Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

Chương 2-12




BOBBY

Sau hôm chúng tôi cùng nhau nhảy múa trên nóc nhà, Jonathan đột ngột biến mất. Cậu chẳng để lại gì ngoài vài từ trên một mảnh giấy đặt ở bàn, được chặn dưới cái máy xay hạt tiêu. “B. và C. thân mến, chúc hai người hạnh phúc bên nhau. Nghe có vẻ hơi sến, đúng không? Đại khái là, tôi đang bắt đầu lại cuộc đời ở một nơi nào đó, thực sự cũng không biết là ở đâu nữa. Thứ đồ nào của tôi mà hai người không dùng được thì cứ vứt đi. Thân Yêu, J.”

Clare và tôi đọc đi đọc lại những dòng chữ đó, như thể chúng là mật mã cho một thông điệp khác dễ hiểu hơn. Nàng gọi điện đến tòa soạn và biết được rằng cậu thôi việc sáng hôm đó, không hề báo trước. Cậu đã bỏ đi, không để lại địa chỉ của nơi cậu sắp đến. Phòng cậu vẫn mang màu trắng và đượm vẻ trống vắng. Theo những gì chúng tôi nhận thấy, chỉ vài bộ quần áo của cậu biến mất.

“Chết tiệt,” Clare nói. “Tên khốn kiếp đó. Sao cậu ta có thể làm thế?”

“Anh không biết,” tôi nói. “Anh nghĩ cậu ấy chỉ làm vậy thôi.”

Clare giận dữ còn tôi trở nên đờ đẫn. Sự ra đi của người khác thường đem lại cho tôi cảm giác thẫn thờ - tôi thấy đầu óc mình cứ u mê. Khi ai đó bỏ đi, tôi chẳng còn biết gì nữa. Trong tôi ngập tràn cảm giác bối rối khó chịu, nó mạnh mẽ hệt như tác dụng của ma túy. Đó là một kiểu trì trệ, tôi nghĩ vậy. Một kết nối nơ-ron bị thiếu. Một người vốn dĩ từng ở đây đã không còn ở đây nữa. Có vẻ tôi không thể hiểu nổi.

“Jonathan, đồ đê tiện,” Clare nói. “Ngay khi mọi chuyện đang bắt đầu tiến triển.” Nàng vo viên tờ giấy và ném vào thùng rác, rồi sau đó lại bới nó lên, như thể nàng nghĩ nàng cần phải giữ nó lại làm bằng chứng.

“Cậu ấy sẽ quay lại?” Tôi nói. Đó là điều mà tôi định bảo nàng, nhưng không ngờ lại diễn đạt nó như một câu hỏi.

“Bọn đàn ông làm sao thế nhỉ?” Clare nói. Nàng đứng trên thảm phòng khách, tay khoanh trước ngực và hàm nghiến chặt lại. Tôi thấy rằng ở kiếp trước, có thể nàng đã là một giáo viên, một phụ nữ lỡ thì lập dị, lúc đầu khiến bạn thấy kì quặc nhưng cuối cùng lại làm thay đổi cuộc đời bạn. Tôi không đáp. Tôi đang ngồi trên cái ghế bọc vải nhung trơn mà chúng tôi đã tha về nhà từ góc phố Năm và Mười tám. Tay tôi kẹp chặt giữa đùi. “Thật sự đấy,” nàng nói. “Em muốn biết. Anh có biết không? Trong đầu họ nghĩ gì vậy? Họ muốn gì?”

Tôi nhún vai. Đó không phải là câu hỏi mà tôi có thể trả lời, dù có vẻ nàng ngỡ là tôi làm được. Có lẽ tôi là học sinh ngu dốt nhất trong lớp của nàng, không thể trả lời ngay cả những câu dễ nhất mà nàng đặt ra cho tôi.

“Em đi ra ngoài đây,” nàng nói. Nàng khoác áo khoác lên vai, đó là cái áo da bạc màu với biểu tượng hòa bình trên lưng. Đôi khuyên tai của nàng kêu leng keng và lấp lánh. Nàng xuống cầu thang với tiếng giày lộp cộp đầy quyết tâm khiến tôi nghĩ rằng trong vòng một giờ nữa nàng sẽ kéo tai Jonathan lôi về. Nàng sẽ kiểm tra các nhà ga và sân bay, chặn lại các phương tiện giao thông trên cầu George Washington. Khôn gai có thể thoát khỏi nàng khi nàng to lớn và đang cáu giận như thế. Nhưng chưa đầy một giờ sau, nàng quay về một mình. Tôi hầu như vẫn bất động. Tôi đã dành cả tiếng đồng hồ ngồi trong phòng khách, để mặc thời gian đằng đẵng trôi qua. Khi Clare quay về, nàng dừng lại một lúc, nhìn tôi bối rối.

