Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

Chương 3-8




CLARE

Erich đã mang đến điều gì đó mới mẻ cho ngôi nhà. Hay có lẽ anh đã gợi lên một điều xưa cũ. Một điều đã ở đó bao lâu nay mà không ai hay biết. Anh bước đi trên hành lang, khẽ phát ra những hơi thở suy nhược trong không khí bụi bặm. Những biểu hiện rõ rệt về bệnh tật và cái chết có vẻ vẫn còn xa xôi chừng nào bạn còn chưa ngửi thấy mùi thuốc thang. Chừng nào bạn chưa thấy da dẻ chuyển sang màu đất sét.

Việc trở thành một người mẹ khiến tôi không thể làm được một số điều nữa, những điều mà trong cuộc sống trước khi tôi gần như có thể tự động làm mà không cần suy nghĩ. Tôi không thể từ chối những gì Erich cần nhưng đồng thời tôi cũng không thể ôm anh. Tôi nhận thấy rằng, phần nào nằm ngoài ý muốn của tôi, tôi đã trở thành người có thể, một cách khác thường, che chở cho người khác. Tôi cho rằng đó là do sự đa cảm, dù bản thân tôi chẳng hề ủy mị chút nào. Tôi chỉ cảm thấy khó chịu, lạnh nhạt và lạnh lùng. Lần đầu tiên, tôi không chỉ nghĩ về bản thân mình. Một vùng trong não tôi, mà tôi đã coi đó là tôi, có vẻ đã bị hấp thụ hết sạch. Thế chỗ cho nó là một thứ rắn chắc chỉ làm theo những gì cần thiết. Tôi nấu nướng cho Erich ăn trong khi đám đàn ông đi làm, để ý đến việc uống thuốc của anh, giúp anh đi vệ sinh trong những ngày anh cần được giúp đỡ. Tôi nói năng thân thiện với anh. Không gì có thể ngăn tôi làm những việc đó. Nhưng tôi không quan tâm đến anh. Trong chừng mực nào đó, mối quan hệ của chúng tôi giống như là một công việc nghiêm túc. Tôi chỉ quan tâm thực sự đến Rebecca, người vẫn đang sống và đang lớn lên. Còn Erich phần nào đã ra khỏi thế giới này. Tôi coi sự thoải mái và an toàn của anh là điều quan trọng thiết yếu, nhưng sự tồn tại của anh thì không. Giờ đây tôi đã hiểu rõ hơn vì sao trong những câu chuyện, các bà mẹ lại luôn xuất hiện với những hình ảnh của những vị thánh hoặc những quái vật. Chúng tôi không phải là con người theo nghĩa thông thường, ít nhất là khi con chúng tôi còn rất nhỏ. Chúng tôi trở thành những quái vật thận trọng, cứng rắn, và nếu đôi khi chúng tôi mất đi những phẩm chất tốt đẹp hơn của tâm hồn trong khi chăm sóc cơ thể mong manh ấy, chúng tôi không thể làm gì hơn được.

Hầu như suốt ngày tôi ở nhà một mình với Rebecca và Erich. Vì đám đàn ông đã thuê được Marlys và Gert nên giờ họ có thể về nhà thường xuyên hơn. Tuy vậy, phần lớn thời gian của tôi vẫn được dành cho một đứa bé hai tuổi và một người đàn ông đang chết dần chết mòn.

Tôi thuê những bộ phim và rót nước quả ép. Tôi bắt đầu dạy Rebecca đi vệ sinh, và thi thoảng thay ga trải giường bẩn cho Erich. Có những ngày tâm trạng anh khá tốt nhưng cũng có những ngày tệ hơn. Trong những ngày khó chịu đó, anh có thể cáu kỉnh với tôi. Anh có thể đột nhiên nói: “Tôi ghét nước táo ép, tôi phát ốm lên vì nó, ở chợ không có loại nào khác à?” Anh có thể phàn nàn về những bộ phim tôi thuê về. “Bà Miniver? Chúa ơi, họ chỉ còn có thể loại này thôi à?”

