Mộ Vân Thâm

Chương 2




Trừ Tịch, yến tiệc thiên tử. Ngày mùng một Tết, buổi trưa đại yến quần thần, buổi chiều Hoàng đế tự mời tiệc riêng, chỉ mời những cựu thần năm ấy cùng trải phong ba, giờ đã cáo lão hồi hương. Phương lão tướng quân tuổi tác cao lại ẩn cư nơi rừng núi, Phương Đỗ Nhược thay mặt tham dự nhưng chỉ ngồi xa xa. Chỗ thượng cấp ngồi, thái giám đứng bên đọc lời chúc, Hoàng đế đứng dậy lần lượt mời rượu, ngồi tại vị trí đầu tiên là bạn chí cốt của Hoàng đế năm đó, tiền Tây An Tướng quân Triệu Mạc, ông thấy Thiên tử đi tới, vội vàng đứng lên nghênh tiếp. Hoàng đế lấy bầu rượu tùy thị đang cầm bên cạnh, rót đầy chén ngọc bích của mình và ly rượu của Triệu lão tướng quân, nâng chén nói: “Ta ngươi đều đã già rồi, chuyện khác không cần chúc, sống lâu trăm tuổi là tốt rồi.”

Triệu lão tướng quân bái tạ: “Vi thần tạ chủ long ân.” Nói rồi cầm ly uống cạn. Hoàng đế cũng nâng chén đặt bên môi khẽ chạm một chút, cười cười vỗ vai Triệu lão tướng quân, lại đi tới chỗ Binh bộ thị lang Hạ đại nhân ngồi phía đối diện, lời hàn huyên còn chưa dứt, chợt nghe phía sau vang lên tiếng hoảng loạn. Khi Hoàng đế quay đầu nhìn đã thấy Triệu Mạc ngã sấp xuống đất, toàn thân co giật, mấy chiếc bàn dài trước mặt đã lật nhào, chén khay lăn lóc.

Hoàng đế bước nhanh trở lại, cúi đầu nhìn, mặt lập tức trắng bệch, cất giọng ra lệnh: “Truyền thái y! Mau truyền thái y!”

Nhất thời cả phòng đại loạn, mấy thị vệ thấy tình thế không ổn vội vàng đứng lên vây thành vòng tròn trước Hoàng đế. Cận vệ thống lĩnh Hàn Tử Kiêu nhìn xung quanh đại điện, không thấy gì khác thường, bụng nghĩ vấn đề e là ở trong ngự tửu, gã lập tức đoạt bầu rượu, cúi người xem tình trạng Triệu lão tướng quân, không ngờ ông đã tắt thở. Hàn Tử Kiêu cuống cuồng hỏi Hoàng đế: “Vạn tuế, rượu vừa rồi ngài đã uống chưa?”

Hoàng đế chậm rãi lắc đầu, dù năm ấy từng chinh chiến sa trường, song giờ tuổi tác đã cao, yến tiệc đang vui chợt thấy thảm kịch, người chết đi lại là người cực kì thân cận, thân tâm thực khó chống đỡ. Lúc dừng bước, ngài đã được Hàn Tử Kiêu đỡ lấy.

Hàn Tử Kiêu nói nhỏ bên tai Hoàng đế: “Vạn tuế bị kinh hách rồi, e rằng, là độc.”

Hoàng đế quay đầu nhìn gã, run giọng hỏi: “Người nào… có thể hạ độc trong rượu? Lại là vì…”

“Sợ rằng người đó cũng không biết vạn tuế gia mấy ngày nay uống thuốc không chạm vào rượu.” Hàn Tử Kiêu một lời ra miệng, nghĩ đến việc mưu thích liên quan quá nhiều, không phải chuyện mà một thị vệ như gã nên xen vào, vì thế không nhiều lời thêm, chỉ nhìn tới chỗ các hoàng tử, mong vị chủ tử nào đó có thể ra mặt trấn an cục diện.

Trong phút kinh biến, Thái tử Dục Ninh cũng nhất thời luống cuống tay chân, thấy phụ hoàng lúc này được thị vệ bảo vệ, các lão thần ngồi kia mặt không còn chút máu, nhớ tới trách nhiệm của mình, đứng dậy nói: “Chuyện đột ngột xảy ra, trong cung nhất định sẽ tra rõ, hôm nay mọi việc rối loạn, các vị lão đại nhân trước tiên xin cứ giải tán.”

Các lão thần đều đứng dậy rời khỏi chỗ, run rẩy bước ra ngoài, nhất thời mấy chiếc bàn dài lệch khỏi vị trí, chén khay ầm ĩ. Dục Ninh khom người tới trước mặt Hoàng đế bẩm: “Phụ hoàng đã bị kinh hách rồi, để hài nhi dìu phụ hoàng hồi cung nghỉ ngơi, chuyện hôm nay hài nhi chắc chắn sẽ tra ra manh mối.” Dứt lời đưa tay nâng dậy. Không ngờ Hoàng đế thản nhiên đẩy cánh tay hắn, “Hình bộ là Dục Sơ giám thị, huynh đệ các con thương lượng xem nên điều tra thế nào đi, nhất định phải cho quả nhân một câu trả lời!” Nói xong liền để Hàn Tử Kiêu đỡ về hậu cung.

