The Bridgertons: Happily Ever After

Chương 5




An Offer From a Gentleman (1)

Người dịch: Wivy

An Offer From a Gentleman là sự kính trọng của tôi với Cinderella, nhưng nó sớm trở nên rõ ràng là câu chuyện có quá nhiều chị em kế độc ác. Ở Rosamund là hiểm ác và tàn nhẫn, Posy lại có trái tim vàng, và khi câu chuyện đến đỉnh điểm, cô ấy là người mạo hiểm tất cả để cứu tình thế. Nó chỉ công bằng với cô, khi cho cô kết thúc hạnh phúc...

An Offer From a Gentleman: The 2nd Epilogue

Ở cái tuổi hai mươi cộng thêm năm năm tròn, Cô Posy Reiling gần như được coi là một cô nàng ế chồng. Có thể đánh giá là cô đã vượt qua giới hạn từ một quý cô trẻ sang một gái già vô vọng; tuổi hai ba thường được xem là ranh giới tuổi tác nghiệt ngã. Nhưng Posy, như Quý bà Bridgerton (người bảo hộ không chính thức của cô) thường xuyên nhận xét, là một trường hợp vô song.

Trong những năm đầu mới ra mắt, như Quý bà Bridgerton nhấn mạnh, Posy mới chỉ hai mươi, có lẽ hai mốt tuổi đầu thôi.

Eloise Bridgerton, cô con gái chưa chồng lớn nhất của nhà, đã nói huỵch toẹt ra rằng: Mấy năm đầu ra mắt xã hội thượng lưu của Posy là chẳng nên được tính đến và không nên dựa vào mấy năm ấy để đánh giá cô.

Cô em gái ít tuổi nhất của Eloise, Hyacinth, chưa bao giờ là người nói tránh nói giảm cho ai, đơn giản tuyên bố rằng thời gian từ khi Posy mười bảy tuổi đến hai mươi hai tuổi là “hoàn toàn vớ vẩn.”

Ở điểm đó Quý bà Bridgerton đã phải thở dài, tự pha cho mình một ly rượu nặng, và lún phịch xuống ghế. Eloise, người có cái mồm cũng sắc nhọn như Hyacinth vậy (nhưng, ơn Chúa, đã chín chắn hơn lên), đã bình luận rằng nếu họ không nhanh chóng gả phắt Hyacinth đi cho xong thì mẹ của họ không sớm thì muộn cũng sẽ mắc chứng nghiện rượu mất thôi. Quý bà Bridgerton đã không nhận xét gì trước lời bình phẩm ấy, dù trong đầu bà nghĩ rằng điều đó có thể đúng đấy.

Hyacinth đáng sợ vậy đấy.

Nhưng đây là câu chuyện về Posy. Và như Hyacinth có khuynh hướng quản lấy mọi việc mà cô gái vướng vào... làm ơn xin hãy quên đi Hyacinth trong suốt phần còn lại của câu chuyện này.

Sự thật là, những năm đầu của Posy trong Thị trường Hôn nhân là hoàn toàn bị phí phạm. Đúng là lần đâu tiên ra mắt xã hội của cô là từ hồi cô mới mười bảy. Và, thực sự, cô là con gái kế của Bá tước vùng Penwood đời trước, người đã cẩn thận soạn cho cô một số hồi môn đáng kể trước khi mất đột ngột vào mấy năm sau.

Cô hoàn toàn dễ nhìn, có lẽ là hơi đầy đặn, cô có đầy đủ răng lợi, và đã được nhận xét hơn cả một lần rằng cô có một đôi mắt ánh lên vẻ tốt bụng.

Bất kỳ ai đặt cô lên giấy cũng chẳng thể hiểu tại sao cô lại chẳng hề có một lời cầu hôn nào trong suốt một thời gian dài như vậy.

Nhưng bất kỳ ai đặt cô lên giấy cũng có thể không biết về mẹ của Posy, nữ bá tước Araminta Gunningworth, vợ của bá tước vùng Penwood đời trước.

Araminta là người có một vẻ đẹp lộng lẫy, thậm chí còn đẹp hơn cả cô chị của Posy, Rosamund, người được phù hộ bởi mái tóc vàng hoe, môi chúm chím hồng, mắt biếc xanh da trời.

Araminta là một người có nhiều tham vọng, và hết sức tự hào về việc bà ta từ một người thuộc tầng lớp trung lưu đã trở thành một người thuộc tầng lớp quý tộc. Bà ta đã đi từ một Cô Wincheslea thành Phu nhân Reiling rồi lên Quý bà Penwood, dù nếu nghe bà ta kể, thì ngay từ ngày vừa mới chào đời bà ta đã được ăn thìa bạc rồi. (Ý chỉ từ hồi còn bé bà ta đã quyền quý rồi.)

Nhưng Araminta đã thất bại trong một mặt; bà ta đã không thể trao cho ngài bá tước một người thừa tự. Điều đó có nghĩa rằng dù bà ta có cái danh Quý bà trong tên, thì bà ta cũng chẳng hề có một lượng quyền lực lớn cho lắm. Cũng như bà ta chẳng có quyền xỏ tay vào số gia tài mà bà ta cảm thấy nó đáng phải là của bà ta.

Và vì vậy bà ta đặt hết mọi hy vọng của bà ta vào Rosamund. Rosamund, người bà ta chắc chắn rằng, sẽ có một cuộc hôn nhân vô cùng đáng giá. Rosamund đẹp đẽ rạng ngời. Rosamund có thể hát và chơi đàn piano rất hay, và dù cô ta không có tài kim chỉ, thì cô ta cũng biết chính xác phải làm thế nào để cấu véo Posy, người khâu vá rất khéo. Và vì Posy không hề thích thú việc bị châm chích, nên Rosamund mới là người có những sản phẩm thêu cực kỳ đẹp và tinh tế.

Trong khi những bài thêu của Posy, luôn không được hoàn thành.

Và vì tiền bạc không hề dồi dào như những gì Araminta muốn những người ngang hàng của bà ta tưởng thế, bà ta hoang phí tiền bạc họ có cho tủ quần áo của Rosamund, những bài học của Rosamund, mọi thứ của Rosamund.

Bà ta tất nhiên không để Posy ăn mặc quá xoàng xĩnh, nhưng, cũng chẳng tiêu xài gì nhiều hơn mức phải thế cho cô cả. Bạn không thể biến một cái túi da bò thành một cái ví lụa, và bạn chắc chắn là cũng chẳng thể biến một Posy thành một Rosamund.

Nhưng. (Và đây là một chữ rất lớn đấy).

Mọi chuyện không quá tốt đẹp với Araminta. Đó là một câu chuyện dài kinh khủng, và là một câu chuyện có lẽ xứng đáng có một cuốn sách cho riêng nó, nhưng chỉ cần nói rằng Araminta đã trộm lấy một khoản hồi môn của một cô gái trẻ, Sophie Beckett, người vô tình chính là con gái ngoài giá thú của ngài bá tước. Bà ta đáng ra sẽ chót lọt với chuyện đó hoàn toàn, bởi ai thèm quan tâm đến một đứa con hoang chứ, ngoại trừ việc Sophie lại tình cờ phải lòng Benedict Bridgerton, con trai thứ của gia đình Bridgerton đã kể trên (và lại là một gia đình có những mối quan hệ cực kỳ rộng rãi).

Điều này chưa đủ để đóng dấu số phận của Araminta, trừ việc Benedict lại quyết định rằng anh ta cũng yêu lại Sophie. Yêu hơi bị điên cuồng luôn. Và trong khi anh ta có thể bỏ qua cho việc biển thủ, thì anh ta chắc chắn là chẳng thể bỏ qua việc Sophie bị tống vào tù (mà đó còn là do lời kết tội sai nữa chứ).

