Mê Tông Chi Quốc

Chương 42: hồi thứ hai: sóng điện trong động tối






Hồi thứ hai: Sóng điện trong động tối



Hội Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến nhắc đến truyền thuyết vua Anagaya nước Chăm Pa xây dựng tòa thành Nhện Vàng, ai nấy đều cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Điều khiến họ kinh ngạc là từ khi khai thiên lập địa đến nay, chưa bao giờ nghe nói trên thế giới lại có vật nào kỳ dị như vậy, kỳ dị ở chỗ thời xưa lấy đâu ra nhiều vàng đến thế, hơn nữa phần bên trong của những thỏi vàng đúc phù điêu lại có thể chồng xếp hoàn toàn ăn khớp với nhau, rung lắc thế nào cũng không đổ, mà ngay cả khi núi bị sụt lở xuống đáy động, nó cũng chẳng hề nứt vỡ. Đừng nói hơn một ngàn năm về trước, mà cho dù là người hiện đại, cũng không chắc đã có được công nghệ đúc tạo tuyệt vời như có phép thần này.



Mọi người tuy trong lòng đều thầm thán phục, nhưng chẳng ai còn lòng dạ để đào sâu tìm hiểu về nó. Lúc này thân họ vẫn đang nằm trong vòng nguy hiểm, mà trước tiên tìm đường thoát ra khỏi núi mới là việc quan trọng nhất, bởi thế họ cũng chỉ thuận miệng bàn bạc mấy câu mà thôi. Nào ngờ lời của Ngọc Phi Yến còn chưa dứt, thì lại nghe từ nơi cao truyền đến những âm thanh quái dị, nghe "ken két ken két".



Ban đầu, mọi người còn cho rằng lúc bom địa chấn phát nổ, màng nhĩ tai bị sóng địa chấn dội tới làm tổn thương, nên mới nảy sinh ảo giác. Nhưng liền sau đó cả hội thấy hình như không đúng, tai ù cũng không hề có những động tĩnh như vậy, lại phát hiện âm thanh cành khô di chuyển phát ra ở phía trên đỉnh đầu, thế là mọi người liền vội xách đèn chiếu halogen lên định xem rõ rốt cục đang xảy ra điều gì bất thường. Thế nhưng ở dưới đáy vực sâu hút này, do chịu ảnh hưởng của môi trường, nên ắc quy tiêu hao rất mau, ánh sáng nhợt nhạt tỏa ra hầu như chẳng có chút tác dụng nào, đến đâu cũng đều là một dải đen sì sì, chẳng nhìn thấy gì hết.




Mọi người nghe tiếng động càng lúc càng dồn dập, dường như có rất nhiều cây cổ thụ ngàn năm đang giãy giụa rạch đất, làm xuất hiện âm thanh the thé rất chói tai, khiến người ta cảm thấy dường như có luồng điện xẹt qua da đầu, cơ thể tê giật hết cơn này đến cơn khác.



Tư Mã Khôi nhớ lại lúc chiếc Rắn đen II bị tấn công trong đám sương mù, khi ấy cũng phát ra kiểu âm thanh này. Thông tin mà Wilson - thành viên đội thám hiểm để lại trước khi chết, cũng nói là trong đám sương mù tồn tại một "vật thể sống" rất to lớn và đáng sợ, nhưng màn sương bí ẩn trong sơn cốc đều bị mưa lớn trấn áp, nên khi xuống đầm lầy dưới lòng đất đội thám hiểm mới không gặp tình huống gì đặc biệt. Lúc đó anh suy đoán, nguồn gốc của sương mù rất có khả năng do lớp phủ thực vật trong không gian khép kín sinh ra, mãi sau này chất độc màu da cam chứa trong quả bom địa chấn mới phá hủy triệt để loài thực vật bào tử, nên cứ nghĩ từ nay mọi người không còn chịu sự uy hiếp của đám sương mù giết người nữa, vậy thì sao tình huống này lại lần nữa xuất hiện ở đây? Lẽ nào nơi sâu dưới sơn cốc lại đang bắt đầu nổi sương mù?



