Mộ Vân Thâm

Chương 5




Liên tiếp hành quân bốn ngày, nơi đã bước qua đều là cỏ cây yếu ớt, mây mù khắp trời, tiêu điều xác xơ ngập tràn. Dục Thanh xa xa nhìn lại, thấy binh sĩ đang đi về phía trước đều lộ vẻ mỏi mệt, chẳng trách bản triều giao chiến với tộc Thổ Dục Hồn toàn thắng ít bại nhiều. Tthảo nguyên mênh mang ngàn dặm chẳng thấy điểm cùng nơi cuối, có thể vắt kiệt tinh thần người ta. Chợt nghe binh sĩ khảo sát địa hình cao giọng đưa tin: “Có ngựa từ hướng Tây Bắc tới, không dưới năm trăm con!”

Ánh sáng vụt qua đôi mắt Dục Thanh, hắn cao giọng ra lệnh: “Cứ bày trận theo hình chữ nhị! Giết địch bêu đầu luận công ban thưởng là quy củ của ta, thỏa tay mà đánh!”

Chúng binh tướng hưởng ứng rầm trời, nhất thời tiếng vó rền vang. Dục Thanh thấy tất cả thuộc hạ đều mang theo binh mã án trận, cũng tự rút đao thúc ngựa, hướng thẳng Tây Bắc.

Tới thật đúng lúc, chỉ sợ ngươi chẳng tới thôi!

Nơi chân trời bụi cát dưới vó ngựa tung mịt mùng, Dục Thanh vung đao quất ngựa, kéo theo cả đội quân cưỡi ngựa cuồn cuộn phi tới hướng địch phía trước. Người Thổ Dục Hổn cưỡi ngựa tới như cuồng phong, khoảnh khắc binh mã giao chiến, tiếng giết rung trời, cát vàng che lấp cả vầng thái dương. Thế tiến công của quân địch hung mãnh, binh khí kỹ lưỡng, kỹ năng cưỡi ngựa tả xung hữu đột chém giết không dứt, Hán binh quật cường kiên trì nửa ngày, sau đó phải lui về sau, cuối cùng theo lệnh Dục Thanh, tất cả hồi mã, gấp gáp trở về.

Người Thổ Dục Hồn đời nào chịu buông tha, lũ lượt đuổi theo, chẳng ngờ ngựa của Dục Thanh đều là ngựa tốt, lúc này phấn chấn càng chạy băng băng, tốc độ ngàn dặm, chiến mã người Thổ Dục Hồn tốt xấu lẫn lộn, chiến trận dần dần bị kéo dài, những kỵ binh rớt lại phía sau thấy ngựa đằng trước thật khó mà đuổi kịp, sơ suất nổi lên, lại nghe hai bên trái phải tiếng hô giết rền vang, những Hán quân vốn bị đánh cho tan tác nay giục ngựa công kích như từ trên trời giáng xuống.

Tộc Thổ Dục Hồn nào biết rằng, Hán binh đang tiến đánh bây giờ không phải loạt quân vừa bỏ chạy lúc nãy, Dục Thanh vờ bại, muốn phân tán địch rồi diệt từng phần nhỏ. Bây giờ cường binh Thổ Dục Hồn đã theo Dục Thanh đi xa, đại bộ phận còn lại rơi vào đoàn mai phục của Hán binh, như cá nằm trên thớt. Dù người Thổ Dục Hồn có lấy một chọi mười, song Hán binh đã vây kín gấp mấy lần địch. Đích thân hoàng tử Dục Thanh từng hứa sẽ trọng thưởng, ai lại không anh dũng tiến lên phía trước giết địch tranh công, nhất thời gót ngựa đạp xác, máu tươi thành bùn, chiến cuộc đại định.

Vùng Dục Thanh nghe được tiếng giết nổi lên, liền giơ tay khua đao báo hiệu, đội thân kỵ bên cạnh nhất thời phân ra làm hai, trái phải quay lại hối hả đánh hai bên sườn địch. Dục Thanh cũng quay lại theo đội bên phải, đâm ngang vào xương sườn truy binh. Binh lính Thổ Dục Hồn thấy Hán binh đột nhiên chuyển hướng, nhất thời nghi ngờ giảm tốc độ, nhất thời đánh mất cơ hội đột phá vòng vây, kỵ trận bị Hán binh đột nhập, người thét ngựa hí loạn lạc. Nhưng thủ lĩnh tộc Thổ Dục Hồn dù sao cũng có kinh nghiệm sa trường, giờ này cao giọng hô mệnh lệnh, chớp mắt ngăn chặn được tình thế rối ren của thủ hạ. Thấy binh lính Thổ Dục Hồn lại định tập kết ở tâm trận, Dục Thanh thúc ngựa thẳng hướng thủ lĩnh tộc Thổ Dục Hồn, dọc đường chém thương hơn mười tên địch cưỡi ngựa, như đi vào nơi không người.

Thủ lĩnh tộc Thổ Dục Hồn quất ngựa nghênh đón, hai ngựa giao nhau tiến đấu, Dục Thanh vung tay chém phăng thủ cấp xuống ngựa, máu thấm chiến bào. Hán binh thấy chủ soái tiên phong đi đầu lập thành kỳ công, mỗi người đều mặc kệ sống chết, ánh đao lóe rạng, máu đỏ lan tràn, màu trời mất sắc, cho đến khi giết sạch binh tộc Thổ Dục Hồn, không sót lấy một sinh mạng.

Dục Thanh lau đi vệt máu trên mặt, nhìn Tu La trường dưới móng ngựa hỗn độn nơi nơi, lạnh lẽo mỉm cười.

