Ký Linh

Chương 29




*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Ký Linh quay về hang sau hơn nửa canh giờ.

Đống lửa vừa tàn, trong hang vẫn còn chút hơi ấm, hai đồng đội dựa vào nhau, một người ngáy như sấm, một người nửa tỉnh nửa mơ, sói trắng trong lồng quay về nguyên hình, nằm cuộn tròn ngủ khò.

Ký Linh đứng ở cửa hang nhìn cảnh tượng nhàn nhã trong động, nàng về vào lúc này lại hóa khách không mời mà đến.

“Về rồi à?” Đàm Vân Sơn là người đầu tiên phát hiện ra nàng về, chàng lập tức ngồi thẳng dậy, “Dò la thế nào rồi?”

Chàng ngồi dậy, đầu Phùng Bất Cơ bị mất điểm tựa, gật mạnh một cái, đau giật mình tỉnh, ngơ ngác nhìn ngó xung quanh.

Ký Linh không vội đáp, nàng lo lắng lại xem lồng: “Sao lại về nguyên hình vậy?”

Đàm Vân Sơn ngái ngủ ngáp một cái: “Tự nó biến về, bảo là ngủ vậy thoải mái.”

Ký Linh vỗ trán, nàng lại còn đi lo cho người ta nữa, giờ thì xem đấy, chỉ có nàng bôn ba tới lui là khổ nhất.

Trò chuyện dăm câu, sói trắng mở mắt, nó thấy Ký Linh về liền biến ngay trở lại hình người. Từ tỉnh giấc tới biến hình, làm rất lưu loát, liền mạch, không chút chần chừ.

Phùng Bất Cơ chống đồng tiện thể lấy tay che mắt khổ khôn kể xiết: “Lần sau, trước khi biến thành người có thể báo trước một câu không? Hú một tiếng cũng được!”

Đàm Vân Sơn ngửa mặt nhìn nóc hang. Từ lúc yêu sói biến về hình sói để ngủ cho thoải mái, chàng đã dự liệu được giờ phút này nên tránh né rất bình tĩnh, không chút luống cuống.

Sói trắng kéo chiếc áo choàng vứt ở góc lồng mặc vào đàng hoàng, vừa quấn vừa lẩm bẩm: “Loài người các ngươi thật là kỳ lạ, toàn chú ý mấy chuyện vớ vẩn.”

Ký Linh bật cười bởi cách nói đầy đương nhiên của nàng ta. Mặc dù ngoại hình đã là người nhưng rõ ràng sói trắng vẫn coi bản thân là sói, những chuyện của con người thì vừa không hiểu vừa không buồn hiểu, thậm chí còn có phần bài xích một cách bản năng.

Nàng đành phải chỉ dẫn: “Đã biến thành người rồi thì đương nhiên phải tuân theo lề thói của con người.”

Sói trắng chớp chớp mắt, khuôn mặt diễm lệ, quyến rũ toát lên vẻ ngây thơ, ngay thẳng: “Tôi không biến thành người, tôi chỉ biến thành hình người, hơn nữa tôi tuyệt đối không muốn làm người, tại sao nhất định phải tuân theo thói quen kỳ quặc của con người?”

Ký Linh không tranh cãi với nàng chuyện này nữa, thuận theo ý đó nói tiếp: “Làm người quả thực không tự tại bằng làm yêu.”

“Nhưng làm thần tiên mới là hay nhất.” Sói trắng ngoảnh mặt nhìn xa xăm, thái độ đầy hâm mộ, khát khao, “Chờ tôi thành tiên, tìm được tinh phách của chị, đến lúc đó tôi chia cho chị một nửa pháp lực, chị không cần tu luyện lại mà cùng thành tiên với tôi luôn.”