Mọi chuyện trở nên khó khăn cho Sophie thân yêu, kể cả với sự can thiệp của Benedict và mẹ anh ta, người cũng đồng thời là Quý bà Bridgerton được nói đến ở trên. Nhưng rồi ai đã là người xuất hiện và trở thành người hùng của ngày? Posy đấy.

Posy, người đã bị lờ đi trong suốt cuộc đời cô.

Posy, người dành phải sống nhiều năm trời trong mặc cảm tội lỗi vì đã không đứng lên chống lại mẹ cô.

Posy, người vẫn hơi đầy đặn và chưa bao giờ xinh đẹp được như chị của cô, nhưng là người luôn luôn có đôi mắt tốt bụng tử tế nhất.

Araminta đã đuổi cô ra khỏi nhà ngay lúc đó, nhưng trước khi Posy có thời gian để tự hỏi việc đó là may hay rủi, thì Quý bà Bridgerton đã mời cô đến ở nhà bà cho đến khi nào cô không muốn nữa thì thôi.

Posy có lẽ đã sống hai mươi hai năm trời bị cấu và véo bởi chị cô, nhưng cô không phải là một kẻ ngốc. Cô đã vui lòng nhận lời và thậm chí chẳng còn thèm về nhà để lấy đồ đạc của cô nữa.

Còn về Araminta, chà, bà ta nhanh chóng biết chắc rằng tốt nhất là bà ta không nên có những lời nhận xét với xã hội nào về người sớm là Sophie Bridgerton trừ khi bà ta muốn tuyên bố sự sung sướng và mừng vui tuyệt đối cho cô gái.

Điều mà bà ta không hề làm. Nhưng bà ta cũng chẳng hề đi loanh quanh và gọi cô gái là một đưa con hoang, điều thực sự là tất cả những gì người khác có thể mong đợi từ bà ta.

Tất cả những điều trên là để giải thích (dù phải thừa nhận rằng hơi vòng vo) việc tại sao Quý bà Bridgerton lại trở thành người bảo trợ không chính thức của Posy, và tại sao bà lại coi cô là một trường hợp vô song. Trong tâm tưởng bà, Posy đã không hề thực sự được ra mắt cho đến khi cô đến ở với bà. Dù có hồi môn hay không, có ai trên đời này lại muốn nhìn lại đến lần hai một cô gái trong áo váy chật khít, luôn luôn lủi vào trong góc, làm tất cả những gì có thể để không bị chú ý bởi chính mẹ của mình?

Và nếu cô vẫn chưa kết hôn ở tuổi hai mươi lăm, thì sao chứ, nó chắc chắn ngang bằng với với tuổi hai mươi của những người khác thôi. Hay đó là những gì Quý bà Bridgerton nói.

Và không ai thực sự muốn sửa lại bà.

Còn Posy, cô thường xuyên nói rằng cô đã không thực sự là ‘sống’ cho đến khi cô vào trong tù.

Câu này có vẻ đòi hỏi vài lời giải thích, nhưng hầu như những câu nói khác của Posy thường xuyên thế.

Nhưng Posy cũng chẳng để tâm. Nhà Bridgerton thực sự thích lời giải thích của cô. Họ thích cô.

Và còn tốt hơn nữa, cô thích bản thân cô.

Đó là điều quan trọng hơn bất kỳ điều gì cô từng nhận ra.

Sophie Bridgerton cho rằng đời nàng là gần như hoàn hảo. Nàng tôn thờ chồng nàng, thương yêu ngôi nhà ấm cúng của nàng, và khá chắc chắn rằng hai cậu nhóc nhỏ của nàng là những đứa bé xinh trai, thông minh nhất từng được sinh ra ở bất kỳ đâu, bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ... chà nói chung là bất kỳ cái gì một người có thể nghĩ ra.

Đúng là họ phải sống ở vùng thôn quê vì ngay cả với tầm ảnh hưởng mạnh của đại gia tộc Bridgerton, thì Sophie vẫn, chiểu theo thân thế của nàng, không được chấp nhận bởi một số thành viên thuộc hạng khó chiều trong giới quý tộc London.

(Sophie gọi họ khó chiều. Benedict gọi họ với những cái danh hoàn toàn khác).

Nhưng điều đó chẳng hề quan trọng. Không thực sự quan trọng. Nàng và Benedict đều thích cuộc sống vùng thôn quê hơn, vì vậy đó cũng chẳng phải là nỗi mất mát to lớn gì. Và mặc dù luôn có những lời xì xào bàn tán rằng thân thế của Sophie không phải như những gì được nói chính thức: nàng là một cháu họ xa – hoàn toàn là con chính thức – của ngài Bá tước vùng Penwood đời trước. Thậm chí dù không ai thực sự tin Araminta khi bà ta phải xác nhận câu chuyện. Thì Sophie vẫn biết rằng khi những đứa con của nàng lớn lên, những lời đồn đãi cũng đã quá cũ đến nỗi sẽ chẳng có cánh cửa nào đóng lại trước mặt các con nàng khi chúng bước chân vào xã hội London.

Tất cả mọi thứ đều tốt. Tất cả đều hoàn hảo.

Gần như. Thật đấy, tất cả những gì nàng cần làm là tìm một tấm chồng cho Posy. Không phải bất kỳ ai cũng được, tất nhiên. Posy xứng đáng với người tốt nhất.

“Cô ấy không phải dành cho bất kỳ ai,” Sophie đã thừa nhận như vậy với Benedict trong một ngày nọ, “nhưng điều đó không có nghĩa là cô ấy không phải là một đám tốt.”

“Tất nhiên không,” chàng lầm bầm. Chàng đang cố đọc một tờ báo. Nó được xuất xưởng từ ba ngày trước rồi, nhưng đối với chàng nó vẫn chứa những tin tức mới.

Nàng quắc mắt nhìn chàng.

“Ý ta là, tất nhiên rồi,” chàng vội vàng nói. Và rồi, khi nàng không ngay lập tức tiếp tục nói, chàng bổ sung, “Ý ta là đối với bất cứ ai cô ấy cũng có thể trở thành một người vợ tuyệt vời.”

Sophie thở dài. “Vấn đề là hầu hết mọi người đều dường như không nhận ra cô ấy đáng yêu đến đâu.”

Benedict trao ra một cái gật đầy nghĩa vụ. Chàng hiểu rõ vai trò của mình trong buổi diễn đặc biệt này. Nó kiểu như một buổi chuyện trò mà không thực sự là chuyện trò. Sophie đang nghĩ ra miệng, và chàng thỉnh thoảng cung cấp những lời đáp hoặc điệu bộ để đế thêm vào.

“Hoặc ít nhất đó là những gì mẹ chàng đã nói,” Sophie tiếp.

“Mmm – hmm.”

“Cô ấy không được mời nhảy đủ thường xuyên như cô ấy đáng được thế.”

“Đàn ông đều là thú vật,” Benedict đồng ý, lật trang báo.

“Điều đó đúng,” Sophie nói với vài cảm xúc. “Trừ chàng ra, tất nhiên.”

“Ồ, tất nhiên.”

“Hầu hết thời gian,” nàng thêm vào, hơi hơi hiểm.

Chàng trao ra một cái vẫy. “Không nên phải để bụng.”

“Chàng có nghe em nói không đấy?” nàng hỏi, mắt nàng nhíu lại.

“Từng từ,” chàng đảm bảo, thực sự hạ thấp tờ báo xuống một tý để nhìn thấy phần đỉnh đầu nàng. Chàng không hề thực sự nhìn thấy mắt nàng nheo lại, nhưng chàng đủ hiểu nàng để nghe thấy nó trong giọng nàng.

“Chúng ta cần phải tìm một tấm chồng cho Posy.”

Chàng cân nhắc. “Có lẽ cô ấy không muốn một ông chồng chăng.”

“Tất nhiên là cô ấy muốn một người chồng!”