Sẩm tối tất cả dựng trại, Dục Thanh thấy doanh trại các chốn sôi nổi đăng ký công trạng và chiến lợi phẩm, lòng thấy đắc ý, nhìn tổng cộng kết quả ở đại trướng chủ soái. Dụ Thanh đẩy chiếc xe đẩy chất đầy bản sao của giấy tờ các đội đưa đến, thấy Dục Thanh vào trướng, vội vàng đứng lên hành lễ. Dục Thanh đi tới cầm lấy một tờ bản sao, nhìn lướt qua nói: “Chữ ngươi rất đẹp, lúc nhỏ bái danh sư nào?”

“Điện hạ quá khen, trước kia từng đọc Mạch Thiếp thôi.”

Mạch Thiếp nguyên là tên loại sách để tập viết chữ Khải mà tổ tiên Mạch gia Mạch Khuyết Dung truyền lại cho con cháu trong nhà, nhưng rồi bị truyền ra ngoài, bị thương gia thêm thắt thành lối chữ Khải mà Mạch Khuyết Dung chỉ truyền lại cho đời sau, hợp thành “Mạch Thị Thiếp” để buôn bán. Cho đến giờ, khoảng mười đứa trẻ trong nước sẽ có bảy, tám đứa phỏng theo chữ trong Mạch Thiếp. Dục Thanh nói: “Là chữ mà người người học theo, nhưng học được khí khái như vậy thật hiếm thấy, chữ của ngươi có mấy phần giống với chân truyền của Mạch gia, Mạch Sở Địch.”

Dụ Thanh xấu hổ cười cười, chốc lát nói: “Đừng nói là mấy phần giống, giống một phần thôi cũng đã là Dụ Thanh may mắn, điện hạ nói vậy, thật khiến Dụ Thanh chẳng biết làm sao cho phải.”

Dụ Thanh bao năm một mình ở trấn Mục Dương sống những ngày bình lặng, lấy roi viết tên trên nền đất luyện chữ, ngày ngày không nghỉ, hôm nay nghe lời này của Dục Thanh, chỉ thấy nhiều năm cô độc vất vả như có chút đền đáp, nhất thời vừa mừng rỡ vừa xót xa, vội đáp một câu liền cúi đầu ngẩn người. Đối với người tên Mạch Sở Địch đó, lòng Dục Thanh có phần phức tạp, cũng im lặng. Trong trướng thoắt im ắng. Một lát Dục Thanh hỏi: “Hôm nay các binh lính và các doanh trại có thiệt hại gì không?”

“Nhờ mưu này của điện hạ, chỉ có một gã bộ tốt chạy trốn không kịp bị chiến mã của người Thổ Dục Hồn đạp chết, vì chiến sự đã đi xa nên những người còn lại đều không thương tổn gì, lương thảo vật tư cũng được bảo toàn. Kỵ binh chắc cũng không thiệt hại nhiều lắm đâu.”

“Nếu không vì biết chiến mã tộc Thổ Dục Hồn không có cỏ ăn nhất định sẽ yếu đi, ta cũng không dùng kế này. Công lao của ngươi thật không nhỏ, nhớ kỹ đấy.”

Dụ Thanh vội vã bái tạ, lúc đứng dậy nỗi lòng lo lắng ùa tới, cẩn thận nói: “Vừa rồi Dụ Thanh mang thuộc hạ dọn dẹp chiến trường, thấy thi thể binh sĩ dân tộc Thổ Dục Hồn gầy gò, trong dạ dày bị phá nát chỉ chảy cạn dịch vàng chứ hoàn toàn không có vật gì, đoán là đói lâu ngày… Bắt sống được bảy tám chục người, điện hạ có thể khai ân cho chút cháo loãng được không?”

Dục Thanh nghe vậy lòng mày nhếch lên, “Vậy cũng thật lạ lùng, ta vận chuyển lương thảo mấy ngàn dặm tới đây hà cớ gì phải hao tổn cho địch? Họ thắng tự họ ăn, hôm nay bại, chịu đói chờ chết là lẽ đương nhiên, ngươi đã nói vậy, ta để chúng sung sướng một chút cũng được.” Nói đoạn cao giọng ra bên ngoài trướng: “Truyền lệnh ta, đội bắt tù binh sau khi thẩm vấn cẩn thận thì giết toàn bộ cho ta.”

Dụ Thanh nghe Dục Thanh nói vậy nháy mắt biến sắc, không dám nói thêm một lời, dù đã cắn chặt khóe môi cũng không ngừng được toàn thân phát run.

Trải qua chiến tranh, Hán binh thiệt hại một trăm bảy mươi người, giết sạch sáu trăm năm mươi tên, những tên địch đầu hàng bị xử tử, tổng cộng hơn bảy trăm bốn mươi tên. Lục hoàng tử Dục Thanh đích thân lâm trận thu về toàn thắng, hạ cờ của bọn tướng sĩ như lang như hổ, thủ đoạn hà khắc, danh “Ngự Tu La” thành hình.

Ngày tiếp theo dỡ trại, để không làm chậm tốc độ hành quân, Dục Thanh lệnh cho thương binh ở lại còn đại bộ phân sẽ đi trước. Dụ Thanh biết lương thảo tùy thân của thương binh đã thiếu ba ngày, hơn nữa không người chăm sóc, rời xa đội ngũ chỉ có đường chết. Song, một lời thỉnh cầu hôm trước của y đã đẩy tính mệnh gần trăm người xuống hoàng tuyền, cho tới giờ không dám khuyên gì thêm, chỉ có thể âm thầm lấy từ trên xe trở vũ khí một thanh kiếm, vội vã đặt bên người một thương binh còn có thể cử động, hi vọng gã có thể tự mình kết thúc quãng thời gian khốn khổ cuối cùng. Xoay người vừa bước được mấy bước, thương binh phía sau đã dùng âm thanh đọng đầy máu tươi nói với y: “Dụ Thanh, ngươi là người tốt.”