Ký Linh nhìn đôi mắt sáng của sói trắng, chần chừ nói: “Tinh phách của chị cô không phải đã bị Hắc Kiệu…”

“Đúng vậy, hiện giờ đúng là đã bị Hắc Kiệu ăn.” Sói trắng đáp thẳng thắn rồi nói tiếp đầy tự nhiên, “Nhưng chờ tôi giết được Hắc Kiệu, tinh phách của chị sẽ lại được tự do, tản vào trời đất. Chờ tôi thành tiên là có thể tìm được những tinh phách này gom chúng lại với nhau… Cô nương nhìn tôi như vậy là sao? Sợ tôi không tìm được à?”

Sói trắng không hiểu được sự kinh ngạc trong cái nhìn của Ký Linh nhưng trực giác cảm thấy không thích.

Ký Linh không trả lời nàng ngay mà quay sang hỏi nhỏ Phùng Bất Cơ đã hoàn toàn tỉnh ngủ ngồi im lặng nghe nãy giờ: “Được không?”

Chỉ hai chữ nhưng Phùng Bất Cơ hiểu.

Đáp án của huynh ta là lắc đầu, không mảy may do dự.

Ký Linh không hiểu về tiên đạo nhưng dựa theo trực giác của người tu hành, nàng cảm thấy tính khả thi của chuyện này rất nhỏ bé. Còn làm một người tu hành có biết đôi điều về tiên đạo, huynh ta có thể nói ra đáp án này một cách chém đinh chặt sắt:

“Sói trắng này, không phải Ký Linh lo cô không tìm được tinh phách của chị cô, chẳng qua Ký Linh muốn nói cho cô biết yêu không thể tu thành tiên, thậm chí dẫu chỉ là một chút khả năng nhỏ nhoi thôi cũng không có.”

Sói trăng ngớ ra, ban đầu là hoang mang, sau đó nó hoàn hồn, hét lên không chịu tin: “Các người đừng hòng kết bè lừa tôi, chị tôi nói là có thể!”

Phùng Bất Cơ thở dài đứng dậy, tới gần lồng, cố gắng nói sao nghe thư thả, thân thiện: “Sói trắng à, làm người hay làm tiên đều là đường chính, cô vốn là thú, sau đó thành yêu, chắc chắn là đường tà. Trên thế gian này có rất nhiều đường, có những đường trăm sông đổ về một bể, có những đường tuyệt đối không bao giờ cắt nhau. Ví như nếu tiên phạm lỗi thì có thể bị chuyển thế đầu thai, lịch kiếp, thậm chí bị đuổi vào Vong Uyên vô tận nhưng chắc chắn không thể bị giáng làm yêu. Chuyện này không liên quan gì đến thiện ác mà căn bản là những đường này không thông với nhau. Giống như cô thả giọt dầu vào nước, dù khuấy thế nào thì chúng cũng không hòa vào nhau.”

Sói trắng không cảm thấy Phùng Bất Cơ có ác ý, điều này khiến tâm trạng nóng nảy của nó dịu lại nhưng lời Phùng Bất Cơ nói nó vẫn không hề chấp nhận: “Chị nói với tôi, chỉ cần tôi nghiêm túc tu luyện, không làm hại tính mạng một người nào thì tới khi đạo hạnh viên mãn là có thể độ kiếp thành tiên. Chị cũng tu luyện như thế, hơn nữa, nếu không gặp phải Hắc Kiệu, chưa biết chừng giờ chị ấy đã thành tiên!”

“Nàng ấy lừa cô đấy.” Ký Linh nhẹ nhàng nói thẳng ra.

Sói trắng nhìn nàng sững sờ: “Vì sao phải lừa tôi?”

Ký Linh thoáng cười, chẳng rõ tại sao nàng lại thấy đôi phần thương cảm với nữ yêu mà nàng không có dịp quen biết kia: “Hẳn là không muốn cô đi hại người để tu luyện.”

Sói trắng cúi đầu không nói nữa.

Hơi ấm từ đống lửa đã tản đi hết, ánh sáng ấm áp ngoài trời không vào được trong hang. Giữa cảnh mờ tối, chỉ có gió lạnh lặng lẽ len vào thổi gò má se se.

Ký Linh bỗng ngồi xổm xuống dỡ chiếc lồng.