Nhưng anh chưa bao giờ mất kiên nhẫn với Rebecca. Đôi khi, trong những ngày anh phải nằm trên giường, hai người họ xem video cùng nhau. Tôi thuê về phim Dumbo, Nàng Bạch Tuyết, và bất cứ thứ gì liên quan đến những con rối. Erich cũng thích những bộ phim này. Anh không hoàn toàn thu hút Rebecca như Jonathan, nhưng anh giữ được hứng thú của nó. Anh có sức tập trung phi thường, và tôi ngờ rằng con bé cảm thấy yên tâm khi ở bên anh. Anh có thể sắm vai một người đàn ông tốt bụng với trẻ con một cách quá hoàn hảo. Anh để nó chỉ huy mình. Anh thực hiện, theo yêu cầu của nó, một điệu nhảy cứng nhắc với con khỉ nhồi bông mà không hiểu sao nó lại đặt tên là Shippo, trong khi nó lộn ngược một con búp bê tên là Baby Lou và vung vẩy hai cái chân bằng nhựa cứng ngắc của con búp bê trong không khí. Anh đồng ý tham gia vào tất cả những trò mà nó nghĩ ra, nhiều trong số đó đòi hỏi phải chuyển đi chuyển lại một con khủng long cao su trong khi liệt kê ra một danh sách dài những yêu cầu thay đổi liên tục. Anh có thể giả giọng của Chú ếch Kermit, điều đó có vẻ khiến nó thấy rất buồn cười và hơi bối rối.

Thỉnh thoảng khi tôi mang cho họ chút đồ ăn nhẹ, tôi thấy họ đang ngồi cùng nhau trên giường của Erich, xem ti vi, đồ chơi quăng khắp nơi. Đôi khi tôi phải nín thở trước cảnh con gia súc tí hon của nó đi trên cái đầu gối gầy giơ xương của Erich, hay Erich lơ đãng vuốt tóc nó khi họ cùng xem hoạt hình. Dù hôm đó trong người anh cảm thấy thế nào, anh vẫn luôn ân cần với con gái tôi. Sức tập trung của anh quả thật ghê gớm. Dường như anh đã tự đặt ra cho mình một quy tắc: không bao giờ biểu lộ bất cứ hành vi khó chịu hay thô lỗ nào với con bé này, và chỉ được phép tỏ ra thân thiện và dễ bảo khi có mặt nó. Anh khác với Jonathan. Anh không yêu nó. Anh chỉ quý mến nó. Đối tốt với nó là một trong những nguyên tắc quy củ của anh, dựa vào đó anh có thể sống cho qua ngày. Anh coi đó là công việc của mình.

Ban đầu, tôi cảm thấy một sự bất ổn mơ hồ xốn xang trong bụng tôi, nửa như buồn nôn, nửa như đau đớn. Có lúc tôi cho rằng mình đang mọc một cái ung nhọt hay tệ hơn, dù bác sĩ đã bảo tôi rằng đó chỉ là sự lo lắng. Cuối cùng, sau vài tháng, tôi đã nhận ra nó là cái gì. Tôi đang tiến tới một quyết định. Hay đúng hơn là một quyết định đang đến với tôi. Nó đang lớn dần lên trong tôi, gần như nằm ngoài ý thức tỉnh táo của tôi.

Nó đã lên đến đỉnh điểm vào một chiều tháng Năm, khi tôi đang chợp mắt với Rebecca. Con bé đã trở nên bướng bỉnh với những giấc ngủ ngắn và chỉ chịu nằm xuống vào buổi chiều nếu tôi đưa nó lên giường của Bobby và tôi, đọc cho nó nghe một trong những quyển sách của nó. Lúc đó, nó đã gần hai tuổi rưỡi. Nó đã bắt đầu bị ám ảnh với vài quyển sách, trong đó có một quyển kể về một con thỏ thường nói chúc ngủ ngon với tất cả đồ vật trong phòng ngủ của nó, và một quyển khác kể về một con lợn tìm được một khúc xương thần kì. Chúng tôi thường đọc cả hai quyển sách đó hai lần, và thiếp đi cùng nhau. Sau hai mươi phút, tôi tỉnh giấc vì giọng nói của Rebecca. Nó nằm cạnh tôi, tự kể chuyện cho mình nghe. Đây cũng là một thói quen mới của nó. Nó có thể tự nói chuyện với mình hàng giờ liền. Tôi nằm yên lặng, lắng nghe.