Dụ Thanh dù chẳng còn phân rõ được chất giọng, nhưng biết người gọi y lúc này nhất định là giáo úy trước kia từng xích mích với y, nhất thời nước mắt trào lên ướt mi nhưng bất kể thế nào cũng không quay đầu, sải bước trốn tránh.

Đại quân nhằm hướng Bắc đi đã mấy ngày, dọc đường cỏ hoang lụn bại dần, chưa nói đến nhân mã, ngay cả thỏ hoang chuột đồng cũng khó thấy một con. Mỗi ngày gió lớn cộng thêm rét mướt khô hạn khiến chư tướng mệt mỏi rời rã, ngựa cũng chậm chạp lê bước, nơi nào đi qua mặt đất đều mù mịt khói bụi. Một hôm, lính cần vụ báo cáo nước không còn lại bao nhiêu, thấy lộ trình mấy ngày nữa mới đến được hồ nước, Dục Thanh do dự mãi, quyết định thay đổi lộ tuyến hành quân, tới con sông cạn gần đó trong ấn tượng của Dụ Thanh.

Đi được nửa ngày, tiếng nước róc rách lọt vào tai, binh tốt chiến mã khát nước mấy ngày vừa thấy nguồn nước, ai nấy chen chúc vượt lên trước hoan hô vui sướng, nhất thời tiếng ồn ào vang khắp mặt sông. Dục Thanh trước đó nghe Dụ Thanh nói tiết trời khô hạn đến thế này, chỉ sợ sông đã cạn khô, lúc này thấy lòng sông có mạch nước nhỏ, tâm trạng không khỏi thả lỏng. Hắn thúc ngựa đi mấy bước ven bờ, binh sĩ thấy thế đều tránh đường. Dục Thanh đang muốn xuống ngựa uống nước, trong lòng bỗng như bị rot quất, khi kéo ngựa quay đầu vừa đúng lúc thấy xe lương thảo của lính trông coi đằng xa đang bốc khói dày đặc, mấy người tộc Thổ Dục Hồn đang ngồi trên lưng ngựa cầm trong tay túi đựng dầu hất vào từ bốn phía, tức khắc lửa lan tận trời.

Dục Thanh quát to: “Cả đội cứu hỏa!”

Vừa quát vừa quất ngựa chạy tới. Mấy tướng sĩ đứng gần trường đại hỏa phục hồi tinh thần, thúc mã tiến lên giết binh lính Thổ Dục Hồn. Song hỏa hoạn đã xảy ra, có gió góp sức, mượn lực của dầu, thế lửa như cuồng long nộ hổ, chẳng sao mà vớt vát được. Chiến mã sợ lửa, những người cưỡi ngựa đều bị hơi nóng khói đặc dọa cho lui về sau liên tục, chỉ có thể thẫn thờ nhìn ngọn lửa liếm sạch tất cả.

Trong khoảnh khắc bất lực, chợt thấy mấy người lính cần vụ bọc vải lều thấm nước vội vàng lao vào đám cháy, một trong số đó thét gào những lời hỗn độn, xen trong tiếng lộp độp của lửa nghe thật không chân thực. Bộ tốt còn lại dưới sự chỉ huy của y lấy vải lều ướt phủ lên lương thực cháy, tầng tầng lớp lớp từ trên xuống dưới bao kín bằng vải ẩm, ngọn lửa ở một xe bị dập tắt, tàn lửa xung quanh bắn ra khắp nơi rơi vào phần vải ẩm cũng không cháy thêm nữa.

Cứ thế cứu được hai, ba xe, cũng may lương thực chưa bị đốt sạch, những binh tốt còn sót lại theo họ tới dập lửa, do hỏa thế quá mạnh, lầm lỡ đã rồi, chỉ miễn cưỡng cứu được mấy đống than tàn.

Đợi đến khi ngọn lửa tắt hết, mấy bộ tốt vừa xông vào biển lửa lả người nằm trên mặt đất cháy đen, tầng vải cuối cùng trên người bị hơ khô đến cháy sém, trên mặt mỗi người là khói bùn khó phân. Dục Thanh đi qua tóm lấy người cầm đầu bộ tốt, giơ tay áo lau đi bụi đất trên gương mặt y, không phải Dụ Thanh thì là ai.

Dục Thanh chỉ cảm thấy nỗi căm hận, không cam lòng và cả cảm kích dâng lên tận cổ, túm vai Dụ Thanh trầm giọng nói: “Bây giờ bảo ta thưởng cho ngươi thế nào đây!”

Dụ Thanh quỳ hai gối xuống, dập đầu thưa: “Nếu không có Dụ Thanh đề nghị tới đây lấy nước, quân ta cũng sẽ không trúng mai phục, Dụ Thanh chết vạn lần cũng không đền đủ tội, khẩn cầu điện hạ trách phạt thật nặng.”

“Lần này hỏa hoạn không phải do mai phục, đường sông dài đằng đẵng, người Thổ Dục Hồn chắc chắn không biết quân ta lấy nước ở đâu, nhất định là theo dấu vết chúng ta đi đường mà mò tới đây tùy thời xuống tay. Nếu có trách tội chỉ có thể trách ta sơ suất, trúng kế dùng khoẻ ứng mệt để diệt cỏ tận gốc của chúng. Nếu không có ngươi dập lửa đúng lúc, hậu quả thật không tưởng tượng nổi, đại công này phải ghi nhớ, sau này chiến thắng trở về, phong ngươi làm Thiên hộ.”

