Trâm 2: Kẻ Yểu Mệnh

Chương 16: Gió lay áo lụa




Hình như… mình không làm sai gì cả!

Hoàng Tử Hà thấy quá oan ức. Tốt xấu gì cô cũng bớt cho Quỳ vương phủ một bữa cơm, chẳng hiểu sao vị vương gia kia lại sưng sỉa với cô.

“Sùng Cổ đang nghĩ gì thế?”

Chu Tử Tần cướp lấy một miếng chân giò gắp cho cô, hớn hở phân tích: “Công công xem miếng thịt này, có nạc có mỡ, chính là chỗ hai tấc phía trên móng, tập trung tinh hoa của cả cái móng đấy! Cũng chỉ nhân tài như ta mới giành được miếng thịt ngon nhất trong các miếng chân giò, giữa bấy nhiêu người như thế thôi!”

“Đang hè thế này…” Mà lại ăn chân giò, Chu Tử Tần còn tranh cướp gắp cho cô.

Hoàng Tử Hà đưa mắt nhìn chiếc bàn dài trước mặt, tay nghề của đầu bếp Tả Kim Ngô Vệ thực không tệ, đủ cả gà vịt thịt cá, để chào mừng Trương Hàng Anh gia nhập, hôm nay còn có thêm heo sữa quay.

“Nhưng nói đi cũng phải nói lại, Trương nhị ca cưỡi ngựa giỏi thật, hôm đầu tiên đã điều khiển ngựa thành thạo như thế, làm quen với con ngựa đó thêm vài bữa nữa, bảo đảm sẽ đứng đầu Tả Kim Ngô Vệ!” Chu Tử Tần thì thào bình phẩm cuộc huấn luyện vừa được xem.

Hoàng Tử Hà gật đầu, mới ăn được mấy miếng thì cả đám người Tả Kim Ngô Vệ đã xếp hàng lũ lượt đến kính rượu.

“Dương công công, trận kích cúc hôm đó, huynh đệ chúng tôi đúng là được mở rộng tầm mắt!”

“Đúng thế, quả là kỹ thuật tuyệt vời! Bội phục bội phục!”

“Nào nào, Dương công công, tôi kính công công một chén!”

“Lưu tứ ca, đừng tranh với tôi chứ! Tôi đến trước mà! Dương công công, mời!”

Nhìn cả đám nam nhân rồng rắn đợi kính rượu mình, Hoàng Tử Hà đang luống cuống thì Vương Uẩn bước đến quở: “Trên sân kích cúc không địch nổi Dương công công nên định gỡ lại trên bàn rượu đấy hả? Dương công công bận bịu cả ngày, đến chiều còn phải đi tra án, nếu các người chuốc công công say, để xem Đại Lý Tự có tìm tới tính sổ hay không!”

Mọi người nghe nói lại càng kính trọng hơn: “Ô, Dương công công còn biết tra án ư?”

Chu Tử Tần vỗ vai Hoàng Tử Hà khoe khoang, nom còn tự hào hơn là mình phá được án: “Vụ án Bốn phương chấn động kinh thành đầu năm nay, rồi cả vụ hai tỳ nữ nhà họ Vương Lang Gia mưu hại Quỳ vương phi tháng trước, đều do vị Dương công công này phá đấy.”

“Ôi chao! Thất kính thất kính rồi!” Cả đám nam nhân chất phác sững ra vì kinh ngạc, ánh mắt nhìn cô càng thêm sùng kính, “Chẳng hay lần này là vụ trọng án nào mà cần công công đích thân ra tay vậy?”

“Nào nào, vì sự tích anh hùng của công công, chúng ta uống thêm chén nữa.”

“Cút hết cho ta!” Vương Uẩn cười mắng, xua hết đám Tả Kim Ngô Vệ đi, rồi áy náy nhìn sang Hoàng Tử Hà: “Xin lỗi, người của Tả Kim Ngô Vệ thô lỗ, ta cũng hết cách.”

“Đâu có, ở đây rất vui.” Cô nhớ tới thời còn ở Thục, đám bộ khoái cộng sự cũng đơn thuần chất phác, mỗi lần ăn cơm đều cười nói ầm ĩ thế này.

