Phiền Toái

Chương 14: Phu nhân bằng lòng từ bỏ món yêu thích




Tiểu viện của San Nương có cái tên rất thơ, gọi là ‘Xuân Thâm’. Do Ngũ lão gia đặt, còn tự tay đề bằng kiểu chữ triện cổ xưa kia khắc lên cửa tiểu viện. Nhưng bọn hạ nhân trong phủ đều quen gọi nơi này là Tú Lâu – cũng vì là chỗ ở của tiểu thư.

Tú Lâu này có diện tích không lớn, tổng cộng chỉ có hai lầu. Lầu trên là nơi San Nương nghỉ ngơi, trung tâm lầu dưới là một cái sân, hai bên trái phải toàn là sương phòng. Kế bên lầu là tường viện còn có một nhĩ phòng[1]. Dưới bậc thềm tam cấp trước lầu là một mảnh sân nho nhỏ, trên mặt đất lát gạch xanh tinh tế và trải đá cuội thành một ít hoa văn ngụ ý cát tường. Cửa viện ở góc đông nam, cạnh cửa trồng một lùm cây cao hơn một người, vừa vặn có thể ngăn cản những người rảnh rỗi nhòm ngó tiểu lâu.

[1]Nhĩ phòng (耳房): Căn nhà mà hai bên cạnh còn có thêm một hoặc gian sâu vào, độ cao nhỏ hơn gian nhà chính, giống như nhà giữa có hai lỗ tai vậy, cho nên gọi là nhĩ phòng.

Có lẽ do kiếp trước San Nương sống quá mức áp lực, kiếp này nàng đặc biệt thích rộng thoáng, vì vậy bèn sai người tháo dỡ hai vách ngăn hai bên cửa, tính lấy những thứ tương tự như bình phong hoặc giá tranh cổ thay thế. Có điều, lúc này trong tiểu viện nàng không phát hiện ra thứ phù hợp, Phương ma ma liền đề nghị nàng tìm thử trong khố phòng. San Nương suy nghĩ một chút cũng đồng ý.

Một ngày trước, phu nhân có từng nói, mà hôm nay Mã ma ma tạm thời chưa gây chuyện gì, cho nên sảng khoái đưa đối bài[2].

[2]Tức ‘thẻ đối chiếu’, dùng trúc, gỗ chế thành, bên trên khắc ký hiệu, chính giữa chẻ ra phân nửa làm thành một loại tín vật.

San Nương theo ma ma quản khố phòng tiến vào khố phòng, còn chưa bước vào chỗ sâu đã bị vấp bởi một đống rương để lung tung ngay cửa kho. Lập tức một cuộn vải dệt từ chiếc rương chưa bao giờ khép lại lăn ra phân nửa.

San Nương cúi đầu nhìn, thì thấy vải dệt kia mở ra, lại là một bức tranh thêu không lớn.

Nghĩ đến phu nhân là người thích thêu, nàng đoán thứ này tám chín phần là của phu nhân, bèn không để ý đến ánh mắt không thoải mái của bà tử khố phòng, đoạt món bức tranh thêu đó trước khi bà tử vươn tay nhặt.

Đây là một bức tranh trúc mực thêu đơn sắc. Mặc dù lấy cái tên cho oai là ‘Thêu đơn sắc’ nhưng màu sắc đường thêu tuyệt đối không chỉ một màu, mà từ màu xám nhạt đến đen như mực, khéo léo phối hợp các màu đen đậm nhạt tạo thành một bức tranh thêu. Nhìn gần như vậy có thể làm người ta có ảo giác như một bức tranh thủy mặc.

“Đây… đây là Ngọc Tú?” San Nương nhịn không được hỏi.

Kiếp trước lúc thân thể San Nương còn khỏe, đã từng theo Viên Trường Khanh ra vào hoàng cung. Nàng còn nhớ thái hậu trong cung cũng có bức bình phong tranh thêu thế này, là vật thái hậu yêu thích. Về sau San Nương mới biết thì ra đó chính là ‘Ngọc Tú’ đỉnh đỉnh đại danh.

Nghe nói ‘Ngọc Tú’ vốn là sáng chế của một tú nương họ Ngọc tiền triều, bởi vì kỹ xảo đặc biệt, yêu cầu cực cao với màu chỉ nên tú phẩm độc nhất vô nhị như tranh vẽ bằng mực tàu, do đó hết sức được tán tụng tìm kiếm. Chẳng qua, cách thêu này không chỉ yêu cầu tú nương có tài nghệ cao siêu, mà còn đòi hỏi tú nương phải có trình độ văn hóa cực kỳ cao thâm, nếu không rất khó thể hiện ra hơi thở thư hương đặc trưng của ‘Ngọc Tú’, do đó tài nghệ này rất khó truyền thừa, đến ngày nay hình như đã thất truyền, gần trăm năm nay trên thị trường chưa từng thấy qua ‘Ngọc Tú’ chân chính. Chỉ có bức bình phong nhỏ còn sót lại trong cung thái hậu kia, cũng là đồ cất giữ của tiền triều.