Dụ Thanh lại từ chối thưa: “Dụ Thanh một chưa từng ra trận giết địch, hai chưa từng dự việc quân cơ, cứu mấy xe lương thảo này cũng không đủ để quân ta tới được vương đình tộc Thổ Dục Hồn, làm đến cả trăm việc lại chẳng hữu dụng việc nào như vậy sao dám nhận trọng thưởng như thế, xin điện hạ thu hồi mệnh lệnh.”

Dục Thanh chỉ lắc đầu không để ý, còn nói thêm: “Mấy xe lương thảo này dù không đủ để tới được vương đình tộc Thổ Dục Hồn nhưng lấy lương thực của địch không phải đủ rồi sao, nhiều người Thổ Dục Hồn sống ở gần nơi có nước, không phải ngươi nói thế à.” Hắn nói xong cao giọng ra lệnh: “Chỉnh đốn hàng ngũ, tăng tốc đến ven sông!”

Trước khi mặt trời lặn, quả nhiên một đám lều trại của người tộc Thổ Dục Hồn xuất hiện đằng chân trời phía bờ sông, doanh trại lớn như vậy mà chẳng được mấy làn khói bếp, lác đác mấy con trâu con dê rời rạc ăn cỏ bên mép sông. Dục Thanh giơ tay ngừng đoàn binh mã, nói với tham tướng Hà Trừng Lâm bên cạnh: “Người Thổ Dục Hồn nếu thật sự thông minh tất sẽ mai phục ở đây, ngươi mang một đội khoái mã qua đó, ngoài trâu với dê thì chỉ cần đốt rồi giết, xem lũ phục binh có thể chịu được bao lâu.”

Hà Trừng Lâm lĩnh mệnh đi thi hành, Dụ Thanh áp tải xe lương thực phía sau Dục Thanh, nhíu mày thật sâu.

Một lát sau lửa bốc lên từ đằng xa, tiếng ngựa hí tiếng người kêu la lờ mờ vang tới. Dục Thanh dẫn đội nhân mã đi về phía trước, đứng trên ngọn đồi cao cao khoanh tay lạnh lùng nhìn Hán binh xông lên giết chóc giữa doanh trại Thổ Dục Hồn. Những phụ nữ, những đứa trẻ người Thổ Dục Hồn trốn chạy tứ phía, khóc gào chẳng dứt, một đám bị chém ngã xuống đất, ánh lửa tung tóe, máu tươi lan tràn.

Quang cảnh cứ thế một lúc, không có lấy nửa binh sĩ Thổ Dục Hồn tới cứu giúp, Dục Thanh quyết định không đưa phần lớn quân vào doanh trại, chỉ chờ tiên phong thanh trừng hết cục diện, cướp lương thực rồi trở về. Dụ Thanh cũng không thể kìm nén thêm nữa, đi tới cạnh ngựa của Dục Thanh, thưa lên: “Điện hạ, xem ra nơi này không có mai phục, quân ta cũng đã lấy lương thực rồi, cầu xin điện hạ hãy dừng cuộc chém giết vô nghĩa này lại.”

Dục Thanh nhìn ngọn lửa chẳng hề quay đầu: “Ngươi mấy lần nói đỡ cho người Thổ Dục Hồn, không sợ người ta nghi ngươi thông đồng với địch?”

Dụ Thanh nghe vậy lòng hoảng hốt, vội vã quỳ xuống, “Từ ngày Dụ Thanh tiến vào thảo nguyên luôn theo sát bên điện hạ, sao có thể thông đồng với địch, mong điện hạ minh xét.”

“Nếu ta có hoài nghi ngươi nửa phần, tuyệt đối sẽ chẳng giữ ngươi lại tới hôm nay. Ngươi nói thật cho ta biết, vì sao xin ta tha mạng cho kẻ thù?”

“Người Thổ Dục Hồn cũng là con người, nếu thắng bại đã định, cần gì phải tạo thêm sát nghiệp, vạn mong điện hạ lấy từ bi làm gốc.”

“Trên chiến trường thì nói nhân nghĩa lễ tín để mà làm cái gì, ngươi biến đánh giặc thành buôn bán rồi đấy!”

“Điện hạ, trước mặt không phải chiến trường, trong doanh trại kia chỉ có những mục dân tay không tấc sắt!”

Bên khóe miệng Dục Thanh nhướn một nụ cười thật khẽ, “Rời xa Bồ Tát, lại gặp Bồ Tát. Thôi vậy, ngươi cũng không tự mình nghĩ lại sao, đã lấy đi thức ăn của họ thì tại nơi trời đất hoang vu này dẫu sao cũng phải chết, chi bằng chết ngay bây giờ cho thoải mái.” Dứt lời nghiêng đầu ra hiệu, một tên lính cần vụ giục ngựa chạy vào doanh trại Thổ Dục Hồn.

Dụ Thanh vừa thở phào, chợt nghe bên cạnh có tiếng chân vụt qua, hoảng sợ quay đầu lại, chỉ thấy ánh đao nhanh như chớp lao vụt tới yết hầu Dục Thanh, Dục Thanh đang bất động liền rút đao đánh trả, nháy mắt kề lên cổ người vừa tới.

Hai bên giằng co.

Dục Thanh cười khẩy, “Chiêu thức ám sát toàn lực như vậy, ngươi đúng là tự tin.”

“Đứng xem ác nhân, ngươi không phải chết.” Người vừa tới mặc kỵ phục của Hán binh, khuôn mặt cháy sém như bị lửa thiêu, nói một câu tiếng Hán cứng nhắc, vừa nói vừa liếc nhìn Dụ Thanh đang đứng bên ngựa.

Dục Thanh nghe vậy, lửa giận như gai nhọn đâm vào toàn thân, trừng mắt trách mắng: “Khá lắm Dụ Thanh!”

“Đừng nghi ngờ,” kẻ ám sát mặt sẹo động đậy mũi dao, “Ta biết y nhưng y không biết ta. Ta là Cửu vương tử Thổ Dục Hồn, chúng ta thương lượng.”