“Em có tìm thấy cậu ấy không?” Tôi hỏi.

“Dĩ nhiên là em không tìm thấy.”

Nàng đùng đùng bước đến bên tôi. “Anh có yêu em không?” Nàng hỏi.

“Anh không biết,” tôi nói. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là nói ra sự thật.

“Em cũng không biết là em có yêu anh không nữa,” nàng nói. Nàng cởi áo tôi mạnh đến mức làm rách toạc những đường chỉ. Chúng tôi làm tình trên sàn phòng khách. Nàng cắn vào cổ tôi và nụ hoa tôi, rứt tóc tôi. Nàng để lại những vệt máu chạy dọc theo lưng và mông tôi.

Jonathan đã rút hết tiền khỏi ngân hàng và mua một tấm vé đi đâu đó. Clare và tôi mất vài tuần mới thôi mong ngóng tin tức của cậu.

“Em không hiểu nổi,” nàng nói. “Có vẻ đây không phải là sự thật, đây chỉ là vài kiểu thông điệp nào đó. Anh biết Jonathan có thể là người như thế nào mà.”

“Anh biết,” tôi nói. Nhưng cậu thực sự đã bỏ đi. Cô Alice và chú Ned không thể nói gì với chúng tôi, và tất cả những gì chúng tôi biết về Erich là cái tên của anh ta và việc anh ta đang làm ở một nhà hàng nào đó. Sau bữa tối hôm đó, chúng tôi đã chúc mừng nhau vì khả năng vui chơi của mình. Chúng tôi cùng nhau hứa hẹn sẽ mau chóng làm một điều náo loạn tương tự như thế. Chúng tôi không nghĩ rằng mình cần gì đó đặc biệt để liên lạc với nhau.

Jonathan dường như đã rơi xuống một cái cửa bẫy. Lần cuối chúng tôi thấy cậu là lúc cậu đang rửa bát đĩa, hớp nốt chỗ rượu Scotch cuối cùng, và hôn chúc hai chúng tôi ngủ ngon. Sáng hôm sau cậu đi làm từ sớm. Và khi Clare cùng tôi về nhà tối hôm đó, chúng tôi phát hiện ra mảnh giấy.

“Tên khốn ngu ngốc,” Clare nói. “Cậu ta làm sao thế không biết.”

“Cậu ấy là mẫu người đa cảm,” tôi nói. “Cậu ấy không thể đừng được.”

Tôi chờ đợi những cảm giác thực sự của mình ập đến. Tôi chờ đợi tất cả những phản ứng thích hợp: thịnh nộ và thất vọng, cảm giác bị phản bội. Nhưng hàng tuần trôi qua mà sự trống rỗng vẫn cứ bám lấy tôi. Chẳng có gì xảy ra cả, chẳng có gì hết. Tôi cảm thấy dường như tôi đã quay trở lại với cuộc sống kiểu Cleveland trước đây của mình, một cuộc sống được tạo nên từ những chi tiết. Khi ở chỗ làm, tôi cắt nhỏ những tảng pho mát và thái nấm. Lúc ở nhà, tôi thường xem ti vi, ngắm ánh nắng thay đổi bên ngoài cửa sổ, hay ngắm nhìn thời gian trôi qua khi mở những đĩa hát. Tôi ngạc nhiên khi thấy rằng New York có thể bình thường và yên ả như Cleveland. Nó có thể mang vẻ hoang phế tương tự như thế. Dù chúng ta vẫn thường nghĩ rằng những người đã khuất chỉ sống trong quá khứ, nhưng giờ đây tôi tin rằng họ vẫn tồn tại trong một hiện tại bất tận. Không có hi vọng về những điều tốt đẹp hơn trong tương lai. Không có ký ức về mỗi khoảnh khắc đã xảy ra trong quá khứ.

Không có Jonathan, tôi tự ám ảnh cuộc sống của mình. Tôi không thể giao tiếp với ai. Tôi bước qua từng thời khắc như một vong hồn đang thơ thẩn đi dạo với vẻ ngạc nhiên qua những căn phòng mà anh ta từng khiêu vũ, khóc lóc và làm tình, những căn phòng mà hồi còn sống anh ta đã thờ ơ.