Mặc dù San Nương không có sở trưởng thêu thùa, nhưng từ nhỏ nàng đã khắc khổ học tập, cầm kỳ thư họa không cái nào không biết, thứ khác có thể không giỏi nhưng đánh giá vẫn còn thành thạo. Do đó nàng vừa liếc đã nhìn ra bức tranh thêu này chắc chắn không phải xuất phát từ tay tú nương, linh khí lưu chuyển trong bức thêu trúc kia còn xuất sắc hơn bức Ngọc Tú trong tay thái hậu mấy phần.

“Đây là phu nhân làm?”

Bà tử trông coi khố phòng không hề che giấu sự mất hứng của bà ta, đưa tay lấy bức tranh thêu trên tay San Nương, sau khi cuộn gọn gàng lại bỏ vào rương, cũng không ngẩng đầu lên, nói: “Hai ngày trước khố phòng của phu nhân bị dột mưa, tạm thời để mấy cái rương này ở đây, sáng mai sẽ chuyển đi.” Lại nói tiếp, “Đây đều là bảo bối của phu nhân, cô nương nếu muốn động vào thì hãy báo trước với phu nhân một tiếng.”

Khẩu khí bà tử cứng ngắc chọc Ngũ Phúc có tính tình không được tốt xù lông, “Bà…”

San Nương ngăn Ngũ Phúc đang muốn xông tới lý luận, cười nho nhã lễ độ với bà tử kia: “Là ta vô lễ.” Lại quay đầu nói với Ngũ Phúc, “Ma ma chỉ tận trung với cương vị công tác của mình thôi.”

Nàng không phải cố tình khoan dung hào phóng, mà nàng có thể nhìn ra được tính tình ma ma này chính là vậy, cũng không cố ý nhằm vào một mình nàng. Đã thế, nàng lười so đo với người ta.

Hơn nữa bà tử nói cũng đúng, vốn đồ của phu nhân chỉ gửi tạm chỗ này, bà phải có trách nhiệm trông nom cho tốt.

San Nương nhịn không được liếc nhìn bà tử kia —— Quả nhiên, Ngũ phòng không phải ai cũng như Mã ma ma.

E rằng chỉ có duy nhất mẹ con Mã thị cùng với thủ hạ của bọn họ mới thế thôi.

Nói đến cái người này, trước khi San Nương đến khố phòng, Mã ma ma đã sai người đưa Thúy Kiều khóc sướt mướt xem như là ‘thủ phạm’ xúi giục Nhị gia mạo phạm cô nương kia đến. Bất quá San Nương không nhận, chỉ nói việc quản gia hẳn là chức trách của ma ma quản sự, để Mã ma ma xem rồi xử lý là được. Sau đó, Mã ma ma bèn sai người đuổi Thúy Kiều đi.

*·*·*

Hôm nay hơi muộn một tí, Ngũ phu nhân Diêu thị đang ở khuê phòng cầm vài sợi tơ màu đối chiếu giá thêu, đột nhiên nghe ngoài cửa truyền đến một giọng nói rất nhỏ.

Phu nhân cũng không để ý, chỉ cho là Minh Lan, nha hoàn bên người bà trở về nên cũng không xoay đầu mà nói: “Lan nhi qua đây xem giúp ta nào, tại sao ta cứ cảm thấy màu này không phù hợp lắm nhỉ.”

Một trận tiếng bước chân nhỏ nhẹ vang lên, sau đó một bóng người nho nhỏ lọt vào giá thêu.

Bóng người kia nâng giá thêu lên xem xét, nói: “Phu nhân muốn tạo bóng mờ bên dưới tảng đá đúng không? Nếu vậy, thì không cần câu nệ màu sắc của mặt đất hoặc tảng đá gần giống nhau đâu, không bằng thử màu xanh lá hoặc màu tím than thì sao?”

Giọng nói xa lạ này làm phu nhân kinh hãi, ngẩng đầu nhìn lại, bà ngẩn người nhớ ra tiểu cô nương trước mắt với vóc người không cao, da thịt trắng như tuyết, đôi mắt cong cong như vầng trăng lưỡi liềm, chính là ‘con gái’ mới về nhà của bà - San Nương.

“Ơ, sao lại là con?” Phu nhân cười định buông sợi tơ trong tay xuống, nhưng đột nhiên ngừng lại, quay đầu nhìn bức thạch lan mới thêu được một nửa trên giá thêu, xoay đầu hỏi San Nương: “Thêu chút xanh lá hoặc tím than ư?”

