Quan Trừng

Chương 22




Củi lửa bị làm pháp nên cháy mãi chẳng tàn, nó không ngừng tỏa hơi ấm ra xung quanh. Trúc Hàn ngồi xuống, A Âm phủ áo cà sa nằm cạnh chàng, duỗi hai cánh tay ngọc ra, đầu ngón tay chỉ chỉ và vuốt ve gương mặt chàng.

“Nàng yên nào.” Chàng trầm giọng nói.

Chẳng biết từ bao giờ, những lúc chàng ngồi một mình, luôn có một thiếu nữ mặc áo màu xám tro hoặc màu lam tên A Âm gối đầu lên người chàng.

“Quan Trừng, ta không lừa chàng.”

“Hửm?”

“Đây không phải chuyện vui sướng nhất trên đời sao? Chúng sinh vui vẻ như vậy, cần gì chàng độ, chàng mới là người không hiểu mùi vị ấy thế nào.”

Tiểu hòa thượng không nói gì, bị A Âm vươn tay vuốt phẳng lông mày.

“Chàng mà nhăn nữa thì sẽ biến thành người tuổi còn trẻ nhưng già như ông lão trên tám mươi đó.”

Chàng nắm tay nàng, khẽ hôn một cái, gương mặt hơi ửng đỏ, “A Âm ngoan, đừng nói nữa.”

“Vậy chàng xin ta đi.”

“…” Trúc Hàn cúi đầu, nghiêm túc nhìn vào mắt nàng, “Xin A Âm, A Âm đừng nói ta nữa.”

Chàng đã cảm nhận được mùi vị đó, nhưng vì hai mươi năm bị quy củ trói buộc nên khó mà nói ra miệng được. Lòng chàng thấu tỏ lại dám can đảm đối mặt đã là không dễ.

A Âm cười duyên, chàng thích gọi nàng là “A Âm” chứ không phải “nàng”. Chút tâm tư nhỏ bé này của tiểu hòa thượng, nàng cảm nhận được.

Lúc này trong ngôi miêu bỏ hoang cực kỳ yên tĩnh, A Âm và chàng đan mười ngón tay vào nhau. Một bàn tay khác của Trúc Hàn nghịch mái tóc đen nhánh của nàng, mỗi một hành động đều rất nghiêm túc.

A Âm hỏi, “Hôm nay là Thượng Nguyên, sao lại không có tuyết?”

Chàng cười nhạt, “Đây là ý trời, ai mà đoán chuẩn được. Không có tuyết rơi cũng tốt, nếu tuyết rơi xuống thì đèn lồng cũng không đẹp.”

Thật ra trong lòng nàng ước gì tất cả những ngọn đèn cháy rực kia đều bị tuyết lớn bao phủ, nhưng đêm nay quá đẹp, tiểu hòa thượng lại quá quyến rũ, nàng đi theo cũng cảm thấy say mê.

“Không biết mùa đông này Trường An có tuyết rơi không.” A Âm bỗng siết tay chàng chặt hơn, “Quan Trừng, ta không thể bạc đầu nhưng ta muốn cùng chàng bạc đầu. Hôm ấy ta quay về, tuyết Trường An đẹp say lòng người, ta muốn đội tuyết cùng chàng một lần, như thế cũng được xem là đầu bạc đúng không?”

Mùa đông chỉ mới trôi qua một nửa, Trúc Hàn nghĩ thầm, không chừng sau đó sẽ có tuyết rơi.

“Được, A Âm nói gì cũng đúng.” Chàng bỗng bật cười thành tiếng, “Nhưng mà A Âm phải đợi tóc ta mọc dài thêm chút nữa…”

Tiểu hòa thượng sờ cái đầu trọc của mình, hơi ngạc nhiên, A Âm cũng ngây ngốc theo chàng, sau vài giây trầm mặc, cả hai cùng phá ra cười.

Đêm ấy thành Trường An gỡ bỏ lệnh cấm đi lại ban đêm, vạn tuế nở hoa đầy đường.

Chàng nói, “Nàng thấy ta già đi, tức là ta và nàng cùng nhau già đi.”

A Âm đáp lời, được chàng ôm trong ngực, bên tai vang lên tiếng củi lửa nổ tanh tách, lòng bỗng cảm thấy vui vẻ.

Kim ngô bất cấm dạ, đãn ngọc lậu tương thôi.* (Đây là đêm lính ngự lâm không ngăn cấm ai, đồng hồ ngọc cũng không thôi thúc) Tiểu hòa thượng muốn quay về chùa Tây Minh, ngày mai sẽ gõ chuông chùa lúc mặt trời lên.