“Mình đi đến cửa hàng,” nó nói. “Mình có một khúc xương biết nói. Cô bé đó chưa bao giờ thấy nó. Cô bé nhặc khúc xương lên và đến nhà của Bunny. Bunny có nhà, và Jonathan cũng ở đó. Và họ nói: "Ôi, ôi, ôi, đúng là một con mèo nhỏ tốt bụng." Và Jonathan cầm lấy khúc xương. Jonathan nói: "Giờ mình sẽ làm món gì đó thật ngon với khúc xương này." Và Jonathan làm… cháo yến mạch. Nó rất, rất ngon. Và Bunny nói, ừm, và rồi Mẹ và Bobby và Erich nói. Và mình đưa Erich ít salad, vì chú ấy bị bệnh. Và Jonathan cũng có một ít. Và rồi đến đêm, và Bunny phải đi ngủ. Và rồi sang ngày tiếp theo, và mèo con đi đến thị trấn. "Ôi, ôi, ôi," mèo con nói. Hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của nó.”

Khi nằm nghe nó nói, tôi bỗng thấy hoảng hốt. Tôi có thể cảm thấy mặt mình nóng bừng lên. Ban đầu tôi không hiểu nổi tại sao tôi lại bất an bởi những gì mà mình nghe thấy đến thế. Đó chỉ là chuỗi ý thức thông thường của Rebecca, kiểu bi bô mà tôi vẫn thường nghe nó nói từ hơn một tháng qua. Nhưng dần dần, trong khi nằm trên giường với nó, tôi đã hiểu ra. Nó đang hình thành nhận thức riêng của nó. Nó không còn chỉ mơ hồ biết đến bản thân mà đã bắt đầu hiểu được cuộc đời riêng của những người khác. Nó sẽ sớm từ bỏ thế giới tuổi thơ tách biệt của mình. Nó sẽ nhớ được mọi chuyện. Nó là một cái máy ảnh đang sẵn sàng chụp hình. Tách, một ngôi nhà màu nâu với cánh cửa màu xanh. Tách, những món đồ chơi ưa thích của nó. Tách, Jonathan đến đánh thức nó vào mỗi sáng. Nó sẽ mang những hình ảnh đó theo bên mình suốt quãng đời còn lại.

Nếu nó có được nhận thức đầy đủ khi Erich đã chết và Jonathan bắt đầu bị bệnh thì sao? Nó sẽ bị ảnh hưởng thế nào nếu những ký ức sớm nhất của nó chỉ xoay quanh sự héo mòn và cuối cùng là biến mất của những người mà nó yêu quý nhất?

Một buổi sáng sau đó vài tuần, tôi đang ở trên giường với Rebecca, Bobby và Jonathan. Đó là một buổi sáng bình thường. Rebecca đã thức dậy trong trạng thái vui vẻ, và đang tự kể cho mình một câu chuyện tỉ mỉ về Bunny và một con voi biết bay. Một lát nữa, Bobby sẽ lần xuống gác để pha cà phê. Erich vẫn đang ngủ ở phòng Jonathan còn Jonathan ngồi cạnh tôi với cái chăn kéo lên tận ngực.

Bobby nói: “Bao giờ đi làm về anh phải thay thế vài tấm ván lợp mới được. Em có thấy bao nhiêu cái đã bị thổi bay đi rồi không? Mái nhà đã sắp, ờ, tiêu tùng rồi.”

“Chúng ta nên lợp hẳn một cái mái mới,” tôi nói. “Hãy gọi thợ sửa mái ấy.”

“Khi nơi này ít nhiều được hoàn thiện,” Jonathan nói, “em muốn mời mẹ em đến đây lần nữa. Em nghĩ bà sẽ dễ dàng tin tưởng vào cuộc đời em hơn nếu bà trông thấy nó nhiều hơn nữa.”

“Bố mẹ, bố mẹ,” tôi nói. “Cậu biết đấy, tôi vẫn đang suy nghĩ. Tôi thực sự nên đưa con bé Rebecca đến Washington trong vài ngày, để gặp mẹ tôi.”

Bobby nhổm dậy để đi pha cà phê, nửa giây trước khi tôi biết anh sẽ làm thế. “Sao em không, em biết đấy, mời bà đến đây?” Anh nói.