San Nương chỉ bức tranh thêu, “Bên cạnh là hoa phong lan sao? Lá cây phong lan màu xanh biếc, hoa màu tím, đôi khi trong mắt người xem, bóng mờ có thể làm tôn lên màu sắc những món bên cạnh.”

Ngũ phu nhân Diêu thị nghiêng đầu trầm tư một lát, rồi ngẩng đầu cười nói: “Thử xem đi!”

Nói xong, bà để sợi tơ trong tay sang một bên, xoay người lại đi đến cái tủ cao to bên cạnh, tiện tay mở một ngăn kéo ra. San Nương theo qua ló đầu nhìn, té ra trong ngăn kéo đặt từng vách nho nhỏ, toàn bộ đều là sợi tơ màu xanh đủ loại từ đậm đến nhạt, từ xanh nhạt gần như màu trắng đến xanh sẫm gần như mực đen.

Sau khi Diêu thị chọn ra hai màu trong đó, lại kéo ngăn kéo khác chứa toàn sợi tơ màu tím từ đậm đến nhạt, cũng từ trong đó lựa ra hai màu, kế tiếp quay đầu cười nói với San Nương còn đang hiếu kỳ thăm dò bên cạnh: “Chúng ta thử xem!”

San Nương cảm thấy hứng thú gật đầu một cái, liền đi theo Diêu thị trở lại giá thêu, nhìn bà đem sợi tơ đã chọn ra đối chiếu với bức tranh thêu. Sau đó, hai người gần như cùng một lúc nói: “Màu tím hợp hơn.” “Màu tím đẹp hơn.”

Diêu thị cầm sợi tơ chọn trước đó, xoay đầu lại nhìn San Nương: “Con cũng thích thêu à?”

San Nương xua tay cười nói: “Phu nhân đừng giễu cợt con, tay con ngốc chỉ có thể bện kết bình an thôi.”

Diêu thị nhìn nàng, đột nhiên cười: “Ta thì có thể thêu, cắt may xiêm y nhưng không bện được kết bình an.”

Hai người nhìn nhau, không hẹn mà cùng nhau bật cười.

San Nương nói: “Mặc dù con không biết thêu nhưng có học vẽ vài năm, đối với việc phối màu ít nhiều gì vẫn có chút tâm đắc. Vừa rồi ở khố phòng con nhìn thấy tú phẩm của phu nhân giống như tranh vẽ vậy, có thể thấy được công lực phi phàm. Đúng rồi, thứ này của phu nhân có phải là ‘Ngọc tú’ không?

Diêu thị kinh ngạc, “Con biết ‘Ngọc tú’ sao?”

“Từng nghe nói ạ.” San Nương cười nói, “Nhưng chưa từng thấy. Con chỉ nghe nói, thủ pháp của Ngọc tú có thể biến tranh thêu như tranh thủy mặc… Nhưng con nhìn bức thạch hoa này của phu nhân, sao không thấy bản vẽ nhỉ?

“Có chứ!” Diêu thị cười chỉ chỉ bản vẽ thạch lan kẹp trên kệ thêu.

Bức vẽ kia chỉ là bức vẽ phác thảo, trông cũng là sản phẩm thông thường thường nhìn thấy trên thị trường. San Nương từng thấy bản vẽ thế này trong những tập tranh thêu thùa Tam Hòa thu thập. Nhưng bản vẽ vụng về vậy qua tay Diêu thị thêu lại hoàn toàn toát ra thần thái khác.

San Nương không nhịn được nói: “Bản vẽ này con đã nhìn thấy người khác thêu qua, nhưng không sống động bằng phu nhân thêu.”

Diêu thị mím môi cười: “Cũng đâu có gì khác nhau, bất quá ta dùng màu sắc tỉ mỉ hơn thôi.”

“Phu nhân từng bái sư học ‘Ngọc Tú’ ư?” San Nương hiếu kỳ hỏi.

“Đâu có sư cho ta bái.” Diêu thị cười nói, “Có điều khi còn trẻ ta thích cái này, về sau ở nơi khác nhìn thấy hai bức Ngọc tú, bèn mày mò học. Về phần mấy bức thêu này của ta có phải là ‘Ngọc tú’ không thì khó nói lắm.”

“Nhất định phải!” San Nương nói, thậm chí nàng nghĩ, với tài nghệ của Ngũ phu nhân, nói không chừng còn xuất sắc hơn bức Ngọc tú trong cung thái hậu. “Tự mình mày mò có thể thêu được như vậy, phu nhân đúng là khéo tay!”

Sự tán dương của nàng ngược lại làm Diêu thị cảm thấy không được tự nhiên, cười nói: “Cái gì khéo tay chứ, chỉ là trò vui dùng để giết thời gian thôi.”

“Cho dù giết thời gian, có thể làm được như phu nhân cũng là rất giỏi rồi.”