Dục Thanh cũng đẩy mũi đao tiến về phía trước, dán sát vào động mạch trên cổ đối phương, “Từ lúc nào mà tới phiên ngươi uy hiếp.”

“Ngươi lộn xộn, cùng chết.”

“Mặc dù ta chết, thiết kỵ Hán binh vẫn sẽ san bằng vương đình Thổ Dục Hồn!”

Dụ Thanh vội la lên: “Điện hạ! Quân tử biết quý trọng bản thân, điện hạ suy xét!”

Vương tử Thổ Dục Hồn nói với Dụ Thanh: “Không cần quỳ trên đất, ngươi đứng lên.”

Dụ Thanh ngạc nhiên nhưng cũng không dám không nghe, đứng dậy nói với gã: “Vị vương tử điện hạ này, điều gì cần thương lượng nên nói thẳng ra, xuất đao xuất kiếm như vậy thương lượng làm sao?”

“Ta không giết hắn, hắn muốn giết ta.”

Dục Thanh nghe vậy thu lại binh khí, nhìn thẳng vào đôi đồng tử xanh biếc của vương tử Thổ Dục Hồn, “Như thế được chưa?”

Vương tử Thổ Dục Hồn cũng buông chiến đao, “Như vậy được. Ngoài năm mươi dặm có binh sĩ của ta, đêm nay sẽ tới giết các ngươi, bây giờ đừng đi, chúng ta hòa thuận.”

Dục Thanh nhất thời khó có thể tin, chỉ nghi hoặc nhìn gã.

“Các ngươi không có lương thực, chúng ta cũng không có, đánh giặc cũng đánh không lại lương thực.”

“Các ngươi không có lương thực đã có bò có dê, chúng ta tự mình tới cướp, chỉ sợ các ngươi không đủ bản lĩnh để ngăn.”

“Dê bò là cố ý thả, có độc, ngươi muốn ăn thì ăn.”

Hàng mày nhíu lại của Dục Thanh rất mau đã duỗi thẳng, “Kế hay, dân chúng của mình cũng có thể đem đi làm mồi nhử!”

“Con trai họ, chồng họ, cha họ đều bị các ngươi giết, họ muốn báo thù, là họ tự nguyện.” Vương tử Thổ dục Hồn vừa nói vừa xé tấm da nát che đậy trên mặt mình, buộc lại mái tóc rối ở phía sau, hiện ra gương mặt anh khí ngời ngời, dung mạo sắc sảo hàm chứa mấy phần yêu dã ngông cuồng, như hộ pháp đồng tử ngồi trước phật Như Lai. Mọi người xung quanh thấy gương mặt vốn có của gã, đều thầm kinh hãi, Dụ Thanh lại mở to mắt, luôn miệng nói: “Ngài… Ngài là…”

Vương tử Thổ Dục Hồn nghiêng đầu cười với y, “Ta là Thiện Lan Triết, nợ ngươi một mạng, bây giờ đến trả.”

Thì ra là lúc nhỏ Dụ Thanh tới Mục Dương, thấy lũ sói già cô độc phải gian nan kiếm sống liền không đành lòng, thường kiếm mấy con dê bị bệnh, bị chết tới cho chúng, những con sói đó hay ở quanh đàn dê của Dụ Thanh đợi thức ăn khiến cho các bầy sói khác không dám tấn công.

Khi đó Thiện Lan Triết chẳng qua mới mười sáu, tính tình háo thắng mang lính đi săn sói, lại bị một đàn sói nổi điên tách ra khỏi đội ngũ, lẻ loi cưỡi con ngựa đầy thương tích trốn khỏi sự truy đuổi của bọn sói. Trốn đến trung tâm thảo nguyên, ngựa mất máu kiệt sức còn người thì ngã khỏi lưng ngựa, thấy hơn mười dã lang đã đuổi tới, thời khắc tuyệt vọng nhất chợt nghe thấy tiếng chuông chăn thả. Người chăn dê cưỡi ngựa tới vung roi che cho Thiện Lan Triết giữa bầy sói dữ, nghiêm nghị trách mắng, có mấy con sói già đi bên cạnh ngựa của người chăn dê lớn tiếng thét dài, bầy sói truy đuổi đến đỏ mắt kia thế mà đồng loạt dừng bước, chờ đợi một lát thì chầm chậm bỏ đi.

Thiện Lan Triết hoảng hồn bình tĩnh lại, vô cùng cảm kích người chăn dê dũng cảm hiền lành nọ, liên tục nói cảm ơn y, người chăn dê đó cười với gã, đôi mắt trong hơn cả mặt nước hồ trong nhà gã, tuổi tầm mười bốn mười lăm, thanh tú như vị thần nữ trên núi tuyết hóa thân nhập phàm trần. Lần đầu tiên trong đời Thiện Lan Triết đỏ mặt, thầm nhủ mình gặp được người như vậy là trời xanh ban ơn, vội vàng báo cáo lại tên họ rồi hỏi tên đối phương. Chẳng ngờ đối phương chẳng hiểu mình nói gì, chỉ cười cười lắc đầu, giọng nói trong trẻo nhưng nói gì thì gã không hiểu.

Thiện Lan Triết lúc đó mới biết đối phương là nô lệ người Hán do một nhà giàu có mua về, tiếc rằng ngôn ngữ không thông, không thể cho đối phương biết tâm tư của mình. Dụ Thanh quanh năm không thấy người ngoài, thế là rất vui mừng, nhảy xuống ngựa chỉ về lều trướng đằng xa, Thiện Lan Triết hiểu là y mời, theo y đi uống chút sữa dê, ăn bánh gạo nếp, cả hai đều không hiểu người kia nói gì nhưng cũng rất vui vẻ hòa hợp.