“Ta được nghe nói rằng,” Benedict phát biểu, “rằng mọi người phụ nữ đều muốn một ông chồng, nhưng với kinh nghiệm của ta, điều đó không đúng.”

Sophie nhìn chằm chằm vào chàng, điều đó chàng không ngạc nhiên. Đó là một câu phát biểu khá dài, thốt ra từ một người đàn ông với một tờ báo.

“Hãy xem Eloise ấy,” chàng nói. Lắc lắc đầu, hành động thường làm của chàng mỗi khi chàng nghĩ đến cô em gái ấy. “Con bé đã từ chối bao nhiêu lời cầu hôn rồi?”

“Ít nhất là ba,” Sophie nói, “nhưng đó không phải trọng điểm.”

“Thế trọng điểm là gì?”

“Posy.”

“Rồi,” chàng đáp.

Sophie dướn người về phía trước, mắt nàng ánh lên một sự pha trộn kỳ quặc giữa sự hoang mang và quyết tâm. “Em không hiểu tại sao đàn ông lại không nhìn ra cô ấy tuyệt vời đến thế nào.”

“Cô ấy là kiểu người phải quen mới thích được,” Benedict nói, trong một chốc quên mất rằng chàng không được phát biểu ra ý kiến thực sự của chàng.

“Cái gì cơ?”

“Nàng nói cô ấy không phải cho bất kỳ ai.”

“Nhưng chàng vốn không được – ” Nàng ngồi sụp xuống ghế một chút. “Thôi không có gì?”

“Nàng đang định nói gì?”

“Không có gì.”

“Sophie,” chàng thúc.

“Chỉ là chàng vốn không được đồng ý với em,” nàng làu bàu. “Nhưng ngay cả em cũng nhận ra câu đó nghe ngớ ngẩn đến thế nào.”

Đó là một điều tuyệt vời, từ lâu Benedict đã nhận ra, khi có một cô vợ biết điều.

Sophie không nói gì trong một lúc lâu, và Benedict đáng ra phải tập trung trở lại với tờ báo trên tay, ngoại trừ việc nó quá là thú vị khi ngồi ngắm mặt nàng. Nàng cắn cắn môi, rồi thở dài ảo não, rồi lại thẳng người lên một tý, như thể nghĩ ra được điều gì đó hay ho, rồi lại nhíu mày.

Thật đấy, chàng có thể ngắm nàng cả chiều.

“Chàng có thể nghĩ ra ai không?” thình lình nàng hỏi.

“Cho Posy?”

Nàng trao cho chàng một cái nhìn. Cái nhìn em – còn – nói – về – ai – khác – nữa – hả.

Chàng thở ra. Vốn chàng nên tiên đoán trước được câu hỏi, nhưng chàng lại bắt đầu nghĩ đến bức tranh chàng đang vẽ trong phòng tranh. Đó là một bức chân dung của Sophie, bức thứ tư chàng hoàn thành trong ba năm kết hôn của họ. Chàng đang bắt đầu nghĩ rằng chàng đã không thể hiện đúng ra được cái miệng của nàng. Nó không phải là ở đôi môi hay ở khóe miệng nàng. Một người vẽ chân dung giỏi cần phải hiểu rõ các phần thịt trong cơ thể người, ngay cả những phần trên mặt, và –

“Benedict!”

“Ngài Folsom thì thế nào?” chàng bật ra.

“Ông luật sư?”

Chàng gật.

“Anh ta trông gian trá lắm.”

Nàng đúng, giờ nghĩ đến chàng mới nhận ra.

“Đức ngài Reginald?”

Sophie cho chàng một cái nhìn nữa, cái nhìn thất vọng với lựa chọn của chàng. “Anh ta béo.”

“Cả – ”

“Posy không béo,” Sophie cắt lời. “Cô ấy chỉ tròn tròn xinh xinh thôi.”

“Ta đang định nói Cả ngài Folsom cũng thế,” Benedict nói, cảm thấy cần phải tự bênh vực bản thân, “nhưng nàng đã chọn loại bỏ anh ta vì anh trông gian gian chứ không phải vì anh ta béo.”

“Ồ.”

Chàng cho phép bản thân nở ra nụ cười tin hin nhất.

“Tính gian xảo còn tồi tệ hơn việc thừa cân nặng rất nhiều,” nàng làu bàu.

“Ta không thể không đồng ý,” Benedict nói. “Thế còn Ngài Woodson thì sao?”

“Ai cơ?”

“Ngài mục sư mới ấy. Người mà nàng bảo –”

“– có nụ cười tuyệt vời!” Sophie hào hứng kết câu. “Ôi, Benedict, thật hoàn hảo! Ôi, em yêu chàng yêu chàng yêu chàng!” Với đó, nàng gần như chồm người qua cái bàn thấp giữa họ và lao vào trong vòng tay chàng.

“Chà, ta cũng yêu nàng nữa,” chàng nói, và tự tuyên dương bản thân vì đã nhìn thấy trước để đóng cửa phòng vẽ lúc vừa nãy.

Tờ báo trong tay bị vứt phéng qua vai, và mọi thứ trên đời đều tốt cả.

Mùa lễ hội chỉ còn vài tuần nữa là kết thúc, và vì vậy Posy quyết định chấp nhận lời mời của Sophie và sửa soạn để đến làm phiền nhà ấy dài ngày. London mùa hè thì nóng bức và nhớp nháp lại hơi hơi có mùi nữa, và một chuyến dã ngoại vùng đồng quê là quá hợp trong cái thời tiết này. Bên cạnh đó, cô đã không được gặp hai cậu con trai đỡ đầu của cô trong vài tháng rồi, và cô đã rất thất kinh khi Sophie đã viết thư nói rằng Alexander đã bắt đầu gầy dần đi, và mất dần nét phúng phính trẻ con của thằng bé.

Ôi, thằng bé là đứa trẻ bụ bẫm, phúng phính đáng yêu nhất thế giới. Cô phải đến chơi với thằng bé trước khi nó lớn phổng lên. Đơn giản là cô phải đến.

Hơn nữa, cũng thật tốt khi được gặp lại Sophie nữa. Chị ấy viết rằng chị ấy vẫn còn cảm thấy hơi ốm, và Posy muốn đến để đỡ đần giúp.

Đến thăm được vài ngày rồi, cô và Sophie đang cùng dùng trà, rồi ngồi phiếm chuyện, nói thế nào, tự nhiên chủ đề câu chuyện lại chuyển sang Araminta và Rosamund, đôi khi Posy đụng phải họ khi ở London. Sau suốt một năm không nói với nhau câu nào, mẹ cô cuối cùng cũng đã bắt đầu nhận biết cô, nhưng kể cả vậy, cuộc đối thoại cũng ngắn và chẳng có gì. Điều mà, Posy quyết định, thế là tốt nhất. Mẹ cô có thể chẳng có gì để nói với cô, nhưng cô cũng chẳng có gì để nói với bà ta cả luôn.

Dù sao thì, như thế cũng tự do.

“Em gặp bà ấy ngay ngoài cửa hàng mũ,” Posy nói, khuấy trà theo cách mà cô thích, nhiều sữa và không đường. “Bà ấy vừa bước xuống bậc thềm, và em chẳng thể nào tránh bà ấy được, rồi em nhận ra em chẳng muốn tránh bà ấy. Tất nhiên em cũng chẳng muốn nói gì với bà ấy cả.” Cô nhấp một ngụm. “Nhưng, em cũng chẳng muốn phí năng lượng để trốn tránh.”

Sophie gật đầu tán thưởng.

“Và khi chúng em mở miệng, rồi chẳng nói gì nhiều, thật đấy, dù bà ấy xoay sở để phát ngôn ra được một câu móc máy tinh vi của bà.”

“Chị ghét điều đó.”

“Em biết. Bà ấy quá giỏi trong chuyện đó.”

“Đó là một tài năng,” Sophie bình phẩm. “Không phải là một thứ tốt, nhưng dù thế nào vẫn là một tài năng.”