Clare đã vượt qua được một loạt những cảm xúc quen thuộc hơn, và dần bình tâm lại. Nàng đã tự dạy mình chấp nhận những bí ẩn và sự ích kỉ đến mức khó chịu của Jonathan. Nàng đã đề ra một nguyên tắc: không bao giờ tin tưởng ai dưới ba mươi tuổi. “Họ không thể sống có trách nhiệm, ngay cả khi đã ở tuổi hai mươi tám,” nàng nói. “Ở độ tuổi đó, ta vẫn còn đang khám phá bản thân mình. Em thực sự mong muốn những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với Jonathan. Em hi vọng một lúc nào đó, sau khi đã có được một tính cách ổn định, cậu ấy sẽ gọi điện cho em.”

Nàng đã ghét bỏ tôi trong một thời gian vì tôi đang ở độ tuổi hai mươi tám. Sau lần làm tình dữ dội trên sàn phòng khách đó, nàng đã thôi không còn ngủ với tôi nữa. Nàng bảo tôi đến ngủ ở giường của Jonathan, để nàng sẽ không cảm thấy thiếu vắng nếu một ngày nào đó tôi cũng đột nhiên biến mất. Và rồi, sau gần một tháng, nàng trườn lên giường với tôi lúc nửa đêm. “Em thực sự là một con đê tiện đúng không?” Nàng thì thầm. “Hãy tha lỗi cho em, cưng nhé. Chỉ vì em không thể chịu được cảnh mình bị bỏ rơi. Anh nghĩ thế nào? Anh có nghĩ rằng tự bọn mình có thể cùng nhau xoay xở được không, chỉ hai người chúng mình thôi ấy?”

Tôi bảo nàng rằng tôi nghĩ có lẽ chúng tôi có thể làm được. Theo như những gì chúng tôi biết, chúng tôi cũng phần nào yêu nhau. Tôi thích làm tình với nàng, tôi thích hơi ấm và sự bất ngờ toát ra từ thân thể nàng. Tôi thích vệt lông hoe vàng nhỏ xíu trải từ rốn đến chỗ kín của nàng, và tôi thích những nếp nhăn mà mông nàng tạo ra khi nó gặp đùi nàng. Đêm đó chúng tôi lại làm tình, lần đầu tiên sau một tháng ngủ riêng, và dù chúng tôi đã thực hiện tất cả các động tác, nhưng điểm quan trọng nhất lại không đạt được. Tôi đã ngờ rằng nó sẽ trở nên như thế. Giờ đây tình dục là một chuỗi những chi tiết, với sự bùng nổ ngọt ngào vào lúc cuối cùng. Đó là một nét đặc trưng khác của ngày thường.

Sau đó, chúng tôi lại ngủ chung giường. Chúng tôi làm tình một hay hai lần một tuần. Nhưng Jonathan đã mang theo một thứ gì đó từ bầu không khí khi cậu bỏ đi – một điều tiếp theo mãi không xảy ra. Clare và tôi bị mắc kẹt ở hiện tại. Theo như những gì chúng tôi biết lúc này, đó là nơi thích hợp dành cho chúng tôi. Nhưng khi điều đó xảy ra – khi chúng tôi mất hết ý thức về quá khứ và tương lai – chúng tôi bắt đầu buông xuôi. Clare cũng cảm thấy thế. Nàng gọi tôi là “anh yêu” và “cưng” nhiều hơn. Nàng nhìn tôi với vẻ trìu mến dịu dàng hoàn toàn đối lập với khao khát. Tôi bắt đầu nhận ra những đường gân cổ của nàng cứ nhảy nhót khi nàng nói. Tôi cũng để ý hơn đến việc nàng cứ vách những bức tranh vô hình trên mặt bàn khi nói chuyện, và mascara đôi khi bị vón cục dày cộp trên lông mi nàng.

Chúng tôi vẫn làm những việc quen thuộc. Chúng tôi xem ti vi và đi xem phim, mua quần áo cũ và đi dạo qua những khu vực lân cận đang ngày một thay đổi. Đôi khi chúng tôi đến những câu lạc bộ và các bữa tiệc, nhưng những dịp ở riêng bên nhau thì cứ trôi xa dần. Chúng tôi không biết phải nói gì với nhau. Tôi không phải là người hay chuyện. Tôi tiếp thu mọi thứ, nhưng không thể cất chúng thành lời để truyền đạt lại. Trước đây Jonathan đã luôn nói thay cho cả hai chúng tôi. Còn bây giờ, những đợt im lặng cứ trải dài mãi. Không có ai ngoài Clare và tôi trở về nhà. Chúng tôi không còn biết bàn tán về ai, lo lắng cho hai, trừ hai người chúng tôi với nhau.