Đây là 2 câu thơ nằm trong bài thơ Chính Nguyệt Thập Ngũ Nhật Dạ (Đêm rằm tháng Giêng) của Tô Vị Đạo.

Cuộc sống bình thường cứ thế trôi qua, gần hết tháng Giêng gần, quyển đầu tiên của Kim Cương Đỉnh Kinh cũng sắp dịch xong, A Âm nóng lòng nhìn chồng kinh văn dày cộm kia, ngày nào cũng tính xem còn nhiều hay ít, tính đến nỗi bản thân cũng mơ hồ theo, nàng lại oán giận Phạn văn khó coi.

Tiểu sa di trong chùa Bàn Nhược vội vàng xuống núi, đến chùa Tây Minh tìm Trúc Hàn sư phụ, truyền lại tin dữ… kiếp nạn của trụ trì Thành Thiện sắp đến. Trúc Hàn là đệ tử cuối cùng mà ông xem trọng nhất, chàng vội vàng quay về chùa, trước khi đi vẫn nhớ để lại tờ giấy gửi A Âm ở trong phòng, trên giấy nhắn “phải về chùa Bàn Nhược gấp”.

Trùng hợp hôm ấy A Âm cũng đã nhiều ngày chưa báo cáo công việc, đến trưa vẫn còn ở Địa Phủ, gạch bỏ tên những linh hồn đã bắt giữ và nhận danh sách mới. Nàng đang đi thì nhìn thấy Chung Quỳ mặt mũi sa sầm, trong lòng thầm than không ổn.

“Âm Ma La, đứng lại.”

Nàng bị ép quay người lại, xấu hổ cười nói, “Chung phán quan, ngài gọi A Âm là được rồi. Âm Ma La… nghe không hay chút nào.”

Chung Quỳ làm gì có tâm trạng nói đùa với nàng, chỉ bảo, “Bây giờ chúng quỷ La Sát đi khắp nơi tìm dao găm gương quỷ, ngươi lại ném cho ta một củ khoai lang nóng bỏng tay này.”

Từ sau khi quay về, ngọn lửa xanh lam của nàng vẫn được đặt trong bình lưu ly như cũ, nàng chưa có thời gian nghĩ xem làm thế nào mới khôi phục lại được. Còn dao găm thì nàng đã trình lên Diêm Vương, nhờ ông dùng linh lực tinh luyện… không ngờ Diêm Vương lại đưa cho Chung Quỳ.

“Vậy… ta trả lại?”

Thứ mà nàng đưa đến vốn là dao găm đen sì nhưng đã được mài thành màu bạc, có lẽ nó đã được tẩy rửa oán khí.

“Cầm lấy, lỡ đụng phải quỷ La Sát ngươi cũng có cái phòng thân.”

A Âm vốn đã vang danh Quỷ giới, sau khi huyễn hóa thành người thì càng nổi tiếng hơn. Hơn nữa nàng biết cách cư xử, nên có quan hệ khá tốt với người ở Âm Ti, nhất là Diêm Vương nói nhiều, ông rất thích nói chuyện với A Âm, ông cũng không thoát khỏi bị A Âm lừa đảo. Trong bốn vị phán quan, ngoài Chung Quỳ nghiêm khắc ra thì còn lại nàng đều ứng phó được.

“Cám ơn Chung phán quan, ngài đã vất vả rồi, con dao này được sửa…”

“Bớt nịnh hót đi, dạo gần đây ngươi tích cực ra vào chùa miếu, cả Quỷ giới đều biết. Người đừng quên hai chữ “chừng mực”, không được phạm sai lầm nữa, nhớ chưa?”

A Âm cười nguy hiểm, “Tuân mệnh. Hôm khác ta sẽ mang hồng khô và bánh nướng Trường An đến cho ngài.”

“Mau đi đi, vị giác của ta cũng sắp giống ngươi rồi, không nếm được gì nữa.”

Đến chùa Tây Minh, trong chùa vẫn bình thường như cũ nhưng lại không thấy tiểu hòa thượng đâu. Nàng lặng lẽ tìm kiếm khắp nơi nhưng không thu hoạch được gì, cuối cùng đành quay về phòng nghỉ. Cửa sổ hé ra khe hở, nàng chui vào trong qua cửa sổ, nhìn ngó xung quanh một vòng mà chẳng thấy một dấu vết bất thường nào.