Trước khi đi Dụ Thanh cầm dây cương ngựa của mình đặt trong tay Thiện Lan Triết, Thiện Lan Triết không nhận, Dụ Thanh chỉ cho gã xem mình còn một con ngựa nữa, Thiện Lan Triết mới cười rồi nhận lấy, im lặng một chốc, nghiêm trang nói với Dụ Thanh: “Thiện Lan Triết ta thề với trời, nhất định phải lấy ngươi làm vợ, ta về sẽ mang tiền chuộc, sính lễ và thổ quan biết tiếng Hán tới đây, ngươi chờ ta, ta sẽ để ngươi trở thành tân nương tôn quý nhất thảo nguyên Thổ Dục Hồn!”

Dụ Thanh không hiểu gã nói gì, cho nên cũng không biết dáng vẻ gầy nhỏ thanh tú của mình khiến đối phương tưởng là nữ, chỉ xua tay cười cười, đưa gã rời đi.

Thiện Lan Triết trở lại vương đình, vì lần đi săn sói trước đó gặp nguy hiểm nên bị cấm túc ba tháng, khi mang sính lễ và phiên dịch tới tìm Dụ Thanh, Dụ Thanh đã bị trục xuất đi mất. Thảm cỏ Thổ Dục Hồn bao la rộng lớn, Thiện Lan Triết tìm kiếm mọi phương cũng không thấy tung tích của y, đành phát động lệnh điều tra toàn bộ nhà giàu xem ai có nữ nô người Hán mười bốn mười lăm tuổi. Những nhà giàu này tưởng vương tử muốn đoạt tài sản của mình, không có thì nói không có, có thì báo cáo không trung thực, rốt cuộc cũng không giải quyết được gì.

Về phía Dụ Thanh, vì làm mất một con ngựa, trở về bị chủ nhân phạt một trận gậy gộc. Sau đó Thiện Lan Triết nắm binh quyền, từng huy động thủ hạ dưới trướng tìm kiếm phạm vi toàn bộ thảo nguyên nhưng lúc đó Dụ Thanh đã trốn, càng thêm khó tìm. Thiện Lan Triết chưa từng hết hi vọng, nhiều năm qua dốc lòng học tiếng Hán, chờ đợi một ngày gặp lại Dụ Thanh có thể tự mình nói chuyện với y, nhưng vì không biết tên Dụ Thanh, bao năm qua luôn thầm gọi y là Lang nhi.

Lần này Thiện Lan Triết thừa dịp Hán binh nóng khát lơ là cảnh giác, bố trí liên hoàn kế phóng hỏa, đầu độc, vừa mặc quân phục của thương binh quân Hán, lấy da dê nát đắp lên mặt, giả vờ làm Hán binh bị lửa làm thương trà trộn vào doanh trại, cùng với thuộc hạ Thổ Dục Hồn nội ứng ngoại hợp tiêu diệt toàn bộ người Hán.

Gã ngàn lần không thể ngờ mình có thể gặp Dụ Thanh ở đây, hôm nay Dụ Thanh đã thay đi giọng nói non nớt ngày trước, Thiện Lan Triết liền biết y là nam tử, ngày đêm tư luyến bao năm hóa thành bọt nước. Dù vậy, bất chấp đau thương căm giận, thấy Dụ Thanh vẫn trong sáng thiện lương như trước, gã vẫn nghĩ rằng lần gặp lại này là trời xanh ban tặng.

Thấy Dục Thanh nghe lời khuyên giải của Dụ Thanh thu tay ngừng chém giết, gã lo quân Thổ Dục Hồn lần trước đại bại, tinh binh diệt hết nguyên khí đại thương, cuối cùng quyết định lùi một bước để hai phía dừng việc binh đao nhưng lại sợ tùy tiện vạch trần thân phận, lấy ít địch nhiều uổng phí tính mạng, cho nên tính uy hiếp Dục Thanh sau đó thương lượng, không ngờ Dục Thanh võ công cao siêu, khí thế cường hãn, khiến Thiện Lan Triết không chiếm được lợi ích gì.

Bên này Dụ Thanh đứng dưới ngựa, nói sơ sơ ngọn nguồn với Thiện Lan Triết cho Dục Thanh nghe, Dục Thanh thấy y không cấu kết với địch, bình tâm lại một thoáng, nói với Thiện Lan Triết: “Mưu kế đảm sắc như vậy, ngươi không uổng là anh hùng, nếu quân đội hai bên đều ở đây, không ngại chính diện giao chiến định thắng bại, cũng công bằng với máu những dân chúng đã đổ xuống làm mồi nhử.”

Thiện Lan Triết lắc đầu: “Ta biết chữ Hán, binh thư người Hán ta cũng từng xem, nói ai binh tất thắng*, thật ra đánh cũng không nhất định là người nào sẽ thắng, cho dù ngươi thắng, ta ra lệnh tất cả doanh trận rời hết khỏi mép sông, binh lính còn sống của ngươi chạy không khỏi thảo nguyên được, ngươi tự mình rõ.”

(Ai binh tất thắng: quân đau thương tất chiến thắng; quân đội bị áp bức vùng lên mà chiến đấu thì nhất định sẽ chiến thắng.)

“Các ngươi mới gặp đại bại, hôm nay đã dám rời binh tới đây nhân số tất nhiên vượt qua lần trước, dù không vượt quá một ngàn, cũng có tám chín trăm, ăn thịt ngựa của chiến mã các ngươi cũng đủ.”

Lúc này Dụ Thanh chen vào khuyên nhủ: “Điện hạ, cái gọi là không đánh mà chặn việc binh đao, người thiện hướng thiện. Quân ta đến đây vốn vì hòa nghị thông thương, hôm nay Cửu vương tử điện hạ thành ý tha thiết, mọi chuyền đều thuận lợi, đây chẳng phải là trời cao phù hộ? Cơ hội trước mắt, vạn mong điện hạ đừng bỏ qua.”