Tôi nghĩ đến bố mẹ mình. Tôi nghĩ đến cô Alice và chú Ned.

Đây là tình yêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Tôi đã có thêm nhiều hiểu biết về nó trong vốn kiến thức liên tục được tích lũy của mình.

Hè qua, thu tới. Đến tận cuối tháng Mười một tôi mới gặp Jonathan, và cũng chỉ là tình cờ. Tôi đến gặp bác sĩ trị liệu ở khu Upper West Side để chữa cái lưng đau do tôi bê một thùng sâm banh ở chỗ làm. Khu Upper West Side giống như một thành phố khác – vì chỗ chúng tôi sống có vẻ sầm uất hơn. Khi đi trên quãng đường từ phía tây của công viên Trung tâm đến bến tàu điện ngầm, tôi trố mắt ngơ ngẩn, như một du khách, nhìn ngắm mùa thu vàng đang trải ra trong công viên Trung tâm và dõi theo những con chó nhỏ xinh xắn đang lon ton chạy theo đôi giày bóng loáng của những người chủ. Tôi quá đắm chìm trong vẻ khác biệt của nơi này đến nỗi tôi gần như đi qua Jonathan.

Cậu đang dựa vào sườn gạch của một tòa chung cư, đọc tờ The Village Voice. Tôi nhìn chằm chằm vào cậu như thể cậu là một đặc điểm của nơi này. Cậu giống như từ trong một bức ảnh bước ra cuộc đời thực, giống như khi bạn trông thấy những chi tiết của Paris hiện ra khi bạn dạo qua nó trong một chuyến du lịch trọn gói ba ngày.

Tôi nói: “Jonathan à?”

Cậu ngẩng lên, và gọi tên tôi.

“Jonathan, mình... có phải cậu không đấy?”

Cậu gật đầu. “Mình đây. Mình về thành phố được vài tuần rồi.”

“Mình, ôi, Chúa ơi. Mình không biết nói gì cả. Ừm, cậu ổn chứ?”

Tôi bối rối bởi sự xuất hiện trở lại của cậu giống như khi cậu bỏ đi. Một lần nữa, cơ thể tôi ngừng hoạt động và tôi trôi nổi trong không gian.

“Mình vẫn ổn, Bobby, mình không có ý định gặp lại cậu như thế này.”

“Ừ. Ý mình là, cậu có thể nói cho mình biết chuyện gì đã xảy ra không?”

Cậu thở dài. “Mình xin lỗi vì cái cách mà mình bỏ đi. Nó hơi kì cục, đúng không? Mình chỉ... mình biết mình sẽ không thể làm cách nào khác được. Mình sẽ chỉ quanh quẩn ở đó làm một ông chú cho đến khi cậu và Clare chuyển đi và bỏ lại một mình mình trong căn hộ kinh khủng đó. Clare thế nào?”

“Cô ấy vẫn ổn. Cô ấy, ờ, hầu như vẫn vậy. Mình nghĩ bọn mình đều không có gì thay đổi mấy.”

“Nghe giọng cậu cứ như đó là một định mệnh khủng khiếp vậy,” cậu nói.

Tôi nhún vai, và cậu lại gật đầu. Cậu quen thuộc đến mức khiến tôi khó lòng nhìn kĩ. Khuôn mặt và quần áo của cậu cứ nhòe nhòe. Có thể tôi đã băng qua một ranh giới tinh thần và thực sự chỉ đang nói chuyện với ai đó giống Jonathan mà thôi. New York đầy rẫy những người bị ảnh hưởng bởi những mất mát của riêng họ, và cho rằng họ có quen biết với bất cứ ai trên đường phố.

“Cậu muốn đi uống hay làm gì đó không?” Cậu hỏi.

“Ừ,” tôi nói. “Chắc chắn rồi.”

Chúng tôi đi đến quán đầu tiên mà chúng tôi thấy, một quán bar Ireland phục vụ món thịt bò muối trên một chiếc bàn giữ nhiệt. Đó là phiên bản phía bắc của những quán bar ở Village mà chúng tôi vẫn thường đến vào những buổi tối sắm vai nhà Henderson. Những vật trang trí làm bằng giấy kếp trong lễ Giáng sinh đã trở thành vật cố định ở đó quanh năm, và ti vi đang chiếu một bộ phim dài tập quá tươi sáng cho một phụ nữ lớn tuổi đơn độc đang ngồi ở quầy bar, sẵn sàng quát lên với bất cứ ai làm ảnh hưởng đến bà.