Phùng Bất Cơ ngạc nhiên định lên tiếng nhưng thấy Đàm Vân Sơn lắc đầu khe khẽ bèn kìm nén thắc mắc, im lặng quan sát.

Dây leo cột nắp lồng nhanh chóng bị tháo ra. Không cần Ký Linh làm, Bạch Lang tự đẩy tay hất nắp lồng đi nhưng nàng ta không chạy, chỉ nhảy ra ngoài thư giãn gân cốt, sút chiếc lồng một cú: “Tù túng chết mất!”

Thoải mái rồi nàng ta mới cảnh giác nheo mắt nhìn Ký Linh.

Không cần nàng ta hỏi, Ký Linh nói thẳng luôn: “Tôi giúp cô bắt Hắc Kiệu.”

Sói trắng hết sức vui mừng: “Thật chứ?!”

Ký Linh không nói thêm mà hỏi: “Cô có tên không?”

“Đương nhiên,” Sói trắng kiêu hãnh ngẩng cao đầu, “chị đặt cho tôi, Bạch Lưu Song.”

“Thật hay.” Ký Linh nói rồi hỏi thêm, “Chị cô thì sao?”

Bạch Lưu Song cúi đầu đáp khẽ: “Trạch Vũ.”

Ký Linh chân thành đáp: “Cũng rất hay.”

Bạch Lưu Song lắc lư đầu nhìn lên, đôi mắt ngời sáng: “Cô tên là Ký Linh à?”

“Phải.” Ký Linh đáp.

Bạch Lưu Song gật gù như thật, không biết học được của ai, nói hệt như ông cụ non: “Ừ, rất dễ nghe.”

Ký Linh buồn cười. Rõ ràng cô sói trắng không thích làm người này vẫn ít nhiều học được chút lễ của người phàm, ví dụ như có qua có lại “bạn khen tôi thì tôi đành cố mà thổi phồng khen lại bạn vậy”.

“Chuyện nàng ta nói đều đã chứng thực rồi à?” Đàm Vân Sơn hiểu ra, cuối cùng mới lên tiếng.

Ký Linh gật đầu. Nàng tới quán rượu và đi thêm mấy quán dân chúng hay tụ tập trong U Thôn giả vờ nói chuyện phiếm, kết quả thăm dò được đại để giống nhau:

“Hắc Kiệu không phải người địa phương mà mới chuyển tới đây bốn năm trước, theo chính ông ta nói thì ông ta là người của Hắc trang ở Mặc Châu, vì nảy sinh mâu thuẫn trong chuyện làm ăn với người cùng trang, không muốn nhìn mặt nhau đâm khó xử nên chuyển tới đây…”

“Hắc trang?” Phùng Bất Cơ buột miệng, “Hình như trên tiên… à trên cái tranh đó quả đúng có Hắc trang, ở cực nam Mặc Châu, lúc chúng ta mới đặt chân tới Mặc Châu có ngang qua nó!”

“Đúng,” Ký Linh nói, “quả là có thôn trang này, hơn nữa còn là nơi nhiều vải vóc nhất Mặc Châu, gần như toàn bộ việc buôn bán vải vóc của Mặc Châu đều bị người Hắc trang lũng đoạn. Cho nên, còn nhớ lúc chúng ta mới vào phủ, người hầu nhà họ Hắc nói gì không, nói là Hắc Kiệu là hộ giàu nhất ở U Thôn, làm nghề buôn vải, có cửa hàng ở khắp Mặc Châu…”

Phùng Bất Cơ: “Thế chẳng phải là vừa khớp hay sao?”

Ký Linh lắc đầu: “Người hầu nhà họ Hắc đều là sau khi Hắc Kiệu chuyển nhà tới đây mới mua nên họ cũng giống người U Thôn, những gì nghe ngóng được đều là lời nói một phía của Hắc Kiệu. Hắc trang chắc gì đã có người tên là Hắc Kiệu, cửa hàng vải khắp Mặc Châu hầu như đều là của Hắc trang, đều họ Hắc cả, trong số đó có cái nào là của Hắc Kiệu không, ai biết được?”