Diêu thị cười nói: “Người khác chưa chắc không làm được. Coi như tranh thêu của ta trông khác với người khác, cũng chỉ vì ta tốn tâm tư phối màu hơn người ta à.”

Trong lòng San Nương khẽ động, đột nhiên nhớ đến kiếp trước, lúc con gái học hành không tốt, nàng thường dùng câu nói kia dạy dỗ con gái, “Trên đời này không có gì làm không được, chỉ có chịu để tâm làm không thôi…”

Kiếp trước, khi bọn trẻ còn nhỏ, lúc nào nàng cũng yêu cầu nghiêm khắc, xoi mói đủ điều, dứt khoát không chịu nói một tiếng “Tốt” đơn giản. Nếu khi đó nàng có thể như hiện tại, học cách khen điểm mạnh của người khác, có phải sẽ…

Nàng dùng sức lắc đầu, hòng lắc rơi những thứ ‘nếu như…’ không thể nào xảy ra kia, chỉ bản vẽ trên kệ cười nói: “Thật ra có thể nói, người khác dùng bút mực để vẽ tranh, còn phu nhân thì dùng châm và sợi tơ vẽ tranh đấy.”

Mặc kệ khen người ta thật tình hay giả dối, người được khen đều cảm thấy rất vui vẻ. Cho dù Diêu thị quanh năm ru rú trong khuê phòng không gặp ai, cũng trốn không thoát chút hư vinh ấy. Vì vậy bà cười lắc đầu, đột nhiên đưa tay véo má San Nương, nói: “Tiểu nịnh hót, mới vào đã không ngừng ngon ngọt, có chuyện gì xin ta à?”

Lúc này nha hoàn Minh Lan bên người Diêu thị đúng lúc bước vào, vừa ngẩng đầu lên, liền nhìn thấy vị chủ mẫu không thích thân cận với người khác của mình đưa tay nựng má đại cô nương mới hồi phủ, nàng không khỏi kinh ngạc một phen.

Bên kia, San Nương thì cười ngây ngô: “Cũng đâu hoàn toàn là nịnh hót. Chẳng qua đúng là con đến xin phu nhân. Đồ của phu nhân đều rất đẹp, nên bị con nhìn trúng, muốn xin phu nhận hai món bảo bối cơ, cũng không biết phu nhân có chịu bỏ những thứ mình yêu thích không.”

“Bảo bối gì? Nói nghe thử xem.” Diêu thị dứt khoát buông sợi tơ trong tay, kéo San Nương đến chiếc giường cạnh cửa sổ ngồi.

San Nương cố ý giả vờ non nớt nói: “Vừa rồi ở khố phòng, con nhìn thấy hai thứ tốt nhưng bà tử quản khố phòng nói đó là bảo bối của phu nhân, không thể động vào, mà con lại thích quá, chỉ có thể đi xin phu nhân. Con nhìn trúng hai bức tranh thêu của phu nhân, chẳng qua… hì hì, hơi ngại mở miệng thôi…”

“Con nhìn trúng cái gì?”

“Một bức miêu thú thêu hai mặt, một bức khác là Lạc Thần đồ của Vệ Cửu Đỉnh…” San Nương ngượng ngùng nói. Hai bức này đều rất to, cũng không biết phu nhân mất bao nhiêu công sức mới thêu thành.

Quả nhiên, mắt Diêu thị trừng lớn, ngẩn người, bà mới cười nói: “Ánh mắt con rất tốt, hai bức thêu ấy ta cũng cảm thấy được.”

“Phu nhân chịu bỏ thứ mình yêu thích không ạ?” San Nương xoay người nằm sấp trên bàn nhỏ, bắt chước dáng vẻ trẻ con cười ngây ngô nhìn Diêu thị -- quả thật nàng không nịnh hót Diêu thị đâu, mà thực sự rất coi trọng hai bức tranh thêu đó.

Diêu thị lại hiếu kỳ, nghiêng đầu hỏi: “Con muốn hai bức tranh thêu đó của ta để làm gì?”

San Nương đáp: “Phu nhân cũng biết mà, con đang thu dọn phòng. Vốn con định đi khố phòng tìm xem có bức bình phong gì đó không, lại vô tình nhìn thấy bức tranh thêu của phu nhân. Con bèn nghĩ, chỗ con vừa vặn thiếu một bức bình phong treo giữa nhà, nếu phu nhân chịu bỏ thứ mình yêu thích, thì con sẽ treo bức Lạc thần đồ ở giữa nhà ạ.”

Nàng vừa nói vừa khoa tay múa chân, “Dùng gỗ Kê sí làm một cái khung tinh tế, mặt trên dùng thủy tinh che đậy, vừa có thể chống bụi vừa có thể bảo quản bức tranh lâu dài.” —— Nói không chừng tương lai sẽ là đồ gia truyền đấy.