Khi tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải, tuy Tư Mã Khôi đã từng tiếp xúc ngắn ngủi với sương khí tàn sót trong khoang máy bay, nhưng bản thân anh cũng không thể nói rõ trong đám sương ấy rốt cục có thứ gì, mà chỉ có một điểm có thể đoán định chắc chắn là: bất kỳ người nào đi vào sương mù, đều không thể trở về.



Đèn chiếu sáng trong ba lô Tư Mã Khôi bị rơi mất, dùng đèn halogen và pháo phát sáng không thể nhìn rõ tình hình nơi xa, nhưng chỉ nghe tiếng động, họ cũng có thể biết kẻ sắp đến chắc chắn không mang theo thiện chí. Có lẽ đám sương mù giết người của núi Dã Nhân lại lần nữa xuất hiện. Nếu bám vào tường thành hoặc rễ thực vật dưới lòng đất mà leo ngược lên trên, trong thời gian ngắn, tuyệt đối không thể trở về chỗ đầm lầy sụt lở, nếu giữa đường bị đám sương mù ấy bủa vây thì lại rắc rối to. Hơn nữa sự xuất hiện của sương mù, cũng ngầm dự báo cuồng phong giông tố do cơn bão nhiệt đới Buddha mang đến đã bắt đầu suy yếu, chắc chẳng bao lâu nữa, cả sơn cốc sẽ không còn nơi trú thân an toàn.



Tư Mã Khôi hoàn toàn không biết gì về những vương triều cổ đại nhuốm đầy màu sắc tôn giáo thần bí. Ngay cả tên tuổi của vua Anagaya và tòa thành Nhện Vàng cũng lần đầu nghe thấy, đó cũng là phạm vi mà mọi người chưa nhận thức tới, nên căn bản không thể suy đoán chân tướng thật sự của nó; huống hồ cảnh ngộ trước mắt lại vô cùng nguy cấp, nên họ tất phải tìm đường tháo thân trước đã.



Hải ngọng trong lòng nơm nớp bất an, anh than trách: "Năm nay đúng là chẳng thuận ngay từ đầu năm, mùa xuân vừa đến, trận đánh mùa xuân liền thất bại, tiếp sau đó, đánh lớn bại lớn, đánh nhỏ bại nhỏ, chẳng đánh thì cũng thua.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Khó khăn lắm chúng ta mới giữ được cái mạng trở về, ma xui quỷ khiến thế nào lại nhảy bổ vào núi Dã Nhân, kết quả làm lớn rủi lớn, làm nhỏ rủi nhỏ, chẳng làm thì cũng rủi, sao trên đời bao nhiêu chuyện rủi ro cứ trút hết lên đầu chúng ta thế nhỉ?"




Tư Mã Khôi cho rằng trong lòng La Đại Hải thầm sợ, bèn nói: "Hải ngọng nhà cậu cứ việc yên tâm đi, sau mông đít nhà cậu vẫn khắc rành rành hai chữ may mắn đấy thôi, ai chết thì chết, chứ cậu chả chết nổi đâu mà sợ."



Hải ngọng vội vàng biện minh: "Tôi đây lúc đầu cũng là người trong quân đội đấy nhé, tôi sợ quái gì chứ?" Ngừng một lát, anh lại tiếp: "Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, có câu rất hay: Sóng gió gập ghềnh thường như cơm bữa, biết lùi biết tiến mới là anh hùng, rơi vào cục diện tình thế bất lợi này, không chạy thì chẳng lẽ ở lại đợi sét chẻ thành đôi mảnh à?"



Tuyệt đề nghị: "Chạy thì đúng là phải chạy rồi, nhưng khe vực núi Dã Nhân đúng là sâu quá, xuống thì dễ mà lên thì khó, sương mù dưới lòng đất xuất hiện một cái, thì nơi đây sẽ biến thành cái ống khói, tứ phía xung quanh căn bản chẳng có đường nào để đi. Tôi thấy đánh rắn phải đánh vào tận chốn tim gan, chỉ có nghĩ cách tìm ra cội rễ sản sinh đám sương mù, thì mới phá hủy được nó hoàn toàn và đảm bảo được an toàn tuyệt đối."