“Ý ngươi là, nếu ta không đồng ý tức là nghịch thiên phải không? Ngươi thế mà rất thông minh.”

“Dụ Thanh không dám.”

Thiện Lan Triết nói: “Có gì không dám, Lang nhi nói rất đúng, thông thương cũng được, chúng ta dùng lông thú, da thú, thiết khí đổi lấy lương thực của các ngươi, rất công bằng.”

Kỹ thuật tôi sắt của người Thổ Dục Hồn thiên hạ không đối thủ, Dụ Thanh vốn định theo lời Dụ Thanh, lúc này nghe Thiện Lan Triết nói, cao giọng bảo: “Thông thương là bản ý của ta, chỉ sợ ngươi không được làm chủ thôi.”

Thiện Lan Triết rút dao cắt cổ tay mình, “Lấy máu kết minh, ngươi dám không?”

“Máu hoàng tử nhà Hán rất đáng quý.” Dục Thanh vừa nói vừa cười vang, cũng cắt tay, từng giọt máu rơi trên cát vàng.

Hỉ yến Mạch gia dự tính là vào lập xuân, gần về đêm gió lạnh hơn, ráng mây cuối ngày lửng lơ trên trời, tân nương nọ đội khăn trùm đầu đỏ chói chầm chậm bước đi, dáng người uyển chuyển cử chỉ lễ độ. Dục Sơ nhìn mà cười nhẹ, thầm nghĩ được thê tử như vậy, cũng không tính là hổ thẹn cho y.

Nhất bái thiên địa, nhị bái cao đường, vì Dục Sơ ngồi đây, tân nhân lại bái thiên gia một bái, sau đó mới phu thê giao bái, hỉ bà xướng lễ, đưa vào động phòng.

Dục Sơ nhếch miệng cười, từ đầu tới cuối tân lang với hắn đều tránh ánh mắt nhau, ăn ý vô cùng.

Hỉ yến quá nửa, tâm trạng Dục Sơ đã mệt đến khó chịu, thấy mọi người đều uống rượu say, không để ý tới hắn liền cầm theo hai vò Kiếm Nam Xuân rời khỏi bàn tiệc.

Tối nay phòng hoa chưa đốt đèn, ánh trăng từ song cửa lạc xuống, hương thơm nhẹ trôi lơ lửng, cả phòng đều thanh khiết. Dục Sơ vỗ sạch bụi bám trên đất, uống một ngụm rượu lớn, chỉ thấy miệng vừa tanh vừa chát, cay nồng như máu.

Hồi ức về kỳ thi mùa xuân mười một năm trước bỗng hiện hữu trước mắt, từ thi hội đến thi đình ngày ngày nắm chặt tay, trông đợi hơn hai tháng, hi vọng đứa trẻ mười bốn tuổi ấy có thể đứng đầu thiên hạ, mặc bộ áo đỏ thắm chói lọi của Trạng nguyên. Khi đó còn trẻ, tâm tư đơn thuần, một mặt là tình yêu thương của trưởng bối hi vọng con em mình được vinh danh; một mặt, cũng chỉ đơn giản là ngưỡng mộ sắc màu đỏ thắm ấy, muốn xem chiếc áo ấy khoác trên người y sẽ phong hoa như thế nào.

Ước vọng của ngày xưa, hóa ra đến tận hôm nay mới được như nguyện.

Đêm động phòng hoa chúc, lúc bảng vàng đề tên.

Chuyện vui nhà ai…

Trăng treo giữa trời, sáng rực mà thê lương, Dục Sơ uống đến cạn vò rượu, lại chẳng có lòng dạ nào đi lấy thêm, chỉ ngồi trên đất lặng lẽ nhìn trăng. Không ngờ cửa phòng hoa lúc này lại bị đẩy nhẹ, người vừa tới tay cầm nến, thân hỉ phục, xa xa thấy hắn thì ngơ ngẩn tại chỗ.

“Tân hôn một khắc cũng đáng giá thiên kim, tân lang quan sao lại tới đây?”

“… Thần đệ tính tối nay có gốc quỳnh sẽ nở, từ giờ tới giờ Thìn.”

“Vì hoa bỏ cả đêm xuân, đúng thật là ngươi.”

“Điện hạ say rồi, có lẽ thấy trên người không khỏe, thần đệ ra đằng trước lấy canh giải rượu cho điện hạ.”

“Nếu ta say thật thì tốt biết mấy, sẽ không đau lòng đến thế này… Hoa quỳnh của ngươi ngàn ngày mới nở, ngươi không sợ bây giờ đi rồi sẽ bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi sao?”

Mạch Sở Địch nghe vậy, xoay người đóng cửa phòng, chậm rãi đi qua bên người Dục Sơ, dừng lại ở một góc hoa phòng, thổi tắt ngọn nến trong tay.

Trăng lạnh im ắng, dưới trăng bạc, hoa phục đỏ thắm thêu họa tiết hiển hiện một quầng sáng lờ mờ. Dục Sơ nhìn mái tóc đen nhánh gần rủ xuống đất, thân hình mảnh khảnh dong dỏng, bờ vai thẳng băng, vải gấm ôm sát thắt lưng, tất cả đều của người kia. Dù cho có ngàn lần ôm vào lòng, cuối cùng cũng chỉ là tàn ảnh, vuột mất khỏi tầm tay.

“Ta muốn giết ngươi, ăn hết máu thịt, mài gân cốt thành tro hòa với rượu uống, như thế ngươi sẽ hoàn toàn thuộc về ta, không mảy may để lại cho bất kì ai. Cả ngày hôm nay ta đều nghĩ như thế, ý ngươi thế nào?”