“Vì bà đã sáu mươi lăm và không phóng khoáng chút nào. Tin em đi, anh sẽ không muốn bà Amelia đó đến đây để kêu ca về lối sống của chúng ta đâu. Đó là điều mà bà nghĩ chúng ta có ở đây đấy. Không phải một cuộc sống. Mà là một lối sống.”

“Chị không nghĩ là bà nên làm quen với chuyện này à?” Jonathan hỏi.

“Cưng ơi, mẹ tôi vẫn còn chưa quen với việc tôi có ngực kia. Hình ảnh khỏa thân của tôi vẫn còn khiến bà thấy không được thoải mái cơ mà. Tin tôi đi. Tốt hơn là tôi nên đưa Rebecca xuống đó vài ngày.”

“Ừm, em biết đấy, nếu em cần làm thế,” Bobby nói và đi làm công việc vặt buổi sáng của anh.

“Chỉ một vài ngày,” Jonathan nói. “Đúng không? Như là hai hay bà ngày à?”

Tôi gật đầu và vuốt tóc Rebecca. Tôi tự hỏi liệu nó có cảm thấy sự căng thẳng qua bàn tay tôi và bật khóc không. Nhưng nó vẫn bi bô, không bị ảnh hưởng gì cả. Những âm mưu âm thầm trong đầu chúng ta không tạo ra nhiều vết tích trên đời này.

Tôi chỉ biết một nửa về những gì tôi định làm. Cho đến khi tôi nhận ra rằng bản thân mình đang làm nó thì nó mới trở thành một kế hoạch, và rồi có vẻ như tôi đang theo một quy trình mà tôi biết rõ hàng tháng hay thậm chí hàng năm trời. Tôi gói ghém đồ của Rebecca: quần áo và vài món đồ chơi cần thiết, cái xe đẩy và cái ghế ăn cho trẻ con của nó. Khi Jonathan giúp tôi chất các thứ lên xe, cậu nói: “Cưng à, chị chỉ đi vài ngày thôi mà. Có phải đến tận thế kỉ sau đâu.”

“Tôi muốn chuẩn bị thật đầy đủ,” tôi nói. “Tôi cần phải tránh đi mua sắm với mẹ tôi bằng bất cứ giá nào. Nếu tôi hết tã lót, bà sẽ dẫn tôi đến cửa hàng Saks cho mà xem.”

“Em thấy tệ lắm,” Jonathan nói. Cậu đang mặc cái áo khoác vải bông chéo với khuôn mặt lịch thiệp trắng trẻo của Albert Einstein dính trên ve áo. Một vài bông tulip màu đỏ tía đã nhú lên trên bãi cỏ. Một con sáo Bắc Mỹ ghê gớm có tổ ở gần đó cứ nổi xung lên với chúng tôi từ những cành thấp nhất của cây sồi. Tôi nhấc cái xe đẩy lên, cho vào cốp xe, và Jonathan xếp cái túi tã lót quanh nó.

“Tội lỗi,” tôi nói. “Dù đôi khi cảm giác tội lỗi đó có giảm bớt đôi chút. Tốt hơn là nên tránh nó. Không nên tạo cơ hội để bà mua cho tôi một bộ váy năm trăm đôla khiến tôi trông như vợ của một nhà du hành vũ trụ. Tốt nhất là nên dự trữ sẵn đồ dùng cần thiết và ở nhà với bà.”

Tôi băn khoăn không hiểu mình có đang giải thích quá nhiều không. Tôi không muốn mình giống như một tên tội phạm với những bằng chứng hoàn hảo đến đáng ngờ. Những hành động của bà đã được phức tạp hóa lên.

“Chị nói sao cũng được,” cậu đáp. Giọng cậu không có vẻ gì là nghi ngờ.

Cậu đóng nắp cốp xe lại. “Em sẽ nhớ chị đấy,” cậu nói.

Lát nữa, Bobby sẽ bế Rebecca từ trong nhà ra. Tôi giơ tay túm lấy tay áo Jonathan.

“Nghe này,” tôi nói. “Tôi xin lỗi.”

“Gì cơ?”

“Ồ, cậu biết đấy. Tôi xin lỗi vì đã quá hèn nhát trước mẹ tôi. Lần sau tôi sẽ đưa bà đến đây. Cậu đúng đấy. Bà sẽ phải quen với chuyện này.”