Tư Mã Khôi lắc đầu nói, sương mù mênh mông như muốn nuốt chửng tất cả thế này, không thể so sánh với vật có hình có khối như đỉa Campuchia ăn thịt người được, huống hồ giờ đây đã mất cơ hội tấn công trước, hoàn cảnh vô cùng bị động, sương mù càng lan tỏa, phạm vi hoạt động của chúng ta càng trở nên nhỏ hẹp. Sắp bước lên kiệu hoa về nhà chồng mới bắt đầu bấm lỗ tai, chắc chắn sẽ chẳng kịp nhận của hồi môn nữa.



Ngọc Phi Yến mắt thấy thân rơi vào đường cùng, mà hội Tư Mã Khôi thần sắc vẫn điềm nhiên như không, tư duy tỉnh táo, nên trong lòng trộm nghĩ: "Mấy tên này thật đúng là mấy kẻ liều mạng. Xem ra tinh thần thép rèn giũa từ môi trường chiến tranh bom rơi đạn lạc, quả thật đã khiến người thường không thể so sánh. Mình cũng không được lộ thái độ hoảng sợ, tránh để bọn họ chê cười xem thường". Nghĩ đến đây, cô bèn nói: "Ngại một nỗi bóng tối dưới lòng đất lại cản trở tầm nhìn, đúng là chẳng còn cách nào mà nghĩ. Nhưng để cố gắng né tránh sương mù ở bên trên, chi bằng chúng ta hãy đánh bay ý tưởng trèo ngược lên trên, mà trước tiên phải đi thăm dò tình hình xung quanh, sau đó sẽ tìm đường thoát thân ở phần đáy cùng của sơn cốc."



Tư Mã Khôi biết Ngọc Phi Yến là dân trộm mộ có hạng, người như cô ta giỏi nhất khoản đào huyệt xuyên núi; bởi vì làm cái nghề này, bắt buộc phải có "nhãn lực", nghe nói phương ngôn của bọn họ là "đạo nhãn vi thượng, pháp nhãn thứ chi". Cái gọi là "đạo nhãn" tức là dựa vào kỹ năng, kỹ xảo của chính mình, trực tiếp quan sát hình núi thế sông, còn "pháp nhãn" là dùng các phương pháp như thiên tinh, hà đồ, tử vi... để phán đoán cát hung sinh tử của địa lý. Ý của họ là trước tiên phải dựa vào chính mình, sau đó mới dựa vào các công cụ hỗ trợ. Có khi ở huyệt động dưới lòng đất cô ta lại có cơ hội thể hiện sở trường nhiều hơn là ở rừng già núi sâu trên mặt đất thì sao. Nhưng vùng đất Bắc Miến này là nơi giao thoa của rất nhiều mạch đất, cho dù Kim điển sư phụ năm đó có tái thế sống lại, thì cũng nhìn mà thấy mù mịt như không. Cái gọi là "núi hiểm nước dữ", tức ám chỉ những nơi có địa hình nhiễu loạn, thì chẳng một chương pháp nào có thể tìm ra nổi. Theo phong tục của người bản địa, sau khi người chết đi, không được trực tiếp chôn ngay xuống đất, mà phải phơi thi thể trong nhiều tháng ròng, đợi khi da thịt mục nát hết cả, chỉ còn mỗi nắm xương khô, mới cho vào chum sành chôn cất. Họ làm vậy là để đề phòng xác chết tiếp nhận khí đất mà trở thành xác ướp. Bởi vậy bản lĩnh của Ngọc Phi Yến chưa chắc đã thể hiện được ở nơi sơn cốc, nhưng do sự hạn chế của địa hình, kế hoạch cô ta vừa nêu ra cũng chính là sự lựa chọn thông minh duy nhất hiện tại, trong điều kiện gần như bó tay bất lực.