Cô quay sang nhìn về phía Trương Hàng Anh, vốn dĩ là nhân vật chính hôm nay. Gã đang cười, nhưng gương mặt không giấu được vẻ thẫn thờ, ánh mắt nhìn mông lung.

Hoàng Tử Hà bèn đi đến ngồi cạnh gã: “Thế nào, đồ ăn A Địch nấu vẫn thích hơn phải không?”

Gã vội lắc đầu: “Đâu có, cơm ở đây ngon lắm…” Rồi như để chứng minh, gã cầm ngay lấy một cái đùi gà ăn ngấu nghiến.

Hoàng Tử Hà cũng vờ như không biết, bưng bát lên vừa ăn miếng thịt chân giò béo ngậy, vừa da diết nhớ thức ăn ở phủ Quỳ vương.

Đồ ăn phủ Quỳ thanh đạm, rất hợp mùa hạ.

Đài Chẩm Lưu cũng rất hợp để hóng mát ngày nóng nực. Cửa sổ bốn bề mở toang, ba mặt là hồ sen bát ngát, chỉ có một mặt nối liền với cây cầu, thông thẳng tới con đường quanh co trồng đầy dương liễu.

Nước xanh biêng biếc, hương sen ngào ngạt, khiến cả căn phòng mát rượi.

Lý Thư Bạch ngồi một mình trước bàn, nhìn vị trí đối diện bỏ không, rõ ràng muốn phớt lờ, song càng nhìn càng thấy chướng mắt.

Y lặng lẽ ra hiệu cho người bên cạnh dọn hết đi, rồi đứng dậy bước lên cầu. Đóa sen đang nở rộ cũng không chống được cái nắng hè, rũ xuống trước mặt y, hương thơm man mác khiến y bất giác chăm chú ngắm nhìn nó hồi lâu không rời mắt.

Cảnh Dục phía sau nghe thấy y lẩm bẩm: “Lần thứ hai”, còn đương ngẫm nghĩ xem y có ý gì, thì trên bờ đã có người hớt hải chạy đến bẩm báo: “Phủ Đồng Xương công chúa sai người đến mời Dương Sùng Cổ Dương công công.”

Nghe thấy ba chữ Dương Sùng Cổ, Lý Thư Bạch mới ngoảnh lại hỏi: “Có việc gì?”

“Bẩm gia, nghe nói phủ công chúa xảy ra chuyện lớn, Đồng Xương công chúa bị hoảng loạn, thái y đang chữa trị, song công chúa lại sai người tới mời Dương Sùng Cổ công công qua trước.”

Lý Thư Bạch chau mày, men theo cây cầu xăm xăm đi ra, miệng bảo Cảnh Dục: “Chuẩn bị xe.”

“Dương công công, xe ngựa của vương phủ đang đợi ngoài cửa.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngẩng lên nhìn người gác cổng Tả Kim Ngô Vệ vừa chạy vào thông báo: “Xe ngựa ư?”

“Vâng. Nói rằng phải đưa công công tới phủ công chúa ngay.”

Ăn bữa cơm cũng không yên, lương bổng hằng tháng thì trừ gần hết. Thế này có thể gọi là chủ nhân tốt được hay không?

Hoàng Tử Hà gượng cười, uống một chén từ biệt mọi người ở Tả Kim Ngô Vệ rồi hối hả chạy ra cửa nha môn, quả nhiên xe ngựa phủ Quỳ đã lù lù ở đó.

Cô vội gõ nhẹ vào cửa xe, xin lỗi rối rít: “Để vương gia đợi lâu, nô tài thực đáng chết.”

Bên trong im phăng phắc, xem ra Quỳ vương không định màng tới cô.

Hoàng Tử Hà thở phào, đang định vòng ra trước ngồi trên càng xe cùng bác A Viễn, nào ngờ vừa cử động, bên trong đã vang lên giọng lạnh băng của Lý Thư Bạch: “Ngươi thực đáng chết.”

Hoàng Tử Hà nhăn nhó cười, cả người cứng lại không dám nhúc nhích.

“Thân là hoạn quan của vương phủ, được thánh thượng đích thân giao phó vụ án phủ công chúa, giờ sóng trước chưa yên sóng sau đã tới, vừa chết người, mà ngươi lại hớn hở tới đây bù khú tiệc rượu. Ngươi thấy mình không đáng chết ư?”