“Điện hạ muốn, tất nhiên có thể.”

Dục Sơ cười thảm đạm. Dù ngươi có đồng ý cho, ta cũng làm sao nhẫn tâm…

Giọng nói Mạch Sở Địch vang lên dưới ánh trăng lạnh lùng: “Xem ra thần đệ tính sai ngày rồi, điện hạ nếu không có việc gì, thần đệ xin cáo lui.”

Nói đoạn bước nhanh mà đi. Lúc bước qua người Dục Sơ, không ngờ vạt áo hỉ phục bị cành hoa níu lấy, thân hình Mạch Sở Địch dừng lại một thoáng, xoay người cúi đầu, Dục Sơ cũng ngẩng đầu nhìn y, thời gian như ngừng lại ở khắc đó. Mạch Sở Địch vội vã quay lại gỡ áo, Dục Sơ cũng vươn tay gạt cành hoa, bàn tay hai người vô tình chạm nhau, phút chốc đốt cháy phế phủ. Năm ngón tay Dục Sơ nắm lấy Mạch Sở Địch hơi dùng sức, trời đất đảo lộn, càng không thể cứu vãn.

Dục Sơ hôn như cắn xé, Mạch Sở Địch khẩn thiết nghênh đón, lời lẽ lằng nhằng cũng chẳng làm chi, chỉ đành moi tim ra đưa lên miệng hắn. Nền đất trong phòng hoa cứng nhắc lạnh băng, hỉ phục áo bào cởi ra, treo trên cành hoa lác đác, cơ thể dưới đơn y nóng hổi như lửa, tình dục bộc phát đến ngay cả Dục Sơ cũng chưa từng nghĩ tới, dẫn dụ Dục Sơ không thể tự kìm chế bản thân, quên đi tất cả đau thương ẩn nhẫn ngày thường, hận sao không thể xé nát y, dung hòa vào máu thịt.

Không khí nóng rực như thiết. Hoa quỳnh tại một góc không người biết, nháy mắt nở rộ rồi chớp nhoáng cũng điêu linh.

Mọi chuyện đã xong, Dục Sơ ôm lấy Mạch Sở Địch đang ướt đẫm mồ hôi, nghe y thở dốc không ngừng, kèm theo tiếng ho khan yếu ớt. Dục Sơ cũng thấy cơ thể phù phiếm, đành phải với lấy quần áo vứt lung tung của cả hai quấn chặt Mạch Sở Địch. Mạch Sở Địch gối đầu trên vai Dục Sơ, từng hơi từng hơi dồn dập hít thở, nghe tiếng Dục Sơ vỗ nhẹ vai y, lo lắng hỏi: “Có nghiêm trọng không? Rất khó chịu sao?”

Mạch Sở Địch lắc đầu, Dục Sơ kề sát vai khẩn thiết ôm y vào lòng. Dục Sơ chỉ cảm thấy ngực đau như muốn nhỏ máu, rồi lại không dám ôm y thật chặt liền thoáng đẩy y ra, nói: “Ta ở đây, ngươi hãy thả lỏng, hít thở từ từ.”

Nói đoạn kéo tay y xuống ấn vào lòng bàn tay chính mình, rồi cúi đầu hôn nhẹ lên trán y, dỗ y từ từ an tĩnh lại. Không biết qua bao lâu như thế, chợt nghe xa xa tiếng trống báo canh tư ngoài cửa sổ, Dục Sơ giật mình, kéo Mạch Sở Địch ngồi dậy, dựa vào ánh trăng từng chiếc từng chiếc giúp y mặc lại quần áo, căn vặn: “Tân nương đang đợi, đêm nay ngươi nên qua đó.”

Thần chí Mạch Sở Địch đã thanh minh, chỉ lẳng lặng chờ hắn giúp mình cài khuy trên cổ áo tơ tằm, đứng dậy nói: “Qua đêm nay Tiểu Địch đã thành hôn phu của người khác, sau này, vẫn xin điện hạ lượng thứ.”

Dục Sơ khoác lại ngoại bào, cùng đứng lên theo y, hôn thật sâu lên môi y: “Đêm nay là ta nợ ngươi cho nên đời này nhất định chẳng phụ lòng.”

Mạch Sở Địch nghe vậy chỉ cười, từ tốn đơm lời: “Ngài với tôi đều đã thành thân, sao có thể nói phụ hay không. Thứ tránh không khỏi chẳng qua là mệnh, nếu đã là mệnh, thề hẹn nữa cũng đều vô dụng, điện hạ và Tiểu Địch trong lòng đều rõ. Điện hạ bảo trọng, thần đệ đi trước.”

Trong lòng không còn dư lại hơi ấm, Dục Sơ ngẩng đầu nhìn trăng, suy nghĩ rơi vào mờ mịt.

Thử sinh thử dạ bất trường hảo, minh nguyệt minh niên hà xứ khán*.

(Kiếp ấy đêm này không mãi đẹp

Trăng trong năm tới chốn nào trông?)


Nguyệt như vô hận, nguyệt trường viên.

(Trăng nếu không hận, trăng tròn mãi.)

Tân lang khoác hỉ phục lẳng lặng đi qua đình viện dưới ánh trăng, một đường bước đi chưa từng quay đầu lại.

Hóa ra trở ngại lớn nhất trên con đường đế vương của ngươi, là ta.

.O.

Chú thích:

*Trích “Dương Quan khúc – Trung thu tác” của Tô Đông Pha.

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu:

Mây chiều trôi hết, lạnh từng không

Ngân Hán êm ru đĩa ngọc lồng

Kiếp ấy đêm này không mãi đẹp 

Trăng trong năm tới chốn nào trông?