Đàm Vân Sơn thong thả nói: “Đã không thể kết luận được thì làm sao chứng minh được lời Hắc Kiệu nói là sai?”

Chỉ một câu như tiện thể nói chêm vào nhưng Ký Linh nhạy cảm nhận ra ẩn ý trong lời ấy: Đàm Vân Sơn lo nàng xử sự theo cảm tính.

“Tôi vẫn chưa nói hết cơ mà.” Ký Linh không vui lườm chàng một cái rồi nói tiếp, “Lí do Hắc Kiệu nói tuy không thể phán định thật giả nhưng kể từ năm ông ta tới U Thôn ở thì có rất nhiều điểm đáng ngờ…”

“Đầu tiên là ông ta một mình tới U Thôn, nói với mọi người là phu nhân đã mất sớm, hai con trai không muốn chuyển nhà theo ông ta nên vẫn ở lại lo việc làm ăn ở Hắc trang. Song, bốn năm qua, hai cậu con trai hiếu thuận theo lời ông ta chưa từng thấy ló mặt…”

“Tiếp là lúc tới đây ông ta nói đã giao chuyện làm ăn cho con trai, một mình tới đây dưỡng già, thế mà bốn năm cưới ba bà, người trong thôn đều thầm nói xấu sau lưng, không phải ông ta dưỡng già mà là dưỡng hoa…”

“Cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất,” Ký Linh nghiêm mặt, “trong đám người hầu ở Hắc phủ có vài đứa bị điên, đều bị vào năm đầu tiên ông ta tới, hồi đấy người trong thôn cũng sợ, nói là nhà ông ta có ma ám nhưng sau đó ông ta bỏ tiền sửa miếu, quyên góp tiền bạc cho thôn, trong phủ cũng không còn người hầu nào xảy ra chuyện, lời đồn đãi dần dần lắng xuống.”

Bạch Lưu Song càng nghe càng nóng nảy, kiên nhẫn nghe đến đây thì không thể nhịn nổi nữa: “Người trong phủ nhà ông ta không xảy ra chuyện là vì ông ta phát hiện ra không thể đánh bắt gần bờ được nên đổi sang gây họa cho trên núi!”

Người bị yêu quái hút tinh khí, không chết thì điên. Trong lòng ba người đều biết. Nhiều “điểm đáng ngờ” như vậy tập trung ở một người, hơn nữa thời gian và nguyên nhân đều đã được Bạch Lưu Song bổ khuyết, Hắc Kiệu thực sự khó mà rửa sạch hiềm nghi.

Hoặc là một “người xấu”, hoặc là một “yêu ác”.

Đàm Vân Sơn nhìn thấy sự kiên định trong đôi mắt Ký Linh, biết lại sắp có một trận ác chiến. Không, phải nói là kể từ khi biết Bạch Lưu Song tu luyện trước nay không hề hại người thì chính nàng đã tự hạ quyết tâm sẽ giúp – bất kể là yêu hay tiên, trong mắt nàng chỉ có thiện và ác.

“Tôi đã nói tôi không lừa các người rồi mà!” Thấy ba người mãi không nói gì, Bạch Lưu Song đâm sốt ruột.

“Được được,” Phùng Bất Cơ mở miệng nói trước, trước nay huynh ta không phải người hay do dự, “thế giờ làm thế nào?”

Ký Linh nghĩ rồi nói: “Bốn chúng ta liên thủ hẳn là có thể đánh lại ông ta nhưng lấy đá chọi đá là hạ sách, tốt nhất là có thể bày mưu bắt sống ông ta…”

Đàm Vân Sơn thấy Ký Linh nói lời ấy xong liền đánh mắt nhìn mình, bỗng có cảm giác mang sứ mệnh lớn trời trao: “Để tôi đi nghĩ ngay!”

Ký Linh cười, đang định khen thì Bạch Lưu Song lại sẵng giọng lớn tiếng: “Bắt sống làm gì, cứ một đao trúng tim cho chết!”

Phùng Bất Cơ cạn lời: “Không phải mới rồi cô còn nói tu tiên không thể hại mạng người hay sao!”