Hoàng Tử Hà sởn cả tóc gáy, răm rắp vâng dạ không dám phản bác gì.

Y nhìn cô qua song cửa. Mặt trời quá ngọ chói chang, rọi lên gương mặt ửng hồng của cô, chẳng khác nào hoa đào nở rộ, diễm lệ kinh người.

Trước nhan sắc rúng động ấy, Lý Thư Bạch chợt thấy một ngọn lửa lạ lùng bùng lên trong lòng.

Bên cạnh y, cô luôn bình thản an nhiên, tựa hồ trong lòng chỉ có hận thù và vụ án, thậm chí hơi thở cũng không hề rối loạn, từng cái cất tay nhấc chân đều đúng khuôn đúng phép. Song, khi không ở cạnh y, cô lại linh hoạt vui vẻ, lén y theo đám đàn ông đánh mã cầu, còn chén chú chén anh với chúng… Chẳng cần chứng kiến, y cũng thừa sức tưởng tượng ra cảnh tượng cô tươi cười hớn hở, xưng huynh gọi đệ cùng đám người đó…

Hoàn toàn quên bẵng bản thân là nữ, vứt bỏ hết những bình thản an nhiên lúc ở cạnh y.

Ngay cả khoảnh khắc xinh đẹp nhất, cô cũng vĩnh viễn không bộc lộ trước mặt y.

Ngọn lửa lạ lùng trong nháy mắt đã thiêu cháy lồng ngực Lý Thư Bạch, lúc này đây, quên khuấy bản thân là Quỳ vương lạnh lùng lãnh đạm, y đứng phắt dậy, đá tung cửa xe, nhìn xuống cô, quát bằng giọng trầm trầm hơi khàn: “Lên đi.”

Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn y, bắt gặp gương mặt ngược sáng sa sầm, đôi mắt sắc lẹm như chim ưng, cô bỗng dưng phát hoảng, hơi thở cũng chậm hẳn lại, không dám đáp lời.

“Mọi người trong kinh đều biết Quỳ vương gia xưa nay lãnh đạm, mừng giận không lộ ra mặt, sao hôm nay lại nổi giận vì một tiểu hoạn quan?”

Sau lưng vang lên tiếng cười, tựa hồ không nhận ra không khí căng thẳng giữa hai người, Vương Uẩn tươi cười phe phẩy cây quạt Hoàng Tử Hà trả lần trước, bước tới khom lưng hành lễ: “Hôm nay là ngày đầu tiên bạn của Dương công công gia nhập Tả Kim Ngô Vệ của ty chức. Dương công công trọng tình trọng nghĩa, hơn nữa ở Tả Kim Ngô Vệ cũng có rất nhiều huynh đệ bái phục công công, nên ty chức bạo gan mời công công đến, vương gia không trách tội bọn ty chức đã ép công công uống thêm mấy chén chứ?”

Thấy Vương Uẩn đã đứng ra, Lý Thư Bạch cũng không tiện làm mất mặt y, chỉ nói: “Chuyện riêng của hắn ta không quản, nhưng hôm nay vụ án hắn phụ trách xảy ra vấn đề, phải lập tức đi giải quyết kẻo lỡ việc.”

Vương Uẩn cười bảo Hoàng Tử Hà: “Mau đi đi, khi nào phá xong án, các huynh đệ Tả Kim Ngô Vệ sẽ lại mời công công chén rượu mừng công.”

Lý Thư Bạch liếc Vương Uẩn một cái sắc lẹm rồi ra hiệu cho Hoàng Tử Hà đi lên trước ngồi cùng A Viễn.

Bấy giờ cô mới dám thở phào, đưa mắt ra ý chào Vương Uẩn rồi chạy lên trước, nhảy lên càng xe.

Vương Uẩn mỉm cười nhìn theo bóng cô. Chu Tử Tần từ phía sau hớt hải chạy ra hỏi: “Sùng Cổ đến phủ công chúa rồi à? Có phải xảy ra chuyện gì không? Sao không đem tôi theo?”