Jonathan gọi một ly “Dewar’s có đá,” còn tôi uống bia. Cậu cụng nhẹ ly cậu vào ly tôi. “Cậu có nghĩ là sẽ còn gặp lại mình không?” Cậu hỏi.

“Mình không biết. Làm sao mình biết được?”

“Ừ. Làm sao cậu biết được.”

“Cậu đã đi đâu thế?” Tôi hỏi cậu. Tôi vẫn chưa lấy lại được ý thức về thực tại. Tôi thoáng nghĩ đến việc nói lời xin lỗi, rồi đến bên chiếc điện thoại công cộng ở đằng sau và gọi cho cảnh sát. Nhưng tôi sẽ nói gì với họ?

“Chà, tài khoản ngân hàng của mình không có nhiều tiền lắm. Ý mình là, nếu mình có hàng nghìn đô, có lẽ mình đã đi Florence hay Tokyo hay đâu đó. Nhưng với những gì mình có, mình chỉ đến được California. Cậu có nhớ Donna Lee, bạn đại học của mình không? Cô ấy hiện sống ở San Francisco, với một phụ nữ tên là Cristina. Mình đã đến đó và ngủ trên sofa nhà họ một thời gian, và cố dựng lên một cuộc sống kiểu San Francisco cho mình.”

Cậu nhấp ly rượu vào mút một viên đá ngay khi tôi biết cậu sẽ làm thế. Cậu vẫn đeo chiếc nhẫn Navajo bằng bạc mà cậu đã mua ở Cleveland hồi chúng tôi mười lăm tuổi. Những chi tiết đó quay cuồng và náo động trong đầu tôi.

“Mình thực sự không, cậu biết đấy, hiểu hết chuyện này,” tôi bảo cậu. “Mình vẫn chưa hiểu gì từ lúc cậu bỏ lại mảnh giấy đó. Bọn mình đã rất vui vẻ, bữa tối với Erich rất thú vị, thế rồi cậu bỏ đi. Mình chẳng hiểu gì hết.”

“Ừm, thực sự thì chính mình cũng không hiểu nổi nữa. Cậu biết đấy, tháng trước mình đã đón sinh nhật lần thứ hai mươi chín. Và mình có cảm giác như trong vòng năm phút nữa mình sẽ lại bước tiếp sang tuổi ba mươi.”

“Ừm, chúc mừng sinh nhật cậu.”

“Cậu cũng sắp hai mươi chín rồi, chỉ vài tuần nữa thôi.”

“Đúng thế,” tôi nói.

“Ừm. Thôi, mình phải đi rồi. Họ vẫn đang cân nhắc xem liệu có nên cho mình quay lại tòa soạn không, mình định nửa tiếng nữa sẽ đến gặp Fred và Georgeanne. Có vẻ họ vẫn chưa quyết định xem liệu mình là một thiên tài lãng mạn đa cảm hay đơn giản chỉ là vô trách nhiệm. Để mình trả tiền đồ uống cho.”

Cậu ném một đống tiền lên mặt bàn. Tôi giơ tay ra và đặt tay lên tay cậu.

“Cậu có muốn ghé qua nhà tối nay không?” Tôi hỏi. “Clare sẽ muốn gặp cậu đấy.”

Cậu nhìn vào hai bàn tay của chúng tôi. “Không đâu, Bobby ạ,” cậu nói. “Mình không muốn ghé qua. Đây chỉ là một sự tình cờ thôi. Ý mình là, cậu chưa bao giờ lên mạn phía bắc này. Còn mình cho rằng có lẽ mình đang ở Michigan.”

“Cậu không muốn gặp bọn mình à?”

Giờ thì cậu nhìn thẳng vào mặt tôi. Cậu rút tay ra khỏi tay tôi.

“Bobby, sự thật là, có vẻ mình đã yêu cả hai người bọn cậu. Nghe có vẻ lạ lùng, mình biết. Mình không bao giờ muốn một điều như thế này xảy ra. Ý mình là... Ừm. Đó không phải là điều mà cậu sẵn sàng đón nhận. Có vẻ mình đã yêu cả cậu lẫn Clare. Mình đã nhận ra điều đó vào cái đêm ở trên nóc nhà ấy. Mình không muốn hẹn hò với Erich, hay với ai khác. Chỉ là vô vọng thôi. Từ khi mình biết cậu, có vẻ mình không thể yêu ai khác được nữa.”