“Rồi,” Posy nói tiếp, “Em phải nói rằng, em chẳng chuyên nghiệp trong mấy cái chuyện đó. Nên em để bà ấy nói tất cả những gì bà ấy muốn, rồi em chào xin phép và đi. Rồi em chợt nhận ra một điều ngạc nhiên nhất.”

“Là gì cơ?”

Posy cười. “Em thích bản thân em.”

“Ư, tất nhiên em phải thích bản thân em chứ,” Sophie nói, chớp chớp mắt bối rối.

“Không, không, chị không hiểu rồi,” Posy nói. Điều này thật lạ lùng, bởi Sophie đáng ra phải hoàn toàn hiểu. Chị ấy là người duy nhất trên đời này hiểu thấu được việc là đứa con không được thương yêu của Araminta là như thế nào. Nhưng luôn có gì đó thật rực rỡ ở Sophie. Luôn luôn có. Ngay cả khi Araminta đối sử với chị ấy như một đứa nô lệ, Sophie cũng chưa bao giờ chịu khuất phục. Chị ấy luôn thật cứng cói. Nó không phải sự công khai kháng cự hay thách thức gì cả; Sophie là người ít thách thức người khác nhất trên đời này. Posy biết điều đó.

Không phải thách thức... kiên cường thì đúng hơn. Đúng, chính xác là như thế.

Dù sao đi nữa, Sophie cũng vốn nên phải hiểu Posy có ý gì, nhưng chị ấy không hiểu, nên Posy nói, “Em không phải lúc nào cũng thích bản thân em. Tại sao em phải thích? Mẹ đẻ của em còn không thích em.”

“Ôi, Posy,” Sophie nói, mắt chị ấy ngân ngấn lệ, “em không nên – ”

“Không, không,” Posy nói. “Đừng nghĩ gì nhiều về điều đó. Nó không làm em để tâm.”

Sophie chỉ là nhìn vào cô.

“Thì, không còn để tâm nữa,” Posy sửa lại. Cô nhìn vào đĩa bánh quy đặt trên cái bàn nhỏ giữa họ. Cô thực sự không nên ăn thêm cái nào nữa. Cô đã ăn ba cái rồi, và nếu cô muốn ăn thêm ba cái nữa, điều đó có nghĩa là nếu cô muốn ăn một cái bây giờ, cô thực sự nên nhịn hai cái...

Cô vặn vẹo ngón tay. Có lẽ cô không nên ăn thêm cái nào nữa cả. Có lẽ cô nên để chúng cả lại cho Sophie, người chỉ vừa mới lâm bồn và cần phải khôi phục lại sức khỏe. Dù Sophie nhìn trông khỏe lại lắm rồi, và bé Alexander thì đã được bốn tháng rồi...

“Posy?”

Cô ngước lên.

“Có gì không ổn sao?”

Posy nhún vai một cái. “Em không thể quyết định được có nên ăn thêm một cái bánh quy nữa không.”

Sophie chớp mắt. “Một cái bánh quy? Thật sao?”

“Có ít nhất hai lý do để em không nên ăn, có lẽ còn nhiều hơn thế.” Cô dừng, nhíu mày.

“Em trông nghiêm trọng lắm đấy,” Sophie bình phẩm. “Gần như thể em đang ngồi đọc tiếng Latin vậy.”

“Ồ, không đâu, nếu em mà ngồi đọc tiếng Latin em sẽ còn trông kinh khủng hơn cơ,” Posy tuyên bố. “Điều đó đơn giản thôi, vì em chẳng biết một chữ Latin nào cả. Bánh quy, thì lại khác, em luôn nghĩ đến chúng.” Cô thở dài và nhìn xuống người cô. “Dù người em đã thế này.”

“Đừng ngốc thế, Posy,” Sophie cau mày. “Trong số những người chị biết, em là cô gái dễ thương nhất.”

Posy mỉm cười và nhón lấy cái bánh quy. Điều tuyệt nhất ở Sophie là chị ấy chẳng bao giờ nói dối. Sophie thực sự nghĩ cô là cô gái dễ thương nhất trong số những người chị ấy biết. Nhưng rồi một lần nữa, Sophie vốn luôn là kiểu người như thế. Chị ấy nhìn thấy những điều tốt đẹp ở nơi những người khác thấy... Chà, phải nói là ở nơi những người khác chẳng thèm nhìn, nói thẳng ra là như thế.

Posy cắn một miếng và nhai, quyết định rằng nó tuyệt đối đáng. Bơ, đường và bột. Còn thứ gì tốt hơn thế?

“Hôm nay chị vừa nhận được một lá thư từ Quý bà Bridgerton,” Sophie nói.

Posy nhìn lên hứng thú. Nói đúng ra thì, Quý bà Bridgerton phải là ý chỉ chị dâu của Sophie, vợ của ngài tử tước hiện tại. Nhưng cả hai bọn họ đều biết rằng chị ấy đang nói đến mẹ của Benedict. Với họ, bà luôn luôn là Quý bà Bridgerton. Người kia là Kate.

“Bà nói Ngài Fibberly gọi đấy.” Khi Posy không bình luận gì, Sophie thêm vào, “Ngài ấy tìm em.”

“Thì, tất nhiên là anh ta phải thế,” Posy nói. “Hyacinth thì quá trẻ, và Eloise thì làm anh ta chạy vắt đít.”

“Eloise cũng làm chị sợ nữa,” Sophie thú nhận. “Hoặc ít nhất là cô ấy từng thế. Hyacinth, chị khá chắc rằng, sẽ làm chị sợ cho đến cuối đời.”

“Chị chỉ cần biết làm sao để quản lý con bé thôi,” Posy nói với một cái vẫy tay. Điều đó là sự thật, Hyacinth Bridgerton vô cùng đáng sợ, nhưng cả hai người bọn họ ở cạnh nhau khá thân thiết. Có lẽ đó là do tính công bằng cứng cỏi (một vài người nói rằng đó là tính công bằng khó uốn) của Hyacinth. Khi Hyacinth biết được mẹ của Posy chưa bao giờ yêu cô như yêu Rosamund....

Chà phải nói là, Posy chưa bao giờ kể với ai chuyện này, và cô cũng chẳng kể bây giờ đâu, nhưng cứ nên biết rằng Araminta không bao giờ còn sờ đến món cá.

Hay gà nữa.

Posy đã biết được điều đó từ những người hầu, và họ luôn luôn là nguồn cung những câu chuyện phiếm xác thực nhất.

“Nhưng em đang sắp kể cho chị nghe về Ngài Fibberly mà,” Sophie nói, vẫn đang nhấp nhấp trà.

Posy nhún vai, “Anh ta chán chết đi được.”

“Đẹp trai không?”

Posy lại nhún vai lần nữa. “Em chẳng nói được.”

“Chỉ cần đánh giá qua cái nhìn đầu tiên thôi mà.”

“Em vẫn chẳng thể chịu được sự chán chết của anh ta. Em nghĩ anh ta chẳng cười bao giờ.”

“Không thể tệ đến thế chứ.”

“Ồ, có thể đấy, em bảo đảm với chị.” Cô vươn tay và nhón thêm một cái bánh quy nữa trước khi cô nhận ra cô không định làm thế. Ôi well, cô đã cầm nó lên tay rồi, cô không thể nào lại đặt nó xuống được. Cô vẫy nó trong không khí khi cô nói, cố diễn tả những gì mình nói. “Thỉnh thoảng anh ta có phát ra mấy cái tiếng dị hơm giống thế này, ‘Ehrm ehrm ehrm,’ và em nghĩ anh ta nghĩ mình đang cười, nhưng rõ ràng là không phải cười.”

Sophie cười khúc khích dù chị ấy trông như thể chị ấy nghĩ chị ấy không nên làm vậy.