“Huynh theo làm gì? Ngày nào cũng lẽo đẽo đi theo Sùng Cổ còn chưa chán hay sao.” Y buông một câu rồi quay người đi vào.

Chu Tử Tần cứng họng: “Đi theo Sùng Cổ có gì không tốt? Theo Sùng Cổ ắt là có án mạng, có thi thể, tài nguyên dồi dào như thế, không theo Sùng Cổ thì theo ai?”

Vương Uẩn ngán ngẩm nhìn trời: “Đi đi.”

Giờ Mùi một khắc.

Người phủ Đồng Xương công chúa răm rắp đứng bên ngoài đợi lệnh, nhưng không một ai dám tiến vào, cả đám người đông như kiến mà không phát ra một tiếng động.

Lý Thư Bạch dẫn theo Hoàng Tử Hà bước lên đài. Trông thấy y đến, ai nấy thở phào nhẹ nhõm, nhất loạt hành lễ bái kiến y.

Thấy Thùy Châu đứng đầu đám người, vẻ mặt hoảng loạn, cặp mắt cứ đảo qua đảo lại, Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Công chúa thế nào rồi?”

Thùy Châu vội cúi đầu đáp: “Cây trâm Cửu loan của công chúa… không thấy đâu nữa.”

Không thấy đâu nữa. Giấc mộng của Đồng Xương công chúa cuối cùng thành sự thực, cây trâm nàng trân quý nhất đã biến mất.

Hoàng Tử Hà nhíu mày, thấy Lý Thư Bạch đã bước vào gác, vội gật đầu với Thùy Châu rồi chạy theo.

Rèm trúc tương phi bện chỉ vàng buông rủ, bên trong gác hơi tối. Giữa căn phòng tranh tối tranh sáng, họ trông thấy Đồng Xương công chúa ngả người trên sập, Quách thục phi ngồi cạnh phe phẩy quạt cho nàng.

Đồng Xương công chúa vận một chiếc áo lụa trắng, mái tóc huyền buông xõa như một tấm lụa đen trải dài trên sập, trắng thật trắng, đen rất đen, bệnh tình khiến gương mặt công chúa càng toát lên vẻ mong manh quật cường, nhìn còn động lòng hơn lần trước.

Song nhìn kẻ ngồi trước mặt nàng, Hoàng Tử Hà bỗng thấy lồng ngực mình thắt lại, sực hiểu ra vì sao công chúa lại kiều mỵ đến thế.

Vũ Tuyên.

Ánh sáng bên trong chỉ lờ mờ, song không che giấu được vẻ thanh khiết của hắn. Vũ Tuyên ngồi ngay ngắn trước mặt Đồng Xương công chúa, dáng thẳng tắp mà ung dung. Phong thái hoàn mỹ, dung mạo thanh tú, toát lên một thứ hào quang nhàn nhạt lành lạnh, chẳng khác ánh trăng hạ huyền.

Hắn đang giảng Lễ ký cho Đồng Xương công chúa nghe: “Xưa kia Thuấn chế ngũ huyền cầm để ca bài Nam phong, bấy giờ đàn có năm âm Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ, năm dây lần lượt tượng trưng cho vua, quan, dân, sự, vật, về sau Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương mỗi người thêm vào một dây, thành thất huyền cầm…”

Giọng hắn thanh thanh mà ôn hòa, như ngọc vỡ gõ vào băng mỏng, giữa ngày hè nóng nực thế này, tựa hồ có thể xua tan cái nóng. Không chỉ Đồng Xương công chúa, mà cả Quách thục phi cũng buông quạt xuống, chăm chú lắng nghe.

Lý Thư Bạch đứng trước cửa quan sát Vũ Tuyên. Hồi lâu, y lại quay sang nhìn Hoàng Tử Hà. Thấy cô điềm nhiên đứng cúi đầu, không tỏ vẻ gì, y mới yên lòng, bèn đằng hắng một tiếng.

Đồng Xương công chúa thấy y liền ngồi thẳng dậy, cúi đầu hành lễ: “Tứ hoàng thúc.”

Vũ Tuyên đứng dậy tránh sang một bên, không nói không rằng.

“Công chúa không được khỏe, cần gì đa lễ.” Lý Thư Bạch bảo Đồng Xương. Quách thục phi cũng đỡ vai con gái, nói: “Phiền Quỳ vương đích thân tới thăm thế này, Đồng Xương thật là may mắn.”