Thế là mọi người bèn điều chỉnh phương án hành động, đầu tiên phải tiếp cận vách tường bên trong khe cốc, họ đứng lại phán đoán phương hướng cơ bản, rồi suy đoán chỗ dừng chân hiện tại có lẽ gần đầu phía nam của huyệt động nhất, nên liền quay đầu trở lại tòa thành Nhện Vàng, lần mò trong bóng tối đi dần về hướng nam. Kết cấu nơi sâu nhất trong khe núi Dã Nhân tuy rằng không phức tạp lắm, nhưng những thực vật bào tử này to lớn khác thường, hình thành lớp vỏ thực vật giống như kén ở mãi trên cao, nếu nhìn từ mặt cắt, nó có kết cấu hình chữ H, phần ở giữa sinh trưởng theo chiều ngang chính là "kén", hai bên là rễ cây đâm sâu vào lòng núi, rủ xuống mặt đất. Nó bao trùm cả tòa cổ thành đúc phù điêu bốn triệu bảo tháp, liên kết thành một thể, chỉ cần rứt một sợi, sẽ chạm đến toàn thân. Bởi vậy sau khi bom địa chấn phát nổ, chất độc màu da cam hủy hoại tầng kén giống hình cây nấm đá, từ đó sự chết chóc nhanh chóng lan ra khắp một dải thực vật rộng lớn dưới sơn cốc. Giờ đây, cánh rừng rậm nguyên sinh mục nát tối tăm và rễ cây khô héo đan cài, giao kết với nhau, rồi lúc đầm lầy sụt lở, một lượng lớn bùn lầy và nước tù trút đổ xuống đáy vực, bởi thế nơi nào cũng toàn rào cản, khiến người ta muốn hành động mau lẹ cũng không được.



Những cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi đều là những cây già hình nến đan cài lẫn lộn, tán lá dày rộng vô cùng, tầng tầng lớp lớp bủa vây. Tàn tích của loài thực vật dây leo khô quăn queo không chút sinh khí, giống như một con mãng xà đen nằm ngủ im lìm dưới bùn lầy. Tất cả hình thành nên vô số bức màn dày đặc, xem ra nơi nào cũng tràn ngập điều kỳ quái. Tuy chúng vẫn giữ một màu xanh im lìm, nhưng trên thực tế chúng đã hoàn toàn mục nát, chẳng thể cảm thấy một chút dấu tích của sự sống, không gian yên ắng tĩnh lặng mà vô cùng ngột ngạt.




Dưới điều kiện môi trường khắc nghiệt như vậy, mọi người vẫn gắng gượng tiến lên, chân thấp chân cao bước trong bóng tối. Họ cũng chẳng rõ đã đi được bao xa, chỉ dựa vào la bàn để phân biệt phương hướng. Giữa lúc trong lòng họ đang thấp thỏm lo sợ, thì luồng khí âm u ngột ngạt của bùn lắng trong đầm lầy đang dần dần lan tỏa khắp lòng đất, hơn nữa độ ẩm ở đây rất cao, màn sương mù mỏng tang giữa những lùm cây khô bay lất phất, dường như sương là mưa mà mưa cũng chính là sương vậy, chúng chui vào mũi, xộc lên tận óc, khiến người ta đau buốt cả đầu. Mặt nạ phòng độc mà đội thám hiểm mang theo đã bị thất lạc, may mà quân đội cộng sản Miến Điện phân phát cho bộ đội chiếc khăn quàng dệt bằng vỏ cây, chất vải này vừa mát mẻ lại vừa mềm dai, có thể phòng tránh chướng khí, thổ ngữ bản địa gọi là khăn thủy bố. Căn cứ vào các cách sử dụng khác nhau, nó có rất nhiều công dụng hỗ trợ, đó là vật không thể thiếu khi đánh trận trong rừng sâu núi thẳm, lúc thường có thể dùng để quấn cổ, khi vào rừng thì thắt cổ áo để tránh muỗi vắt côn trùng chui vào trong quần áo. Lúc này, nó tự nhiên lại phát huy tác dụng rất tốt, hội ba người Tư Mã Khôi đều lấy ra để bịt mũi.



Ngọc Phi Yến cũng muốn tìm biện pháp đề phòng hữu hiệu, nhưng trên người lại không có khăn thủy bố, nên cô ta đành tìm một chiếc khăn quàng che mặt lại, tuy vậy vẫn cảm thấy khó mà chịu đựng thêm được. Cô ta cau mày nhìn chiếc đồng hồ đo không khí đeo trên cổ tay, thấy thông số hiển thị rõ ràng trên mặt đồng hồ: lượng khí Cacbonic là 0,5; nồng độ khí Metan ở mức dưới 1%, mới tạm thời yên tâm, nhưng liền sau đó cô ta phát hiện chỉ số này lúc cao lúc thấp, chẳng biết nó bị hỏng từ lúc nào nữa.