“Hắn có phải người đâu!” Bạch Lưu Song bừng bừng khí thế.

Phùng Bất Cơ liếc nàng ta một cái, không chịu nổi phải nói ra: “Đã bị thương nặng thế rồi thì cứ ngoan ngoãn chờ đi.”

“Không được, ” Bạch Lưu Song sa sầm, khăng khăng một hai, “tôi muốn tự tay giết hắn.”

Phùng Bất Cơ im lặng quay qua nhìn hai đồng đội: Tôi cảm thấy chúng ta không phải bốn đánh một mà có lẽ là ba đánh hai.

Ký Linh gật đầu kín đáo: Cho nên mới càng phải bắt sống, dù cho Hắc Kiệu là yêu ác thì cũng phải để song phương cùng đối chất mới rõ ràng.

Đàm Vân Sơn hơi nhíu mày, tỏ ra ngạc nhiên: Tôi còn tưởng cô nương đã đứng hẳn về phía Bạch Lưu Song rồi.

Ký Linh ngoảnh đầu nhìn chàng.

Đàm Vân Sơn bối rối: Gì?

Phùng Bất Cơ ôm chặt bả vai chàng: Học theo đệ đấy, chuyện gì cũng phải giữ chút đề phòng.

Đàm Vân Sơn: “…”

Chàng có nhiều mỹ đức và ưu điểm sáng chói như thế, sao lại học thứ này!

Bạch Lưu Song chuyển đầu qua trái qua phải theo màn đánh mắt qua lại của ba người, cuối cùng không hiểu gì hết, thực sự quá mệt nên thây kệ.

Con người đúng là kỳ quặc, nàng dè bỉu nghĩ.

Trước cửa Hắc phủ, ba người nhìn nhau, cuối cùng Ký Linh là người gõ cửa.

Mở cửa vẫn là tay gia đinh cũ, mới đầu thấy họ thì giật mình, rõ ràng là không hiểu tại sao khách hôm trước đã đi nay lại vòng về. Nghe Ký Linh báo có việc tìm lão gia nhà mình, gã liền nhanh nhẹn chạy vào thông báo.

Cứ ngỡ sẽ vẫn là tên gia đinh chạy ra dẫn họ vào nhà giống lần trước, không ngờ lần này, đích thân Hắc Kiệu đi theo tên gia đinh ra thịnh tình tiếp đón: “Mấy vị đi rồi lại về, nhất định là có chuyện hết sức quan trọng, mời vào luôn…”

Ký Linh và Đàm Vân Sơn chân trước chân sau bước qua cửa. Ba người đi tách nhau ra, Hắc Kiệu mới để ý thấy Phùng Bất Cơ đi sau hai người… xách trong tay một chiếc lồng.

Khuôn mặt cười nhiệt tình quá mức của Hắc Kiệu đơ ra trong thoáng chốc sau đó nhanh chóng điều chỉnh lại, không vội hỏi, rảo bước dẫn ba người vào trong nhà, tới vườn hoa phụ của nhà thì cho đám người hầu lui ra, ngồi ngay ngắn vào chỗ, rất tự nhiên đặt câu hỏi cho ba vị “khách không mời mà về”: “Đây là…”

Bạch Lưu Song ở dạng sói tuy nhỏ hơn sói bình thường nhưng vẫn khá to, cũng chỉ có hình thể cỡ Phùng Bất Cơ mới có thể xách nó bằng một tay mà đi, đã xách đi nãy giờ rồi thì có tiếc gì mà không xách thêm một chút, nâng hẳn lên cho Hắc Kiệu xem cho rõ.

Đàm Vân Sơn nhân đấy mở lời: “Hắc lão gia, người thông minh với nhau không cần phải nói vòng vo, tối qua yêu sói quấy phá, chúng tôi theo yêu khí truy đuổi tới đây, vốn là muốn ra tay hàng yêu, không ngờ lại được chứng kiến một màn thú vị.”