Song Đồng Xương công chúa chỉ nhìn Hoàng Tử Hà: “Dương công công, cây trâm Cửu loan của ta mất rồi! Ngươi… ngươi bảo phải làm sao đây?”

Rõ ràng nàng còn chưa nguôi kinh sợ, cứ ôm ngực thở dốc, ánh mắt đầy vẻ hoảng loạn.

Hoàng Tử Hà vội hỏi: “Chẳng hay trâm Cửu loan làm sao mà mất? Công chúa điện hạ có thể kể lại thật kỹ cho nô tài nghe chăng?”

Quách thục phi dù sao cũng là phi tần, không tiện ở cùng phòng với vương gia, đành thở dài ra hiệu cho Vũ Tuyên lui xuống. Vũ Tuyên im lặng gập sách lại, theo Quách thục phi ra ngoài.

Lý Thư Bạch ngồi xuống bên cạnh, tiện tay lật cuốn Chu Lễ đặt trên tủ đầu giường ra xem, thờ ơ nghe Đồng Xương công chúa thuật chuyện.

Cạnh cuốn Chu Lễ còn đặt một con chó nhỏ bằng sứ cao hai tấc. Vật dụng trong phủ công chúa hết thảy đều đẹp đẽ trau chuốt, song con chó này lại khác hẳn những món vàng bạc châu báu kia, ước chừng chỉ bằng nửa bàn tay, trông rất đáng yêu, rõ ràng là đồ mua ngoài phố, nhưng nhìn rất tinh xảo.

Lý Thư Bạch vừa ngắm nghía con chó, vừa lắng nghe Đồng Xương công chúa kể: “Mấy hôm trước ta mơ thấy giấc mơ đó, hôm qua công công lại nói sẽ lưu ý tới vụ này, nên sau khi công công ra về, ta đã giao trâm Cửu loan cho đám thị nữ, dặn chúng giữ gìn cẩn thận…”

Mới nói được mấy câu, tim Đồng Xương công chúa đã đập dồn, thở không ra hơi, nàng ngả người trên sập thở dốc, ôm ngực không thốt nổi nên lời.

Hoàng Tử Hà vội vỗ lưng cho nàng, rồi quay ra gọi to: “Người đâu!”

Có tiếng chân dồn dập, rồi Thùy Châu và Lạc Bội cùng mấy ả thị tỳ hầu hạ bên Đồng Xương hớt hải chạy vào, dìu đỡ để công chúa xuôi khí. Thùy Châu móc chiếc lọ nhỏ trong áo, đổ một viên thuốc ra cho công chúa uống, rồi luôn tay vuốt lưng cho nàng, đợi Đồng Xương xuôi xuôi mới dám thở phào nhẹ nhõm.

Trán Thùy Châu lấm tấm mồ hôi, song ả chẳng buồn lau mà đứng ngay dậy chạy đi rót trà bưng đến. Thấy Hoàng Tử Hà quan sát Thùy Châu, Đồng Xương công chúa yếu ớt trỏ ả nói khẽ: “Công công xem, Ngụy Hỷ Mẫn chết rồi, bấy nhiêu người quanh ta, chỉ được mình ả chu đáo nhất… Tiếc rằng sắp gả đi rồi, về sau ai mà được như thế nữa.”

Thùy Châu nghe vậy vội quỳ xuống thưa: “Chỉ cần công chúa nói một câu, Thùy Châu nguyện hầu hạ công chúa đến già, không bao giờ lìa xa.”

“Thôi đi, đến ta còn chẳng biết mình sống được tới ngày nào nữa là.” Nói đoạn, nàng quay lại nhìn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà, cười buồn bã: “Tứ thúc, đành để Lạc Bội dẫn hai người đi xem xét vậy, con mệt quá.”

“Công chúa cứ nghỉ ngơi đi, bệnh này đã mắc từ bé, kỵ nhất là nghĩ ngợi nhiều đấy.” Lý Thư Bạch đáp.

Thùy Châu quỳ trước giường công chúa, rút chìa khóa từ hộc tủ đầu giường giao cho Lạc Bội, rồi lê bằng đầu gối đến gần, lấy khăn lau mồ hôi cho công chúa.

