến cửa nhặt quần áo lao động ướt đẫm mồ hôi thúi rình và áo sơ mi trong túi ra, lại mỉm cười để xoa dịu vị khách thiếu kiên nhẫn, “Thợ mộc thành phố nhiều việc lắm đúng không? Tôi thấy gần đây các anh toàn làm việc đến khuya.”

Người da trắng vẫn còn bất mãn, châm chọc cô, “Con gái da trắng sẽ không nấu cháo điện thoại với bạn trai trong giờ làm việc ——”

Nhớ đến cô nàng da trắng ăn không ngồi rồi ở tòa soạn, Hoài Chân cười nói, “Anh đây nói đúng quá. Có điều công việc của người Hoa không giống người da trắng là kết thúc đúng năm giờ, nếu không thì tôi đã không làm việc trong lúc con gái da trắng hẹn hò với bạn trai rồi.”

Người da trắng bị cô nói cho á khẩu không thốt nên lời. Sau đó lại bĩu môi, mặt dày vô sỉ bảo, “Ở đây cũng không mướn các cô chăm chỉ như thế.”

Nghe anh ta nói vậy, Hoài Chân cảm thấy mình đã bắt đầu hiểu được “đạo luật bài trừ người Hoa” rồi.

Cô vẫn cúi đầu nói: “Tiên sinh, tổng cộng là 12 đô 25 cent.”

Người da trắng biến sắc, “Lần trước mới 11 đô.”

Hoài Chân nói, “Thế thì anh có thể đem đến chỗ khác, theo như tôi được biết, tiệm giặt quần áo của người da trắng rẻ nhất trong thành phố thì tổng cộng cũng mất 23 đô la cho mấy thứ này, mà anh còn phải đi xe cáp bốn mươi lăm phút đến quận Sunset —— ồ đúng rồi, bọn họ không mở cửa sau năm giờ chiều.”

Người da trắng trợn mắt nhìn cô, giận giữ quở trách, song vẫn ngoan ngoãn móc ra 12 đồng ở trong túi giao cho cô.

Sau khi khách hàng rời đi, Hoài Chân cầm ống nghe lên thì bên trong đã truyền đến tiếng tút tút, thế là cô cũng vui vì không để anh chờ lâu, hy vọng anh đã thuận lợi về nhà.

***

Từ sau khi bị Margaret nghe lén, thư ký của Arthur lập tức từ Long Island chạy đến Falmouth, muốn điều tra rõ rốt cuộc anh gọi đi đâu.

Ceasar cũng không ngắt đường dây điện thoại nối phòng ngủ với phòng khách bên dưới, chỉ là anh chuẩn bị hai chiếc máy điện thoại, hơn nữa trong vòng một tuần đã cắt đứt một đường dây khác. Đường dây này là của hàng xóm bên cạnh, anh chỉ dùng chút thủ đoạn xã giao, không đến bất cứ công ty điện thoại nào quanh trường đua ngựa. Trừ khi Arthur cũng qua lại với hàng xóm xa lạ không quen biết nào từ tiểu bang Maine tới, thì ông không thể tra được gì cả.

Sau khi Margaret bị đuổi việc, trong nhà lại có một đầu bếp nữ mới. Lucinde nghĩ rằng đây là dấu hiệu cho việc cha mẹ bắt đầu nới lỏng giám sát mình. Cô nàng tiếp tục mời mấy người trẻ tuổi ở trường cấp ba Falmouth và ở thị trấn đến nhà, mở tiệc ồn ào đinh tai nhức óc. Anh khá cảm kích Lucinde, cũng chính vì có những bữa tiệc kiểu này mà anh có thể tránh được tai mắt, nửa đêm mười hai giờ ở Falmouth cưỡi xe đạp tới nhà hàng duy nhất mở cửa đến nửa đêm ở trong trấn để gọi điện cho cô.

Anh vẫn có điều muốn nói với cô, chẳng hạn như hỏi cô có nhớ mình không, chẳng hạn như yêu cầu cô không được chấp nhận lời mời khiêu vũ của đàn ông xa lạ trong hôn lễ… Nhưng cuối cùng anh lại chẳng nói gì. Anh nhất định phải về nhà trước khi bữa tiệc kết thúc hai tiếng, rồi anh đột nhiên cảm thấy tất cả đều vô ích. Bất kể cô sắp trải qua những gì ở San Francisco, thì cũng là không có sự góp mặt của anh.