“Và anh ta thậm chí còn chẳng nhìn vào ngực em!”

“Posy!”

“Đó là chỗ đẹp duy nhất của em.”

“Không phải thế!” Sophie liếc nhìn quanh phòng, dù chẳng hề có ai ở quanh. “Chị không thể tin được là em lại nói từ ấy.”

Posy thả ra một cái thở dài thất vọng. “Em không thể nói ‘ngực’ ở London, và bây giờ em cũng không thể nói vậy ở Wiltshire nữa sao?”

“Không phải khi chị đang chờ ngài mục sư mới,” Sophie nói.

Một mẩu bánh quy của Posy rơi ra, và rơi xuống đùi cô. “Cái gì?”

“Chị chưa nói với em ư?”

Posy nhìn Sophie nghi ngờ. Hầu hết mọi người nghĩ Sophie là một kẻ nói dối dở tệ, nhưng đó chỉ là vì chị ấy có một cái nhìn rất chi là ngây thơ ở chị ấy. Và chị ấy hiếm khi nói dối. Nên mọi người đều nghĩ rằng nếu chị ấy nói dối, chị ấy sẽ nói dối một cách dở tệ.

Posy, tuy nhiên, lại biết hơn nhiều. “Không,” cô nói, phủi phủi cái váy, “chị chưa nói với em.”

“Thật chẳng giống chị chút nào,” Sophie lầm bầm. Cô nhón một cái bánh lên và cắn một miếng.

Posy nhìn nàng chằm chằm. “Chị có biết hiện tại em đang không làm cái gì không?”

Sophie lắc đầu.

“Em đang không đảo tròng mắt bởi vì em đang cố cư xử theo cách phù hợp với tuổi tác và độ trưởng thành của mình đấy.”

“Em có trông rất trang nghiêm.”

Posy nhìn xuống dưới một chút. “Ngài ta chưa kết hôn, em tin là như thế.”

“E, đúng vậy.”

Posy nhướng mày trái, một biểu lộ rất có thể là món quà có ích duy nhất mà cô nhận được từ mẹ mình. “Ngài mục sư này bao nhiêu tuổi rồi?”

“Chị không biết,” Sophie thừa nhận, “nhưng anh ta vẫn còn đủ cả răng lẫn tóc.”

“Và thế là chị đã sắp xếp chuyện này luôn,” Posy lẩm nhẩm.

“Chị nghĩ đến em khi chị gặp anh ta,” Sophie nói, “bởi vì anh ta cười.”

Bởi vì anh ta cười? Posy đang bắt đầu nghĩ rằng Sophie hơi vá víu rồi đấy. “Chị nói gì cơ?”

“Anh ta cười thường xuyên. Và cười rất đẹp.” Với đó Sophie mỉm cười. “Chị chẳng thể ngăn được ngoài nghĩ đến em.”

Lần này Posy phải ngồi đảo mắt, rồi ngay lập tức theo sau đó là, “Em vừa mới quyết định từ bỏ sự trưởng thành.”

“Trên tất cả mọi phương cách.”

“Em sẽ gặp vị mục sư của chị,” Posy nói, “nhưng chị nên biết rằng là em quyết định là sẽ tỏ ra lập dị lắm đấy.”

An Offer From a Gentleman (2)

“Chị hy vọng em thành công được,” Sophie nói, không hề có tý mỉa mai nào.

“Chị không nghĩ là em có thể?”

“Em là người ít lập dị nhất mà chị biết.”

Điều đó là sự thật, tất nhiên, nhưng nếu Posy phải sống hết đời mình như một gái già, cô muốn là một người lập dị với cái mũ thật to, chứ không phải một kẻ tuyệt vọng với cái miệng ngậm đắng.

“Mà tên anh ta là gì?” cô hỏi.

Nhưng trước khi Sophie có thể trả lời, họ đã nghe thấy cửa trước mở, rồi sau đó chính vị quản gia mới là người trao cho cô câu trả lời, khi ông ta tuyên bố, “Ngài Woodson đã ở đây để gặp bà, Phu nhân Bridgerton.”

Posy giấu cái bánh đã ăn nửa của cô xuống dưới cái khăn ăn và đặt chéo tay lên đùi thật nghiêm trang. Cô vẫn hơi phật ý với Sophie vì đã mời một ngài độc thân đến dùng trà với họ mà chẳng cảnh báo trước cho cô gì cả, nhưng dẫu vậy, dường như có rất ít lý do để không gây ấn tượng tốt. Cô nhìn đầy trông đợi vào ngưỡng cửa, kiên nhẫn chờ khi tiếng bước chân của Ngài Woodson lớn dần.

Và rồi...

Và rồi...

Thật sự thì, chẳng có gì cô có thể kể lại, bởi cô gần như chẳng nhớ những gì xảy ra sau đó.

Cô nhìn thấy anh, và nó như thể, sau hai mươi lăm năm sống trên đời, tim cô cuối cùng cũng đã bắt đầu nhịp tiếng.

Hugh Woodson chưa bao giờ là anh chàng được ngưỡng mộ nhất ở trường. Anh cũng chưa bao giờ là người đẹp trai nhất, hoặc lực lưỡng nhất. Anh chưa bao giờ là người thông minh nhất, giàu có nhất, hay ngu ngốc nhất. Anh là người, và đã là như thế trong suốt cuộc đời, được yêu thích nhất.

Mọi người thích anh. Họ luôn luôn thế. Anh cho rằng đó là vì anh thích lại tất cả mọi người. Mẹ anh thề rằng anh từ trong bụng sinh ra đã mỉm cười rồi. Bà nói điều đó thường xuyên lắm, dù Hugh ngờ rằng mẹ anh làm thế chỉ để cho cha anh một cái đầu vào cho: “Ô, Gertrude, bà biết đó chỉ là khí ga thôi mà.” (??)

Cái chưa bao giờ thất bại trong việc khiến hai người bọn họ cười khúc khích như điên.

Nhưng dù thế, dù cho tất cả những cái khả năng thích người của anh, anh dường như chưa bao giờ bị lôi cuốn quá nhiều với phái nữ. Họ yêu quý anh, tất nhiên, và thố lộ những bí mật tối tăm nhất của họ cho anh, nhưng họ luôn luôn làm vậy theo một cách khiến Hugh tin rằng anh được coi là một loại sinh vật để chòng ghẹo nhưng đáng tin cậy.

Phần tệ nhất trong tất cả những chuyện này là tất cả những phụ nữ anh biết đều tuyệt đối tin rằng cô ta biết người phụ nữ hoàn hảo dành cho anh, hoặc nếu không, vậy cô ta khá chắc rằng người phụ nữ hoàn hảo đó có thật tồn tại.

Rằng chẳng người nào nghĩ rằng Hugh đã gặp được người phụ nữ hoàn hảo đó nhưng lại chẳng nhận ra cả.

Nhưng anh vẫn luôn tiến bước, bởi chẳng có lý nào lại làm khác đi cả. Và vì anh luôn luôn tin rằng phụ nữ là những con người thông minh, anh vẫn giữ hy vọng rằng có một người phụ nữ hoàn hảo đâu đó ngoài kia.

Sau rốt thì, không ít hơn bốn tá phụ nữ từng nói vậy. Không thể nào tất cả bọn họ đều sai.

Nhưng Hugh đang gần ba mười rồi, và Cô Nàng Hoàn Hảo vẫn chưa hề lộ mặt. Hugh đang bắt đầu nghĩ rằng anh nên tự nhận lấy vấn đề vào tay anh thôi không nên bỏ mặc nó cho số phận nữa, trừ việc anh chẳng có một tý ý tưởng nào xem nên làm thế nào cả, đặc biệt khi anh vừa mới chuyển sang sống ở một góc nhỏ yên tĩnh nơi vùng đồng quê Wiltshire này, và dường như chẳng có một cô gái độc thân hợp tuổi nào sống trong giáo xứ của anh cả.