Trong căn phòng của Trúc Hàn cũng chẳng thiếu gì, A Âm thực sự không nghĩ ra chàng đã đi đâu. Nàng ngồi chờ trên giường từ chạng vạng tối đến khi mặt trời sắp lặn, chờ đến lúc mặt trời hoàn toàn lặng xuống, trời tối đen cũng không nghe thấy tiếng đẩy cửa và bóng dáng quen thuộc.

Trong lòng nàng cảm thấy khó hiểu, rõ ràng hôm qua họ vẫn ổn sao hôm nay lại đi mà không từ biệt. Mấy quyển kinh thư dày cộm chất đống trên bàn bị nàng sầm mặt ném xuống đất, tạo thành tiếng động rất lớn. Tiểu sa di đi ngang qua nghe thấy liền vòng trở lại, đẩy cửa tiến vào nhưng chỉ thấy cửa sổ lắc lư khép mở. Cậu chỉ nghĩ là gió lớn nên yên lặng nhặt mấy quyển sách trên đất lên, để lại chỗ cũ.

Nàng quay về rừng, người làm trong quán rượu đã lâu không thấy A Âm cô nương đến đây, đang định mang rượu lên cho nàng thì nàng lắc đầu từ chối. A Âm tự biết sau khi dung hợp thân người thì tửu lượng của nàng không tốt lắm, sau này còn phải đề phòng uống say. Nàng không yên lòng đứng trước quầy, khách khứa thấy bà chủ xinh đẹp đến, ai nấy đều muốn gọi thêm vài vò rượu, người làm nhanh trí đứng dậy, vội vàng mang đến.

Cả quán ồn ào không ngớt, A Âm nghe thấy trong đó có một bàn nhắc đến “pháp sư Thành Thiện” liền xích lại gần nghe.

“Đại nạn của trụ trì chùa Bàn Nhược sắp đến, hôm nay tiểu sư phụ Trúc Hàn đã chạy từ trong thành Trường An về.”

“Mặc dù chùa Bàn Nhược ở nơi cao nhưng là bảo tự truyền thừa Phật pháp…”

“Đúng vậy, lần này chắc chắn tiểu sư phụ Trúc Hàn sẽ làm trụ trì đời tiếp theo.”

“Ta thấy chưa hẳn, Trúc Tuyên…”

Gương mặt bình tĩnh nghiêm nghị của nàng hơi thay đổi, mấy hôm trước nàng xem qua Sổ Sinh Tử của Thành Thiện, với sức khỏe hiện giờ của ông ta, ít nhất cũng phải sống đến hơn bảy mươi tuổi. Không phải nói thọ đến chín mươi tuổi sao? Sổ Sinh Tử cũng không nghiêm ngặt vậy sao?

Nàng hóa thành hạc xám bay đến nóc chùa Bàn Nhược, vừa đứng thẳng người thì thấy, lúc này đã nửa đêm mà trong chùa lại đèn đuốc sáng trưng, bởi vì đại nạn của trụ trì sắp đến. Nàng nhìn ngó khắp nơi, bắt gặp bóng dáng quen thuộc đi từ hành lang vào trong, nàng dùng quỷ ngữ truyền lời, “Tạ Tất An, sao ngươi lại đến đây? Tuổi thọ của Thành Thiện chưa hết, ngươi không bắt ông ta được.”

Ta Tất An cất xiềng xích, chỉ cầm trong tay thẻ bài hình quạt, ngẩng đầu nhìn về phía xà nhà, một con hạc xám to lớn như hung thần đang đứng thẳng người.

“Ngày mai người ở yên đó, vùng ngoại ô Trường An ắt có người đến truyền lời, pháp sư Thành Thiện viên tịch, xà nhà có tiếng “hạc tiên” kêu thê lương.

Nàng hóa thành khói lao xuống dưới, nàng không muốn tăng thêm tiếng thơm cho Thành Thiện chút nào. A Âm kéo hắn hỏi, “Ngươi vẫn chưa nói cho ta biết, vì sao Thành Thiện lại chết? Rõ ràng ông ta sống đến chín mươi tuổi…”

“Suỵt, sinh tử mệnh số bị ngươi nhìn trộm, chết sớm cũng là bình thường. Cũng có khả năng ông ta đã nhìn thấu đời người vô thường nên không muốn sống trên dương thế nữa.”

A Âm bị mấy câu khó hiểu của hắn làm cho mờ mịt, càng không hiểu được tình huống này là thế nào. Một thoáng thất thần, vừa quay đầu lại đã không thấy bóng Tạ Tất An đâu nữa. Trong phòng của Thành Thiện truyền ra tiếng gọi đau buồn không thể quen hơn được nữa, “Sư phụ!”