Trong thời thơ ấu từ ba đến tám tuổi, hầu như mọi đám cưới được tổ chức ở Long Island đều thích anh làm bé trai giúp lễ. Anh rất giống cha mình, và lúc nhỏ anh cũng có tóc vàng và mắt xanh. Dù sau đó tóc từ màu vàng chuyển sang màu nâu vàng, rồi dần dần chuyển sang màu nâu đen… Đến bây giờ thì có khuynh hướng càng lúc càng đen, nhưng điều này cũng không ngăn cản mọi người khen trong gen màu đen này có sự thông minh của người La Mã. Anh gần như không hề bỏ qua mọi đại sự của đôi vợ chồng mới cười nào ở Long Island, cũng vì thế mà anh biết rõ về đám cưới hơn bất kỳ ai khác. Gần như mọi chuyện tốt đều diễn ra trong đám cưới. Ví dụ như tất cả bạn bè còn độc thân của cô dâu, em gái cô dâu cùng tất cả những người bạn đại học trẻ tuổi tài cao của chú rể, tại niềm vui bước vào một bước ngoặt mới trong cuộc sống nơi đây, hầu như đều mong muốn gặp được điều tốt đẹp trong đám cưới này, tìm được nửa kia tương lai của mình, hoặc chí ít cũng có thể tìm vui.

Ở buổi hôn lễ, sẽ có gã đàn ông trẻ tuổi bắt chuyện với cô gái của anh, mời cô khiêu vũ, hy vọng có được số điện thoại nhà của cô, hẹn cô ra ngoài ăn tối, đưa cô đi xem những bộ phim nhạt nhẽo, nói không chừng lại còn hôn cô.

Tiếng đàn piano và tiếng nói cười trong nhà vẫn rất ồn ào.

Anh đột nhiên trở nên nóng nảy, quẳng chiếc xe đạp của mình lên bãi cỏ, động tĩnh lớn lúc sải bước đẩy cửa đã quấy rầy mấy đôi tình nhân nhỏ đang ôm hôn ở sau cửa.

Đúng, cô sẽ còn lên cấp ba, có vô số bạn học là nam. Ở tuổi mười bảy mười tám này là thời kỳ hoóc-môn bùng nổ, ngay cả khi đã xếp nam ở riêng nữ ở riêng để ngăn cấm chuyện yêu đương, thì đa số bạn cùng phòng sẽ lén nhảy cửa sổ, thì vẫn có mấy chàng trai lén nhảy cửa sổ lẻn vào ký túc xá nữ ở bên kia sân trường.

Trong khoảnh khắc bị Lucinde cản lại trước cửa phòng, lớn tiếng chất vấn vì sao anh lại thô lỗ với bạn cô mời tới như vậy, Ceasar cảm thấy mình sắp phát điên rồi.

Lucinde mặc váy trễ ngực, không biết bị ai hôn mà son môi lem cả ra ngoài.

Ceasar nhìn chằm chằm đôi mắt màu xanh da trời như thủy tinh của cô nàng, đột nhiên bật cười, dùng tay đỡ cô, đưa tay vặn mở khóa phòng.

Lucinde bị nụ cười của anh làm cho sợ hãi, xoay người đi, khó lòng tin nổi: “Anh cười kỳ lạ lắm đấy, anh cười cái gì? Trời ạ, Falmouth lại thêm một người ngột ngạt đến phát điên rồi!”

Ceasar mở cửa, đột nhiên cười hỏi cô: “Em có muốn về New York không?”

Lucinde đáp: “Dĩ nhiên là có, tại sao không? Em ở cái nơi rách nát này lâu tới nỗi sắp biến thành tu nữ Thiên Chúa giáo rồi!”

Anh nói: “Vậy thì bắt đầu từ mai phải nghe anh, đừng có mở mấy bữa tiệc vớ vẩn kia nữa, được không?”

“Vì sao?”

“Arthur và cha mẹ cho người đến quản chúng ta chặt chẽ như vậy là vì nơi đây cách Long Island quá xa. Trừ khi chúng ta yên phận ở đây đến hết mùa thu rồi trở về Long Island, thì mọi giám sát sẽ tự động biến mất… Em hiểu không?”

Lucinde nhìn chằm chằm vào đôi mắt đen kia, đột nhiên đã hiểu vì sao mẹ cô lại nói với cô là: người này rất thông minh.

Mặc dù lúc này người trẻ tuổi được mẹ cô thầm ca ngợi vô số lần đó đang nhìn mình như nhìn kẻ thiểu năng trí tuệ, nhưng cô vẫn gật đầu.

Ceasar cảm thấy mình đã biểu đạt đủ rồi, anh hy vọng cô ấy có thể nghe hiểu.

Kết thúc cuộc nói chuyện, anh xoay người đóng cửa phòng ngủ lại, thế giới lập tức tĩnh lặng hẳn đi. Anh cởi áo ướt đẫm mồ hôi ra, bực bội chui vào trong chăn rên rỉ.

Anh sắp phát điên mất thôi.

Chỉ khi về Long Island, thì anh mới có thể tìm được cơ hội về San Francisco gặp cô.