Đặc biệt nhưng đúng thế.

Có lẽ anh nên lang thang đến vùng Gloucester vào Chủ nhật tới. Có một địa điểm du lịch ở đó, và anh đã được đề nghị nên đến đó và giảng giải một hay hai bài giảng cho đến khi họ tìm được một mục sư mới. Ở đó chắc phải có ít nhất một cô nàng độc thân nào chứ.

Nhưng đây không phải là lúc nghĩ đến những chuyện như thế. Anh đang đến để dùng trà với Phu nhân Bridgerton, một lời mời mà anh vô cùng vinh hạnh được nhận. Anh vẫn đang tìm hiểu làm quen với thói quen tập tục và cách sống ở vùng, và mới chỉ mất một buổi lễ nhà thờ anh đã biết rằng Phu nhân Bridgerton rất được yêu quý và kính trọng. Cô ấy dường như cũng rất thông minh và tử tế nữa.

Anh hy vọng cô ấy thích phiếm chuyện. Anh thực sự cần một ai đó để lấp đầy cho anh những chuyện xảy ra trong vùng. Bạn không thể trông nom con chiên của bạn mà không biết những gì xảy ra trong quá khứ của họ.

Đồng thời anh cũng nghe nói rằng đầu bếp của cô ấy pha trà rất khéo. Bánh quy được đề cập đến cũng rất ngon.

“Ngài Woodson đã ở đây để gặp bà, Phu nhân Bridgerton.”

Hugh bước vào phòng khách khi ông quản gia xướng tên anh. Anh khá mừng bởi anh đã quên ăn chưa vì căn nhà có mùi thật thơm ngon và –

Và anh dường như quên hết tất cả mọi thứ.

Tại sao anh lại đến.

Hay anh là ai.

Màu sắc của bầu trời, hay mùi hương của cỏ cây.

Thật đấy, khi anh đứng đó nơi ngưỡng cửa phòng khách nhà Bridgerton, anh chỉ biết một điều, một điều duy nhất.

Người con gái đang ngồi trên ghế sô pha, người có đôi mắt tuyệt đẹp, người không phải là Phu nhân Bridgerton, là Cô Gái Hoàn Hảo.

Sophie Bridgerton biết một hay hai điều gì đó về tình yêu sét đánh. Nàng đã, xưa xửa xừa xưa, cũng từng bị đánh bởi một tia sét, đứng ngẩn với đam mê bùng cháy, niềm sung sướng như men say, và một cảm giác nhức nhối kỳ quặc lan khắp cơ thể.

Hoặc ít nhất, đó là những gì mà nàng nhớ được.

Nàng cũng đồng thời cũng nhớ trong khi mũi tên của Thần Tình Ái, trong trường hợp của nàng, bắn vô cùng chính xác, nó cũng phải mất một khoảng thời gian để nàng và Benedict có thể cùng tiến bước tới hạnh phúc mãi mãi về sau của họ. Vì vậy dù cho nàng có muốn nhảy dựng trên ghế để la lên vì sung sướng khi nàng nhìn Posy và Ngài Woodson nhìn chằm chằm vào nhau như một đôi cún tương tư, một phần khác của nàng – phần cực kỳ thực tế, sinh – nhầm – bên – chăn, tôi – có – biết – rằng – thế – giới – không – làm – từ – cầu – vồng – và – thiên – thần của nàng – vẫn cố để giữ lại sự phấn khích ấy.

Nhưng có một điều ở Sophie là, dù tuổi thơ của nàng có cực khổ đến đâu (và đa phần nó khá là cực khổ khủng khiếp), bất kể có bao nhiêu sự tàn độc và nhục mạ nàng phải đối mặt trong cuộc đời, nàng vẫn, trong trái tim nàng, cực kỳ lãng mạn đến không chữa nổi.

Điều đó đưa nàng về lại với Posy.

Đúng là Posy có đến thăm viếng nàng vài lần mỗi năm, và cũng đúng là một trong những cuộc thăm viếng ấy gần như luôn trùng hợp với thời gian mùa lễ hội gần kết thúc, nhưng Sophie có thể thêm vào một tý khẩn nài trong những lời mời gần đây của nàng. Nàng có lẽ đã hơi quá khi tả bọn trẻ lớn nhanh đến thế nào, và có một chút rằng nàng đã thực sự nói dối khi nàng nói nàng vẫn thấy hơi ốm trong người.

Nhưng trong trường hợp này, cái kết là vô cùng mỹ mãn. Ồ, đúng là Posy đã nói với nàng rằng cô ấy hoàn toàn hài lòng khi sống độc thân, nhưng Sophie chẳng tin lấy điều ấy một giây nào. Hoặc nói cho đúng hơn, Sophie tin rằng Posy có tin rằng cô ấy hoàn toàn hài lòng. Nhưng chỉ cần nhìn Posy một cái khi cô ấy cưng nựng bé William và Alexander cũng có thể biết ngay rằng cô ấy sinh ra là để làm mẹ, và thế giới sẽ tối tăm hơn nhiều nếu Posy không có một tá con cái của riêng cô ấy.

Cũng đúng rằng Sophie đã, một đến mười hai lần, cố tình giới thiệu Posy với bất kể quý ngài độc thân nào có thể tim thấy được trong thời gian cô ấy ở thăm Wiltshire, nhưng lần này....

Lần này Sophie biết.

Lần này đó là tình yêu.

“Ngài Woodson,” nàng nói, cố gắng không cười nhăn nhở như một phụ nữ điên, “liệu tôi có thể giới thiệu em gái yêu quý của tôi, Cô Posy Reiling?”

Ngài Woodson nhìn như thể anh ta nghĩ rằng anh ta đang nói gì đó, nhưng thực sự là, anh ta đang nhìn vào Posy như thể anh ta vừa nhìn thấy Aphrodite vậy.

“Posy,” Sophie tiếp, “đây là Ngài Woodson, mục sư mới của vùng này. Ngài ấy cũng mới chuyển đến đên, ừm, ba tuần trước?”

Anh ta đã dọn đến ở gần hai tháng rồi. Sophie biết rõ điều đó, nhưng nàng có thôi thúc muốn xem xem liệu anh ta có lắng nghe kỹ để sửa sai lại nàng không.

Anh ta chỉ gật, chẳng hề rời mắt khỏi Posy.

“Xin mời, Ngài Woodson,” Sophie lẩm nhẩm, “ngồi xuống.”

Anh ta xoay xở hiểu được những gì nàng nói và hạ người xuống một cái ghế.

“Trà chứ, Ngài Woodson?” Sophie hỏi.

Anh ta gật.

“Posy, em pha trà được chứ?”

Posy gật.

Sophie chờ, và rồi rõ ràng là Posy sẽ chẳng làm gì ngoài việc cười cười với Ngài Woodson, nàng gọi, “Posy.”

Posy quay sang nhìn nàng, nhưng đầu cô ấy quay chậm và không dứt được, cứ như thể có một lực hút lớn lắm chĩa vào đầu cô ấy vậy.

“Em sẽ pha trà cho Ngài Woodson chứ?” Sophie nói, cố nhịn cười.

“Ồ, tất nhiên.” Posy quay lại với ngài mục sư, nụ cười ngông ngốc đó lại hiện lại trên mặt cô ấy. “Ngài có muốn chút trà không?”

Bình thường thì, Sophie có lẽ đã nhắc rằng nàng đã hỏi xem Ngài Woodson có muốn dùng trà không rồi, nhưng có gì đó chẳng hề bình thường trong giây phút chạm chán này, vì vậy nàng quyết định đơn giản là ngồi im và quan sát.

“Tôi rất muốn,” Ngài Woodson nói với Posy, “Hơn tất cả mọi thứ.”

“Ngài dùng trà thế nào?” Posy hỏi.

“Tiểu thư muốn pha thế nào cũng được.”