Sau đó có tiếng bước chân sột soạt tiến vào, rồi từng đợt tiếng khóc vang lên. Nàng trong hình dạng làn khói đứng nguyên tại chỗ, chỉ cảm thấy trái tim nhảy lên bất an, luôn cảm thấy có biến cố sắp xảy ra.

Không lâu sau, Trúc Hàn với hai mắt đỏ hoe ngơ ngác bước đến, kéo ống tay áo lau nước mắt. A Âm lặng lẽ đuổi theo, đợi đến khi không còn ai trong hậu viện, chàng thất thần nhìn cái ao mùa hè nở muôn ngàn cánh sen lúc này hoàn toàn tĩnh mịch, không còn sức sống.

A Âm biến lại thành người, đứng cạnh chàng, không nhịn được hỏi, “Trước khi chết, ông ta lại đe dọa chàng?”

Tiểu hòa thượng nghiêng đầu nhìn nàng, hàng mày cau lại khiến người ta nhìn mà đau lòng, đôi mắt sưng đỏ vì cố nén đau thương, “A Âm, lúc này mà nàng còn nói những lời ấy sao?”

Nàng cảm thấy khó hiểu, Thành Thiện là sư phụ của chàng không phải nàng, chàng đau lòng trước cái chết của Thành Thiện, nàng thì không. Nàng chỉ lo lắng trước khi chết Thành Thiện vẫn không đàng hoàng, ép Trúc Hàn phải đồng ý một số chuyện nào đó.

“Ông ta chết, chàng lại niệm tình ông ta tốt với chàng mà quên mất ta sao?”

Ngực Trúc Hàn phập phồng, có nén đau lòng, khàn giọng nói, “Ta không quên A Âm.”

“Vậy chàng nói cho ta biết, có phải ông ta lại ép chàng nữa không? Ép chàng ở lại chùa Tây Minh rồi tiến vào chùa Đại Hưng Thiện, tuệ mệnh vô hạn, vĩnh viễn không về tục.”

“Không có.” Chàng thở dài, “A Âm, nàng nghĩ ông ấy quá ác, nhưng ông ấy không…”

A Âm ngắt lời chàng, “Vậy sao chàng lại để ta chờ chàng lâu như thế? Thế không phải là chàng vứt bỏ ta không để ý đến sao?”

“Ta vứt bỏ…” Không đợi chàng nói xong đã thấy một làn khói phất qua người, không thấy nàng đâu nữa.

Mà tiếng bước chân ở phía xa càng lúc càng gần, tiểu sa di nói, “Sư thúc, Trúc Hoằng sư thúc mời ngài đến chính điện.”

“Ừ.”

Chàng quay người đi theo tiểu sa di, cái ao cạn sau lưng bởi vì vào đông mà càng thêm tiêu điều lạnh lẽo, bên cạnh bờ ao có tấm tấm bia đá do tự tay Thành Thiện viết “Ao Vĩnh Trừng”. Là vào năm nhặt được Trúc Hàn, Thành Thiện đã mời thợ đến xây dựng, ông cũng tự mình chăm sóc ao này. Cứ đến đêm hè hàng năm, ngàn cánh sen mong manh bung nở đầy ao, Thành Thiện và chàng cùng thưởng thức.

Mỗi tháng qua đi chàng dần cao lớn hơn mà tấm lưng Thành Thiện cũng dần còng xuống, đến hôm nay người ngắm hoa đã không còn ở đây.

Trúc Hàn rất đau lòng, vào đêm Thượng Nguyên trước ngày sư phụ viên tịch chàng cũng không thể chúc ông một câu “Thượng Nguyên an khang”, càng không nói đến những ngày gần đây chàng đã chọc giận sư phụ bao nhiêu lần.

Hối hận không? Chắc chắn chàng sẽ nói một câu: Ở cùng A Âm, từ đầu chí cuối ta tuyệt đối không hối hận.

Nhưng chỉ khi một mình đứng ở ao này chàng sẽ nhớ về ông lão nghiêm khắc có phần cố chấp kia, chí ít ông ấy đối xử với chàng rất chân thành, giống như thầy lại giống như cha.

Khi nào mới có thể tìm ra biện pháp vẹn cả đôi đường, Trúc Hàn đau khổ hỏi thầm trong lòng.

Chàng đã phá giới quá nhiều, bây giờ cũng chẳng quan tâm đến chữ “tham” này nữa.