Hắc Kiệu nhìn con sói trắng hôn mê bất tỉnh trong lồng im lặng không nói gì như thể đang nghĩ xem hôm qua rốt cuộc đã bị người ta nhìn thấy những gì, bị đoán ra những gì.

“Hắc lão gia,” Ký Linh lên tiếng trách móc rất tự nhiên, “chúng ta đều là người tu hành. Đều là người cùng đường thì nên thẳng thắn với nhau mới phải. Sao lão gia phải giấu diếm thân phận với chúng tôi làm gì? Chẳng lẽ là sợ chúng tôi trách lão gia không nghĩ cách giải quyết chuyện U Thôn không có đêm hay sao?”

Hắc Kiệu ngẩn ra rồi nhanh chóng thuận theo ý đấy gật gù: “Thân là người tu hành mà không thể giải nạn cho vùng, thật đáng xấu hổ, nào còn dám trơ mặt tự xưng mình là người tu hành.”

Ký Linh thở dài tỏ ý thông cảm, nói làm người ta mát lòng mát dạ: “Lão gia nghĩ nhiều rồi. Tu hành, trước là tu thân mình, sau mới là trợ giúp người khác. Nhiều khi có lòng mà không có sức. Lần này, nếu không phải ba chúng tôi bắt tay liên thủ với nhau thì cũng rất khó có thể giải quyết được chuyện ban ngày của U Thôn.”

Nói liền một lèo tới hết ý, Ký Linh suýt thì cắn phải đầu lưỡi. Cái lời khách sáo Đàm Vân Sơn soạn cho này quả thực làm nàng khó chịu chết đi được, biết thế đã để Phùng Bất Cơ bịa!

Hắc Kiệu càng thấy vững dạ hơn, chuyển mắt đầy tự nhiên sang nhìn chiếc lồng: “Thế con sói yêu này…”

Ký Linh nói: “Đêm qua, sau khi nó bỏ chạy, chúng tôi không kịp chào hỏi lão gia, vội đuổi theo nói lên trên Bạch Quỷ Sơn, tìm nửa đêm mới phát hiện được tung tích của nó. Lúc ấy, nó đã bị trọng thương hiện nguyên hình nhưng vẫn quen thói hoang dã, thấy ba chúng tôi liền xông tới đánh, cuối cùng bị chuông Tịnh Yêu của tôi hàng phục. Chúng tôi không rõ đầu đuôi thế nào nhưng biết rõ con yêu này chẳng lương thiện gì nên mới mang nó về đây. Song,…”

Hắc Kiệu hơi thấp người xuống: “Song sao?”

Phùng Bất Cơ để lồng xuống, sốt sắng nói: “Song lão gia phải nói cho chúng tôi biết giữa lão gia và nó rốt cuộc là có chuyện gì! Tại sao nó không tới nhà ai lại tới Hắc phủ, chắc chắn là phải có chuyện gì đó!”

Đây là cách Đàm Vân Sơn nghĩ ra. Nếu xóa bỏ chuyện họ và Bạch Lưu Song nói chuyện với nhau, vậy thì toàn bộ chuyện này đơn giản đi nhiều: Phát hiện sói yêu tấn công Hắc phủ, phát hiện Hắc Kiệu biết dùng pháp khí, đuổi theo sói yêu bắt sống, mang về Hắc phủ.

Dựa theo những sự kiện thực tế này thì họ nên làm hai chuyện: một là không hài lòng chuyện Hắc Kiệu giấu diếm thân phận người tu hành, hai là hỏi rõ ân oán giữa Hắc Kiệu và sói yêu rồi quyết định cách xử trí thích đáng.

Sự khách sáo của Ký Linh và sự vội vàng của Phùng Bất Cơ làm tăng thêm tính đáng tin cho cách giải thích đầu đuôi mọi chuyện này.

Hắc Kiệu tĩnh lặng hẳn, ngả người dựa vào lưng ghế, bắt đầu kể câu chuyện “yêu ác thèm khát tinh khí của người tu hành”.

Câu chuyện của Hắc Kiệu cũng coi như là trọn vẹn, đầu đuôi rõ ràng, có đủ nguyên nhân mục đích – nếu như ông ta không thường xuyên liếc mắt nhìn chiếc lồng.