“Ôi, các bậc cha mẹ hà khắc lắm. Tin em đi, em biết thế mà,” cậu nói.

“Tôi thực sự xin lỗi,” tôi nói. Tôi có thể nghe thấy giọng mình nghẹn ngào như sắp khóc.

“Cưng ơi, chị sao thế?”

Lúc đó, tôi chắc mẩm rằng cậu đã biết. Tôi lắc đầu. “Không sao,” tôi nói.

Cậu nhẹ nhàng ôm lấy tôi để trấn an. “Chị Clare ngốc nghếch,” cậu nói. “Bà già lẩm cẩm.” Thực ra thì, cậu vẫn không hề biết gì. Cậu vẫn chưa tỏ vẻ là bị mất đi một thứ gì đó. Cậu tin rằng cuộc đời cậu sẽ ngày càng trở nên tốt đẹp hơn. Có lẽ đó là sai lầm cơ bản trong nhận thức của cậu. Có lẽ đó chính là điều ngăn không cho cậu yêu ai.

“Ôi, thôi ngay cái từ "bà già lẩm cẩm" vớ vẩn đó đi, nghe không? Tôi là một người lớn. Tôi không phải bạn cùng chơi với cậu.”

“Ôi, xin lỗi.”

“Thực ra thì, Jonathan, tôi mong rằng cậu sẽ…”

“Gì cơ? Chị mong em sẽ làm sao?”

“Tôi không biết nữa. Cậu định làm một cậu bé đến bao giờ đây? Suốt đời à?”

“Thế chẳng lẽ chị muốn em biến thành một cô bé à?” Cậu nói.

“Ý tôi là… ôi, thôi đừng bận tâm. Hôm nay tôi điên quá. Tôi có thể cảm thấy thế ngay từ lúc tôi thức dậy.”

“Nghe này, chị sẽ gọi điện cho em khi chị đến nơi chứ? Để em biết rằng chị vẫn ổn?”

“Chắc chắn rồi. Dĩ nhiên là tôi sẽ gọi.”

Chúng tôi đứng một lúc, nhìn ngắm khung cảnh xung quanh như thể chúng tôi mới thấy nó lần đầu. Như thể chúng tôi vừa bước ra khỏi chiếc xe khách Winnebago để duỗi tay duỗi chân và sững sờ trước sự thênh thang rộng lớn của một công viên quốc ga.

“Chẳng phải mọi chuyện được coi là đơn giản hơn thế này sao?” Tôi hỏi.

“Bobby nói đây là một thế giới mới. Cậu ấy nói chúng ta có thể làm bất cứ điều gì mà chúng ta có thể nghĩ tới.”

“Đó là vì Bobby là một gã giỏi lừa phỉnh. Tôi đang có ý khen anh ấy đấy.”

Tôi nhận ra tôi vẫn đang bám vào tay áo khoác của Jonathan. Khi tôi buông ra, vết nắm tay của tôi vẫn còn in trên lớp vải bông chéo.

“Tôi sẽ vào đó xem thứ gì giữ chân anh ấy lâu thế,” tôi nói. “Nếu Rebecca và tôi không đi sớm thì bọn tôi sẽ bị kẹt xe ở New York mất.”

“Ừm.”

Jonathan đứng chờ bên cạnh xe, tay thọc sâu trong túi quần ka ki, ánh nắng lấp lánh trên mái tóc nhạt màu của cậu. Tôi ngoảnh về phía cậu khi lên đến hiên nhà. Cậu mỉm cười đầy thân mật và rồi tôi đi vào nhà.

Bobby đang bế Rebecca xuống gác. “Em đang định vào giục anh,” tôi nói. “Nếu bọn em không qua Manhattan lúc một giờ…”

Anh khẽ suỵt. “Erich đang ngủ,” anh nói. “Anh ấy đã có một buổi sáng khó chịu.”

Tôi đón lấy Rebecca từ tay anh. Nó cũng đang có một buổi sáng khó chịu. “Con không muốn,” nó nói.

“Em đã sắp xếp hết mọi thứ chưa?” Bobby khe khẽ nói.

“Ừm. Em đã xếp hết đồ lên ô tô rồi. Chào tạm biệt Erich hộ em nhé?”

“Ừ.”

“Con không muốn,” Rebecca nói.