Ôi, bây giờ, thế này thì quá lắm rồi đấy. Không người đàn ông nào lại mù quáng đến thế khi yêu đến nỗi anh ta chẳng thể có đầu óc mà nghĩ đến trà của anh ta được. Đây là nước Anh cơ mà, vì Chúa trên trời cao. Trọng điểm hơn nữa, đây là trà.

“Chúng tôi có cả sữa lẫn đường,” Sophie nói, chẳng ngăn được mình. Nàng có ý ngồi và xem, nhưng thật sự thì, ngay cả những kẻ lãng mạn không cứu chữa được nhất cũng chẳng thể im lặng hơn được nữa.

Ngài Woodson chẳng hề nghe thấy nàng.

“Cả hai thứ đó đều chẳng xuất hiện trong tách của ngài,” nàng thêm vào.

“Em có một đôi mắt đẹp tuyệt vời nhất,” anh ta nói, và giọng anh ta đầy câu hỏi, cứ như là anh ta chưa thể tin được rằng anh ta đang ở ngay đây trong phòng này, với Posy.

“Nụ cười của anh,” Posy đáp lại. “Nó thật... đáng yêu.”

Anh ta dướn người lên. “Em có thích hoa hồng không, Tiểu thư Reiling?”

Posy gật.

“Anh nhất định phải đem cho em thật nhiều.”

Sophie từ bỏ việc cố gắng ngồi nghiêm chỉnh và cuối cùng phải phì cười. Dù sao thì, có ai trong số hai người bọn họ nhìn vào nàng đâu. “Chúng tôi có hoa hồng đấy,” nàng nói.

Không phản ứng.

“Trong vườn sau.”

Lần nữa, chẳng có gì.

“Nơi hai người có thể cùng đi dạo.”

Nó như thể có ai đó vừa chọc một gậy vào cả hai người họ.

“Ồ, chúng ta cùng đi chứ?”.

“Em rất hân hạnh.”

“Làm ơn, cho phép anh –”

“Nắm lấy tay em.”

“Anh sẽ –”

“Em phải –”

Đến khi Posy và Ngài Woodson ra đến cửa, Sophie chẳng thể nào nói được xem ai đang nói cái gì. Và chẳng có một giọt trà nào vào được trong tách của Ngài Woodson cả.

Sophie chờ đúng trọn vẹn một phút, rồi phá lên cười sặc sụa, bịt tay nàng lên miệng để cố kìm lại tiếng cười dù nàng chẳng chắc tại sao nàng cần phải làm thế. Đó là một tiếng cười vui sướng trọn vẹn. Tự hào nữa, vì đã sắp xếp cả chuyện.

“Nàng đang cười vì cái gì thế?” Đó là Benedict, lang thang bước vào trong phòng, những ngón tay chàng lấm lem màu vẽ. “A, bánh quy. Tuyệt vời. Ta đang đói muốn chết. Quên ăn lúc sáng nay.” Chàng cầm lấy cái cuối cùng và nhíu mày. “Nàng đáng ra nên để phần cho ta nhiều hơn.”

“Đó là Posy,” Sophie nói, cười nhăn. “Và Ngài Woodson. Em dự đoán một thời gian đính hôn vô vô cùng ngắn đấy.”

Mắt Benedict mở lớn. Chàng quay ra nhìn cửa, rồi đến cái cửa sổ. “Họ ở đâu?”

“Trong sân sau. Chúng ta chẳng thể nhìn thấy họ từ đây.”

Chàng ngâm nga nhai. “Nhưng chúng ta có thể nhìn từ phòng vẽ của ta.”

Trong khoảng hai phút chẳng ai trong hai người động đậy. Nhưng chỉ hai phút thôi.

Họ chạy ào ra cửa, xô và đẩy tìm đường xuống phòng vẽ của Benedict, căn phòng nằm nhô ra ở mặt sau căn nhà, cho phép nó có được ánh sáng chiếu vào từ ba hướng khác nhau. Sophie chạy đến đó trước, dù không phải hoàn toàn bằng cách công bằng, và phát ra một tiếng hổn hển váng vất.

“Gì vậy?” Benedict nói từ phía cửa.

“Họ đang hôn nhau!”

Chàng vội sải bước. “Họ không có.”

“Ồ, họ có đấy!”

Chàng đến bên cạnh nàng, và miệng chàng há hốc. “Chà, ta sẽ bị nguyền rủa.”

Và Sophie, người không bao giờ chửi thề, đáp lại, “Em biết. Em biết.”

“Và họ mới nhỉ gặp nhau? Thật sao?”

“Chàng hôn em ngay lần đầu chúng ta gặp mặt,” nàng chỉ ra.

“Chuyện đó khác.”

Sophie xoay xở để kéo sự chú ý của nàng ra khỏi cặp đôi đang hôn hít trên bãi cỏ để hỏi, “Khác thế nào?”

Chàng nghĩ về đó trong một chốc, rồi trả lời, “Nó là tiệc hóa trang.”

“Ồ, thì ra với chàng hôn người khác là không sao cả nếu chàng không biết cô ta là ai?”

“Thế là không công bằng, Sophie,” chàng nói, cười khúc khích khi chàng lắc đầu. “Ta có hỏi nàng, và nàng không chịu nói cho ta.”

Câu đó đủ đúng để kết thúc đoạn đối thoại đó, và rồi họ đứng đó thêm một lúc nữa, không biết xấu hổ là gì khi quan sát Posy và ngài mục sư. Hai người kia đã dừng hôn và bây giờ đang huyên thuyên nói chuyện – nhìn từ ngoài vào, một dặm một phút. Posy nói, rồi Ngài Woodson hùng hồn gật, rồi nói xen vào, và rồi cô ấy cũng xen vào khi anh ta nói, rồi anh ta nhìn như thể đang khúc khích cười, trong tất cả, rồi sau đó Posy bắt đầu nói hào hứng đến nỗi hai tay cô ấy cứ khuấy khoắng liên hồi trên đầu.

“Họ đang nói chuyện trên trời dưới biển gì thế chứ?” Sophie băn khoăn.

“Có lẽ là tất cả những gì họ nên nói trước khi anh ta hôn cô ấy.” Benedict nhíu mày, bắt chéo tay. “Mà họ thế này bao lâu rồi?”

“Chàng đã quan sát họ lâu như em vậy.”

“Không, ý ta là, mấy giờ thì anh ta tới? Họ có từng nói chuyện với nhau trươc khi...” Chàng vung vẩy tay về phía cửa sổ, chỉ về cặp đôi, người trông có vẻ lại sắp hôn tiếp.

“Có, tất nhiên, nhưng..” Sophie dừng, nghĩ. Cả Posy và Ngài Woodson đều nhíu hết cả lưỡi lại trong cuộc gặp. Thực tế, nàng nhớ chẳng có đến một danh từ nào được nói ra. “Thì, không nhiều lắm, e là như thế.”

Benedict chầm chậm gật đầu. “Nàng có nghĩ ta nên ra đó không?”

Sophie nhìn chàng, rồi ra ngoài cửa sổ, rồi nhìn lại. “Chàng có điên không?”

Chàng nhún vai. “Giờ đây cô ấy là em gái ta, và đây là nhà ta...”

“Chàng dám!”

“Vậy là ta không nên bảo vệ danh dự của cô ấy?”

“Đó là nụ hôn đầu tiên của cô ấy!”

Chàng nhướng một bên mày. “Và chúng ta ở đây, nhìn trộm.”

“Đó là quyền của em,” Sophie phẫn nộ nói. “Em sắp xếp tất cả mọi thứ.”

“Ồ, nàng đã, phải không? Ta nhớ là ta mới là người gợi ý Ngài Woodson.”

“Nhưng chàng chẳng nhúng tay vào chuyện gì.”

“Đó là việc của nàng, vợ yêu.”