Chỉ có kẻ bịa đặt lời nói dối mới sợ bị “đương sự” tỉnh lại.

Có điều, ngoài mặt, ba người vẫn nhất trí tỏ ra hết sức tin tưởng, không nghi ngờ gì, nhất là Đàm vân Sơn, nói năng chân thành quả như thực sự phát ra từ tận đáy lòng: “Lúc đó tôi đã nói là diệt luôn nó đi, trừ hại cho dân, hai người kia lại cứ khăng khăng phải hỏi lão gia cho rõ ràng. Một đằng là ác yêu, một đằng là đồng đạo tu hành có lòng tốt tiếp đãi chúng tôi nhiều ngày, chuyện này còn gì mà phải hỏi nữa!”

Hắc Kiệu vội xua tay, thái độ đôn hậu, hòa nhã: “Không thể nói thế được, hỏi rõ là đúng, ải bảo tôi giấu diếm mọi người là tôi sai trước mà.”

“Thế con sói yêu này, lão gia muốn giao cho lão gia xử lý hay là để chúng tôi…”

“Cứ giao cho tôi đi.” Hắc Kiệu ngắt lời chàng, bất giác có phần nóng vội, “Dù sao nó cũng nhắm vào tôi, vậy nên để tôi kết thúc mọi chuyện. Thực không dám giấu, nếu không phải ba vị bắt được nó, tôi cũng phải vào núi bắt.”

Đàm Vân Sơn thấy hợp lý, nhìn qua Phùng Bất Cơ.

Phùng Bất Cơ thuận đó nói: “Vậy giao nó cho lão gia. Chiếc lồng này sơ sài, lão gia nên sớm xử lý nó, tránh nó tỉnh lại thì phiền.”

Hắc Kiệu đứng dậy, đi thẳng tới chỗ Phùng Bất Cơ, cúi xuống nhìn chiếc lồng dưới đất, kinh ngạc hỏi: “Sao ba vị không vẽ trấn yêu phù?”

Ba người nhìn nhau, đồng loạt tỏ ra ngơ ngác: “Gì cơ?”

Hắc Kiệu không còn gì để nói cũng không tiện nói thêm gì, dù sao “tài mọn ít học” không phải lỗi. Nghĩ vậy, ông ta ngồi luôn xuống cắn ngón tay vẽ phù lên lồng.

Đây là chiếc lồng nhóm Ký Linh mới làm, cành gỗ to hơn cái cũ một chút. Máu Hắc Kiệu thấm vào tỏa ra ánh sáng vàng dìu dịu.

Ký Linh cầm sẵn trấn yêu phù vẽ từ trước lặng lẽ tới gần ông ta thấy vậy giật mình đứng đực ra, ngạc nhiên tròn mắt, phóng mắt nhìn qua đỉnh đầu Hắc Kiệu thấy Phùng Bất Cơ cũng giật mình không thể tin nổi.

Kế hoạch ban đầu của họ là nhân lúc Hắc Kiệu dồn sự chú ý vào chiếc lồng thì đánh úp bất ngờ, dùng trấn yêu phù khống chế ông ta từ phía sau, sau đó đánh thức Bạch Lưu Song giả vờ ngủ, ba bên đối chất, làm rõ đầu đuôi mọi chuyện.

Song, mấu chốt của kế hoạch này là Hắc Kiệu phải là yêu!

Vấn đề là làm gì có yêu quái nào có thể dùng máu của mình vẽ trấn yêu phù!!!

“Cẩn thận!”

Tiếng la bất thình lình làm Ký Linh sững ra, nàng còn chưa kịp quan sát rõ tình hình thì không biết Đàm Vân Sơn đã di chuyển tới từ lúc nào kéo nàng ngã xuống!

Uỵch!

Nàng và Đàm Vân Sơn cùng ngã xuống đất nhưng Đàm Vân Sơn ôm gần trọn cả người nàng vào lòng, lúc ngã xuống lại nhanh nhẹn chuyển bên sườn nên chỉ có chàng là bị va chạm với nền đất!