Bobby đứng ở chân cầu thang, bụng anh hơi căng tròn dưới lớp vải áo phông. Lúc đó, trông anh quá ngây thơ và có thiện ý. Tôi chỉ muốn đánh anh vì tội là một kẻ khờ khạo như thế, một nhân vật lạc quan, thật thà. Tôi có thể thấy hình ảnh của anh khi về già, lò dò từng bước với đôi dép lê đi trong nhà, tuyên bố rằng nhà an dưỡng này rất tuyệt vời và hoàn hảo. Anh sẽ nói: “Họ có bánh pudding sô-cô-la vào các ngày thứ Sáu. Tên của cô hộ lý là Harriet, cô ấy thường mang cho tôi xem những bức ảnh của con cô ấy.”

“Này,” tôi nói. “Em chợt nảy ra một ý điên rồ. Anh có muốn đi cùng em không?”

“Hả?”

“Ngay bây giờ. Chỉ cần ném vài thứ vào trong một cái túi và đi theo em.”

“Anh nghĩ là, em biết đấy, mẹ em không ưng anh mà. Về chuyện của chúng ta ấy.”

“Kệ bà ấy. Anh có muốn đi không?”

“Bọn anh phải chăm sóc Erich,” anh nói.

“Jonathan có thể chăm sóc Erich. Đến lúc cậu ấy phải bắt đầu có nhiều trách nhiệm hơn rồi, anh không nghĩ thế sao? Hai người họ sẽ cùng nhau xoay xở ổn cả thôi. Họ có thể sống tự lập được mà.”

“Clare, có chuyện gì thế? Em sao vậy?”

Tôi ôm lấy con bé. Tôi nói: “Không sao. Đừng bận tâm. Em chỉ là một mụ già lẩm cẩm thôi.”

Tôi bế Rebecca ra khỏi cửa, và Bobby đi theo tôi đến chỗ đậu xe. Khi tôi thắt dây an toàn cho Rebecca, nó bắt đầu làm ầm lên và thút thít khóc. Rồi sự chuyển động của xe sẽ ru nó ngủ, nhưng trong một lúc nó vẫn không ngừng rên rỉ. Tôi phải cố kìm lòng trước tiếng khóc của nó.

“Tạm biệt, các chàng trai,” tôi nói.

“Không,” Rebecca nói từ chỗ ngồi của nó. “Không, không, không, không, không.”

Cả hai người họ đều hôn tôi, dặn tôi lái xe cẩn thận. Họ hôn Rebecca. Những âu yếm của họ càng thêm khuyến khích nó. Nó há miệng, gần như bật ra một tiếng la hét mà nó đã dồn nén từ bữa sáng.

“Tạm biệt, tiểu thư Rebecca,” Jonathan nói qua cửa sổ xe. “Ôi, bố yêu con ngay cả khi thỉnh thoảng con vẫn ghê gớm như thế. Hãy vui vẻ với người bà đáng sợ của con nhé.”

“Hãy bảo trọng,” tôi nói. Tôi cho xe lùi ra khỏi lối đi. Tôi vẫy tay, và họ vẫy lại. Họ đứng sát cạnh nhau, trước ngôi nhà xiêu vẹo. Khi tôi lùi xe, Jonathan đột nhiên chạy theo. Trong một thoáng, tôi cứ ngỡ rằng cậu có điều gì muốn nói với tôi, nhưng rồi tôi nhận ra rằng cậu sẽ chỉ chạy theo vài bước mà thôi, ngốc nghếch và trung thành như một chú cún. Tôi lá xe đi. Cậu đuổi kịp và nhanh chóng chạy song song với chiếc xe, hôn gió về phía chúng tôi. Tôi lại vẫy tay lần nữa, lần cuối cùng. Trước khi đến chỗ rẽ, tôi nhìn vào gương chiếu hậu và thấy cả hai người bọn họ. Jonathan và Bobby, đang đứng giữa đường. Họ trông như một cặp đôi lập dị, ăn mặc luộm thuộm ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Với đôi kính râm, áo phông và mái tóc bù xù, trông họ như đang quay trở lại một thời xưa cũ: những năm 1960 như sắp vỡ òa ra quanh họ, một cơn bão của tình yêu, những cơn thịnh nộ và những mong đợi bị cản trở. Bobby khoác vai Jonathan. Họ đều vẫy tay.