Ngọc Phi Yến vội vàng nhìn lại chiếc la bàn, phát hiện nó cũng trong tình trạng không bình thường như vậy. Nghe nói dưới lòng đất có núi từ, bởi vậy những vật sắt trôi nổi đều tự động quay về hướng nam. Từ thời thượng cổ, Hiên Viên Hoàng Đế đã biết vận dụng nguyên lý này để tạo ra xe chỉ nam, nhờ vậy mà có thể đại phá quân Xi Vưu trong sương mù; còn loại la bàn mà đội thám hiểm sử dụng là kim chỉ bắc, kim của nó chỉ về hướng Bắc là do hướng từ bắc, hướng từ bắc và hướng bắc thật sự chênh lệch một độ nhất định, nếu có thể tính ra sai số góc lệch này, thì việc đoán định phương hướng càng chính xác hơn. Thế nhưng trong khe sâu của núi Dã Nhân, dường như đang tồn tại một loại từ trường cực mạnh, kim chỉ bắc chắc chắn bị nó gây nhiễu loạn, mới mất tác dụng như vậy. Cô ta dừng chân nói với mọi người: "Khe sâu dưới lòng đất này tối mù mù, không những thế sương khí càng ngày càng dày đặc, nếu la bàn mà nhiễu loạn, thì chẳng còn vật tham chiếu nào dẫn đường nữa, chúng ta đúng là trở thành kẻ mù thật rồi."



Chiếc máy điện đàm mà Ngọc Phi Yến đeo trên lưng vẫn chưa bị thất lạc, để xác định xem có thực sự bị từ trường nhiễu loạn hay không, cô ta bảo Tuyệt mở máy điện đàm không dây ra, chỉ nghe thấy những tạp âm "rè rè", "xẹt xẹt" phát ra, sau đó không ngờ lại có tiếng người nói lúc được lúc mất, âm thanh rất đỗi mơ hồ, cũng chẳng rõ họ muốn nói gì. Tuyệt giật nảy mình, suýt chút nữa đã ném chiếc máy xuống đất: "Ma quỷ thần ơi, sao ở đây lại bắt được tín hiệu nhỉ?"



Mọi người đều nhìn nhau kinh hãi, không hẹn mà cùng lập tức đề cao cảnh giác. Tuyệt định thần lại, cố dò tìm điều chỉnh tần sóng. Âm thanh trong bộ điện đàm không dây dần dần trở nên rõ ràng hơn. Cô nghe một hồi, rồi nhỏ giọng bảo: "Đối phương hình như muốn nói đến một tọa độ nào đó!" - ngoài y thuật gia truyền ra, cô còn có tài năng thiên bẩm về ngôn ngữ, vừa mới tới Miến Điện chưa bao lâu cô đã được điều đến sư đoàn nhiệm vụ đặc biệt - khu quân sự đông bắc của quân cộng sản Miến Điện, tham gia khóa đào tạo chuyên môn giải mã điện đàm mật, các loại máy thu phát tín hiệu có công suất nhỏ thể bán dẫn không dây, nên chẳng loại nào cô không thông thạo. Không những vậy, cô còn hiểu cách xem bản đồ quân dụng, dạng tọa độ đơn giản thế này đối với cô chỉ là chuyện nhỏ. Trong lúc đang bận ghi nhớ tín hiệu vào đầu, cô chợt thấp thoáng nghe thấy một lời nói phát ra từ chiếc máy bộ đàm không dây chiến thuật: "Tôi đang... ở trong rắn..." có thể xác định chính xác đó là dạng mã quốc tế, hơn nữa nó liên tục phát ra cùng một nội dung trùng lặp.



Tư Mã Khôi gật đầu với Tuyệt, ra hiệu cô hãy trả lời, đồng thời hỏi rõ thân phận của đối phương. Tuyệt làm theo lời anh, nhưng đoạn sóng điện đó lập tức chìm vào im lặng, sau đó nó đáp lại bằng một mật mã kỳ quái không thể giải đọc nổi: "A...A...D."