“Ta biết ngay là các người gian dối!” Hắc Kiệu đánh trượt, mặt mày hung hãn giống như đêm đó ông ta nhìn Bạch Lưu Song, rõ ràng là đã coi họ là phe đối lập.

Ký Linh giờ mới nhìn rõ, thứ sượt qua mặt nàng lúc ngã xuống chính là tay của Hắc Kiệu!

Không, có lẽ nên gọi đấy là vuốt? Móng tay đột ngột dài ra sắc nhọn không thể nào là người!

Ký Linh bối rối rời khỏi người Đàm Vân Sơn, nhanh chóng đứng dậy lấy chuông Tịnh Yêu ra nhẩm đọc Tịnh Yêu chú.

Phùng Bất Cơ thấy Hắc Kiệu như vậy cũng rút kiếm gỗ đào ra.

Từ lúc Đàm Vân Sơn hô cẩn thận, Bạch Lưu Song đã mở mắt ra nhìn, giờ thì gần như phát điên, liên tục va mạnh vào lồng nhưng chiếc lồng chỉ có chiếc trấn yêu phù Hắc Kiệu đang vẽ dở dang vẫn có thể giam cầm nàng ta, không những thế, mỗi lần nàng ta va vào lồng, da lông đều bị tổn thương, đau đớn, phẫn nộ, nàng ta gào rú lên đầy thê lương.

Hắc Kiệu vừa né tránh kiếm gỗ đào của Phùng Bất Cơ, vừa gọi khóa trường mệnh ra. Không ngờ chiếc chuông Tịnh Yêu của Ký Linh đột ngột bay lên không, biến to ra, ngăn cản pháp khí của gã!

Hắc Kiệu ngạc nhiên như thể không tin Ký Linh lại có thứ pháp khí lợi hại như vậy. Quan sát thế cục, ba đấu một, hơn nữa rất có khả năng sẽ nhanh chóng biến thành bốn đấu một, gã không ham chiến nữa, lợi dụng cơn gió táp do kiềng vàng khóa trường mệnh tạo ra, ông ta phá cửa sổ bỏ chạy!



Ký Linh và Phùng Bất Cơ sao có thể để hắn chuồn được, hai người lập tức bật người, dùng khinh công đuổi theo!

Đàm Vân Sơn ngồi dậy, xem tình hình thì chàng không cần phải tốn công, nhanh như chớp giật, ba bóng người đã biến mất, dù chàng có chạy thục mạng cũng không thể đuổi kịp.

Bạch Lưu Song trong lồng biến thành hình người, nôn nóng quát gọi Đàm Vân Sơn cứ đứng ì ra một chỗ: “Còn đứng ngây ra đấy làm gì, mau thả tôi ra đi chứ!”

Đàm Vân Sơn xoa bên vai ngã bị đau, xuýt xoa mấy tiếng, tới khi Bạch Lưu Song điên tiết mới thủng thẳng nói: “Tại sao tôi phải thả một tên lừa đảo ra?”

Bạch Lưu Song giật mình nhưng rất nhanh lại thôi: “Ông ta là yêu còn gì, chẳng lẽ không thấy móng vuốt của ông ta đấy à? Nếu ông ta là người, sao có thể ăn nhiều tinh phách của chị tôi và các yêu quái trên Bạch Quỷ Sơn như vậy!”

Đàm Vân Sơn im lặng nhìn nàng ta, giọng khẽ khàng mà lạnh lùng: “Có thể ông ta đã ăn tinh phách của chị cô, cũng có thể không phải. Chuyện này với tôi không quan trọng. Thế nhưng, Ký Linh tin cô như vậy, cô không nên lừa dối nàng.”

Bạch Lưu Song cố mạnh miệng: “Tôi lừa nàng ấy chuyện gì?”

Đàm Vân Sơn ghé sát vào lồng, nói bình tĩnh mà chắc chắn: “Hắc Kiệu không phải yêu, đương nhiên cũng không phải người, hắn là tiên thú.”