Sophie cân nhắc việc đáp trả, bởi giọng chàng ghét chết lên được, nhưng chàng nói có lý. Nàng có thích thú việc mai mối cho Posy, và nàng rõ ràng tuyệt đối thích thú với thành quả.

“Nàng biết đấy,” Benedict trầm ngâm mói, “một ngày nào đó chúng ta có lẽ sẽ có một đứa con gái.”

Sophie quay sang chàng. Chàng không thường nói đến chuyện này. “Chàng nói gì cơ?”

Chàng ám chỉ về đôi chim câu trên bãi cỏ ngoài kia. “Chỉ là đây có lẽ là một cơ hội luyện tập tuyệt vời dành cho ta. Ta khá chắc là ta ước được làm một ông bố bảo vệ con gái thái quá. Ta có thể xông ra và xé anh ta thành từng mảnh vụn.

Sophie nhăn mặt. Ngài Woodson tội nghiệp sẽ chẳng có cơ hội chống đỡ.

“Thách đấu với anh ta vậy?”

Nàng lắc đầu.

“Tốt thôi, nhưng nếu anh ta hạ cô ấy xuống mặt đất, ta sẽ can thiệp.”

“Anh ta sẽ không – Ôi Chúa trên trời cao!” Sophie dướn người, mặt nàng dí chặt lên tấm kính. “Ôi Chúa con.”

Và nàng còn chẳng hề che miệng khi nói một từ báng bổ nữa.

Benedict thở dài, rồi dãn dãn những ngón tay. “Ta thực sự không muốn làm đau tay mình. Ta nửa hoàn thành xong bức chân dung của nàng rồi, và nó đang rất thuận lợi.”

Sophie đặt một tay lên tay chàng, giữ chặt chàng lại dù chàng chẳng thực sự di chuyển đi đâu. “Không,” nàng thốt, “đừng –” Nàng hổn hển. “Ôi, trời ơi. Có lẽ chúng ta nên làm gì đó.”

“Họ vẫn chưa nằm ra đất đâu.”

“Benedict!”

“Bình thường thì ta sẽ nói nên gọi một linh mục đến,” chàng bình phẩm, “ngoại trừ đó dường như chính là người đã lôi chúng ta vào đống lộn xộn này ngay từ đầu.”

Sophie nuốt nước bọt. “Có lẽ chàng có thể kiếm được một tấm giấy phép kết hôn đặc biệt cho họ? Như là quà cưới?”

Chàng cười nhăn. “Coi như xong.”

Đó là một lễ cưới tuyệt vời. Và nụ hôn kết thúc...

Không ai quá ngạc nhiên khi Posy chuyển giao ra một đứa bé vào chín tháng sau, rồi hàng năm sau đó. Cô ấy rất chăm lo việc đặt tên cho những đứa bé, và Ngài Woodson, người luôn quá tôn thờ cô ấy đến nỗi chẳng bao giờ nói gì về sự lựa chọn của cô ấy cả.

Đầu tiên là Sophia, vì những lý do quá rõ ràng, rồi đến Benedict. Bé tiếp theo đáng ra là Violet, ngoại trừ việc Sophie xin cô không làm thế. Nàng luôn luôn muốn cái tên ấy cho con gái nàng, và nó sẽ là quá nhầm lẫn bối rối khi hai gia đình gần gũi như vậy. Vì vậy Posy đặt tên đứa bé là Georgette, theo thên mẹ của Hugh, người cô nghĩ có nụ cười đáng yêu nhất trên đời.

Rồi sau đó là John, theo tên cha của Hugh. Trong một khoảng thời gian khá dài, cậu bé giữ nguyên vị trí là đứa nhỏ của gia đình. Sau khi sinh con mỗi tháng Sáu trong liền tù tỳ bốn năm, Posy ngừng mang thai. Cô ấy chẳng hề làm gì khác biệt đi cả, cô ấy thổ lộ với Sophie như vậy; cô ấy và Hugh vẫn rất quấn quýt bên nhau. Chỉ là dường như cơ thể cô ấy quyết định nó đã xong với việc mang thai rồi. Dù sao thì cũng tốt. Với hai cô con gái và hai cậu con trai, tay cô bận bịu lắm rồi.

Nhưng rồi khi John lên năm, Posy dậy khỏi giường trong một sáng và nôn mửa ra sàn nhà. Điều đó chỉ có thể nói lên một thứ, và mùa thu năm sau, cô ấy sinh ra một cô con gái nữa.

Sophie đã có mặt trong buổi sinh, như nàng luôn thế. “Em sẽ đặt tên con bé là gì?” nàng hỏi.

Posy nhìn xuống tạo vật hoàn hảo nhỏ bé trong vòng tay. Cô bé đang ngủ ngon lành, và dù cô biết những đứa trẻ mới sinh không cười, đứa bé này thực sự nhìn như rất thỏa mãn về cái gì đó.

Có thể chỉ bằng việc sinh ra. Có thể đứa bé này sẽ tấn công vào với cuộc đời bằng một nụ cười. Tính hài hước sẽ là vũ khí lợi hại của cô bé.

Cô bé sẽ là một cô gái thật tuyệt vời.

“Araminta,” Posy đột ngột nói.

Sophie gần như ngã bổ chửng vì choáng váng. “Cái gì?”

“Em muốn đặt tên con bé là Araminta. Em khá chắc đấy.” Posy ve vuốt má con bé, rồi dịu dàng gõ nhẹ lên cằm cô nàng đang thiu thiu ngủ.

Sophie dường như không thể ngừng lắc đầu. “Nhưng mẹ em... Chị không thể tin được là em lại – ”

“Em không đặt tên con bé theo tên mẹ em,” Posy nhẹ nhàng ngắt lời. “Em đặt tên con bé vì mẹ em. Điều đó khác biệt.”

Sophie nhìn mơ hồ, nhưng nàng cúi xuống để béo má cô bé thêm lần nữa. “Cô bé thực sự khá ngọt ngào đấy,” nàng thì thầm.

Posy mỉm cười, không một lần rời mắt khỏi khuôn mặt đứa bé. “Em biết.”

“Chị cho rằng chị có thể dần quen với cái tên ấy,” Sophie nói, đầu nàng lúc lắc đồng ý. Nàng rê rê ngón tay giữ bàn tay và cơ thể bé con, nhẹ cù lên bàn tảy nhỏ xinh ấy cho đến khi những ngón tay bé xíu nắm chặt lấy ngón tay nàng. “Xin chào, Araminta,” nàng nói. “Rất vui khi được gặp cháu.”

“Minty,” Posy nói.

Sophie nhìn lên. “Gì?”

“Em sẽ gọi con bé là Minty. Araminta sẽ là cái tên trong phả hệ, nhưng em tin con bé là một Minty.”

Sophie mím chặt môi để không cười. “Mẹ em sẽ ghét thế.”

“Đúng,” Posy thì thầm, “bà ấy sẽ ghét vậy, phải không?”

“Minty,” Sophie nói, thử âm thanh trên lưỡi nàng. “Chị thích nó. Không, chị nghĩ chị yêu nó. Nó hợp với con bé.”

Posy hôn lên đỉnh đầu Minty. “Con sẽ là một cô bé thế nào đây?” cô thầm thì. “Ngọt ngào vào ngoan ngoãn?”

Sophie cười khúc khích trước câu nói ấy. Nàng đã dự sinh cả thảy là mười hai đứa bé – bốn đứa con nàng, năm của Posy, và ba của Eloise. Chưa từng một lần nàng nghe thấy một đứa bé nào bước vào thế giới này với tiếng khóc to tướng như cô nàng Minty bé nhỏ này. “Đứa này,” nàng nói dứt khoát, “sẽ dẫn người khác vào những cuộc đuổi bắt kịch tính.”

Và đúng là như thế. Nhưng đó, thưa độc giả yêu mến, lại là một câu chuyện khác...