Dục Ninh sững sờ, lát sau xoay người nhìn chỗ ngồi của các vị đệ đệ. Tam hoàng tử Dục Sơ thần sắc vô cùng sầu lo, cách đại điện sáng rực, xa xa trông lại hướng hắn.

“Năm mới vừa qua, con lại muốn đi?” Thừa tướng Sử Uyên nhìn thanh niên áo xám ngồi trong phòng khách, chầm chậm hỏi.

Phương Đỗ Nhược hiểu Sử Uyên lo lắng chuyện gì, lại không biết khuyên như thế nào, chỉ thưa: “Đê đông hà năm trước vẫn chưa sửa xong. Đầu xuân, lũ do băng tan liên tiếp lũ mùa xuân, chuyện liên quan đến nước lửa, chậm trễ không được. Hơn nữa vụ xuân canh đã tới, mà thủy lợi bên cạnh Hoàng Hà cũng cần phải đi kiểm tra, việc củng cố đời sống nhân dân là đại sự, để người khác đi xem, chẳng bằng tự mình làm thì yên lòng hơn.”

Sử Uyên than nhẹ một tiếng: “Việc nước lửa đương nhiên là lớn, tình hình chính trị trong triều giờ cũng như nước với lửa, con đi lần này, là vi sư thiếu mất một cánh tay.”

“Học trò bất tài, khiến thầy khó xử rồi. Bây giờ Hoàng đế tuổi đã cao, trong triều lòng người lo sợ, văn võ bá quan đều tự bảo vệ mình mà không có thời gian quan tâm chuyện khác, việc bách tính, học trò không làm thì không có ai làm. Thầy cả đời vì nước vì dân, học trò biết thầy nhất định sẽ thông cảm.”

Sử Uyên cười khổ: “Con đã nói thế, vi sư đâu thể khuyên gì thêm. Thời buổi rối ren, con có thể tránh cái đất thị phi này, âu cũng là chuyện tốt.”

“Học trò…”

“Vi sư lo là lo bản tâm của con, vi sư tất nhiên biết. Quan trường vẩn đục, con không muốn để chân hãm sâu vào bùn lầy, vi sư cũng hiểu. Thân là thứ quan Công bộ, hơn nửa đời hao hết ở công trường là đương nhiên. Làm được đến độ như con, nếu không phải đại trí giả ngu thì cũng chẳng còn lí do nào khác.”

Phương Đỗ Nhược thấy Sử Uyên nói thẳng ra, không thanh minh, chỉ nhỏ giọng thưa: “Việc trong cung hôm Tết Nguyên Đán đã qua được hơn mười ngày, học trò nghĩ lại đến giờ lòng vẫn còn sợ. Nếu gia phụ chưa từng ẩn cư, chỗ ngồi thứ nhất đó tất là vị trí của gia phụ, mỗi lần nghĩ đến đây, học trò thấy may mắn song vẫn luôn sợ hãi. Phật bảo thế sự vô thường, sinh tử không thể lường trước, vinh nhục tiến thoái càng là mây khói ngoài thân, học trò chỉ muốn sinh thời có thể giúp đỡ bách tính, làm việc có ích, còn chuyện khác, học trò thực sự không có sức mà quản.”

“Cũng không phải không có sức, chẳng qua là vô tâm thôi. Tính nết của con với cha con rất giống nhau.”

Phương Đỗ Nhược cúi đầu cười, lại nghe Sử Uyên hỏi: “Con có thể giữ mình trong sạch như thế, nhưng Lục điện hạ thân là long loại, huyết mạch thân thiết, sạch không được mà trốn không xong, chuyện của hắn con cũng vô tâm mà quản sao?”

Phương Đỗ Nhược nghe vậy, cười không nói.

Sử Uyên trong lòng biết chuyện liên quan đến hoàng tử, nói cũng không thể nói thêm nữa, nghĩ nghĩ lại bảo: “Con nếu phải đi, vi sư giờ hỏi con, việc mưu thích, theo ý con là người nào gây nên?”

“Có thể hạ độc trong rượu, tất là người trong cung.”

“Ai cũng nghĩ thế. Bây giờ Hình bộ đưa ra Quang lộc tự khanh Cố Hoằng Chi, Tam ti hội thẩm gần nửa tháng, không tra ra một chút manh mối, Hoàng thượng thúc giục rất gấp, Thái tử điện hạ nghĩ mãi không ra, vi sư không biết nên làm gì để giúp đỡ điện hạ đây.”

Cố Hoằng Chi là cử sĩ cùng thời với Phương Đỗ Nhược, khá có quen biết. Tiệc rượu trong cung xảy ra chuyện không may, Quang lộc tự khanh khó thoát khỏi trách nhiệm, Phương Đỗ Nhược nghĩ đến tình nghĩa thường ngày, trong lòng phiền muộn, nghe Sở Uyên nói có chút nhờ cậy, trầm ngâm chốc lát rồi cẩn thận bảo: “Bây giờ Hoàng thượng hiềm nghi ai, hẳn thầy cũng biết.”

Sử Uyên nghe vậy bóp chặt chén trà, “Hoàng thượng có bất trắc, tất nhiên là thái tử đăng cơ, khoan nói vi sư, văn võ bá quan có ai lại không biết. Nhưng vi sư nhìn Thái tử điện hạ lớn lên từ nhỏ, hiểu rõ điện hạ thành thật hiếu thảo, làm người lương thiện ôn hòa, tuyệt đối sẽ gây ra việc giết vua giết cha. Hoàng thượng xưa nay hành sự cũng thường nương tay, vi sư nghĩ mãi không ra người nào muốn đưa bệ hạ vào chỗ chết. Động cơ giết người một ngày khó giải, thì hiềm nghi với điện hạ một ngày khó gỡ, sao vi sư có thể không trằn trọc…”

Phương Đỗ Nhược thấy thầy sầu khổ như vậy, không đành lòng qua loa tắc trách, theo sự thật mà thưa: “Học trò nghĩ, kẻ mưu thích cũng không muốn đưa bệ hạ vào chỗ chết.”

Sử Uyên nghe vậy kinh hãi, “Hạ độc trong rượu, không phải muốn đưa bệ hạ vào chỗ chết thì là gì? Nếu không phải bệ hạ mấy ngày nay uống thuốc không chạm rượu, hậu quả hôm nay thực không thể tưởng tượng được đâu!”

“Nếu học trò nói, kẻ mưu thích đoán chắc rằng bệ hạ ngày ấy sẽ không uống rượu, mới hạ độc trong rượu thì sao?”

Lời vừa nói ra, như được giác ngộ, Sử Uyên không khỏi ngây người.

“Thầy vừa rồi cũng nói, bệ hạ nếu có gì bất trắc, trong triều chỉ có Thái tử được lợi, nếu kẻ mưu thích không phải Thái tử, tội gì phải cực nhọc làm giúp người ta.”

“Con muốn nói…”

“Danh là mưu thích còn thực là giá họa, e rằng người đó muốn dồn Thái tử điện hạ vào chỗ chết.”

Hung hiểm lợi hại trong đó Sử Uyên bây giờ đã hoàn toàn sáng tỏ, không khỏi đưa mắt nhìn môn sinh của mình, tuổi y mới hai mươi tư, xa triều đình lâu vậy, không ngờ tâm tư trấn tĩnh như thế, quả nhiên là trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã tường, trong cuộc u mê ngoài cuộc tỉnh táo.

“Theo con xem, là ai?

Phương Đỗ Nhược cúi đầu nghĩ chốc lát, chỉ đáp: “Dù sao cũng không phải Lục điện hạ.”

Là… Tam hoàng tử, cũng chỉ có thể là Tam hoàng tử.

Hoàng tử kết vây cánh, họa từ trong nhà ra, rốt cuộc cũng bắt đầu rồi đấy ư…

Sử Uyên thở dài một tiếng, im lặng thật lâu mới nói: “Dù ta với con lòng đều biết, nhưng tay không có chứng cứ, nên thế nào cho phải…”

Việc đã đến nước này, tùy tiện giải thích với Hoàng đế, không có bằng chứng, khác gì gièm pha ly gián. Phương Đỗ Nhược nghĩ thấy mình nói thẳng ra không những vô ích, ngược lại còn khiến thầy thêm buồn lòng, từ xưa đến nay làm người đã gian nan, khó nhất là nhà đế vương, lòng lại nghĩ đến người kia, không thiết tha hoàng vị, thuần khiết đến thế, không biết làm sao mới bình yên suốt đời được. Đang lúc bi thương, lại nghe Sử Uyên nói: “Kế bây giờ, chỉ có thể xem Tam ti hội thẩm có chút tiến triển gì không, trả cho Thái tử điện hạ một thân trong sạch mà thôi.”

Tam hoàng tử giám thị Hình bộ nhiều năm, đâu phải không biết Đô sát viện và Đại lý tự đều là thiên hạ của hắn, dù trước khi lấy khẩu cung, vu oan giá họa cũng không hiếm lạ. Phương Đỗ Nhược nghĩ Cố Hoằng Chi làm người rất cương liệt, nhất định không chịu tiếp tay giá họa, lần này vào ngục chỉ sợ lành ít dữ nhiều, tâm sự một chuyện lại một chuyện quy về hết, nhất thời uất khí khó bình, mối lo trăm bề, không khỏi lệ rơi tràn mi.