Hoàng Tử Hà theo Lạc Bội bước ra rồi hỏi: “Trâm Cửu loan mất ở đâu?”

“Thưa, ở ngay trong kho.” Lạc Bội đáp, đoạn dẫn họ sang một gian nhà ngang ngay cạnh đấy, cửa khóa chặt. Trước cửa có hai hoạn quan đứng canh, thấy Lạc Bội đi đến bèn mở cửa để họ vào.

Đang mùa hè mà cửa sổ trong phòng đóng chặt, chẳng có ngọn gió nào, khiến gian phòng nóng hầm hập. Bên trong bày từng dãy giá đặt đủ thứ hòm xiểng rương tráp, hẳn là kho chứa đồ của công chúa.

Lạc Bội đi đến trước cái giá kê trong góc, ngồi xuống kéo một chiếc rương ở ngăn dưới cùng ra, rồi dùng chiếc chìa vừa được giao mở khóa.

Bên trong chỉ có một cái tráp vuông, mỗi bề chừng một thước, Lạc Bội bưng nó lên, mở ra.

Đáy tráp lót nhung tím, nhưng trên đó không có gì cả.

“Mấy hôm trước công chúa mơ dữ, nên càng chú trọng giữ trâm Cửu loan. Sau khi cho Dương công công xem, công chúa đích thân cất vào tráp này, rồi lại chứng kiến chúng nô tỳ đặt tráp vào rương, khóa lại, bỏ chìa khóa vào hộc tủ đầu giường, sau đó sai chúng nô tỳ khiêng rương vào kho.” Nhắc đến chuyện này, Lạc Bội vẫn vừa sợ hãi vừa lo lắng: “Rõ ràng đã cẩn thận hết mực, chiếc rương này cũng do bốn người, nô tỳ, Thùy Châu, Trụy Ngọc, Khuynh Bích cùng khiêng, cảm thấy góc dưới cùng này là ổn nhất, bèn đặt nó vào đó. Cất đặt xong xuôi, bọn nô tỳ cùng lui ra, kết quả sáng nay công chúa thấy thấp thỏm không yên, bèn lấy chìa khóa ra giao cho chúng nô tỳ, sai đem cây trâm Cửu loan đến. Nô tỳ cùng bọn Thùy Châu Trụy Ngọc đến đây, Thùy Châu mở rương lấy tráp ra xem, tức thì la lên kinh hãi, thì ra bên trong đã trống không!”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nghe kể đều trầm ngâm suy nghĩ.

“Các thị vệ tức thì ùa đến, bọn nô tỳ cùng mọi người ở gác Thê Vân đều bị soát người, sau đó họ còn lục soát trong nhà ngang, trong gác và chỗ ở của tất cả người trong phủ, nhưng chẳng thấy cây trâm đâu, cứ như… đã bị Phan thục phi… lấy đi vậy…” Lạc Bội sợ hãi ra mặt, “Chuyện này chẳng phải quá kỳ quái ư? Trâm Cửu loan nào có bé nhỏ gì, một cây trâm to như thế, lại cách một lớp tráp, một lớp rương, ai có thể âm thầm lấy đi được chứ?”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nhìn nhau, đều đọc được suy nghĩ tương tự trong mắt người kia – chuyện lần này rất giống lá bùa quỷ dị đó.

Chính là lá bùa từ Từ Châu, cũng được cất trong hai lần khóa kỹ.

Lẽ nào trên đời thực sự có cách lấy được đồ vật từ xa, qua mấy lớp rương hòm ư?

Lạc Bội không để ý ánh mắt hai người, sợ hãi kể tiếp: “Công chúa vừa được tin thì ngã bệnh. Vương gia cũng biết đấy, công chúa từ nhỏ đã không chịu được kinh hãi, không được quá mừng quá giận, bằng không sẽ lên cơn đau tim. Lần trước Ngụy Hỷ Mẫn chết, công chúa đã khó ở, lại thêm phò mã bị thương, công chúa được một phen hoảng sợ, tối qua còn… còn nghe được…”

Nói đến đây, Lạc Bội mới sực nhớ không nên để lộ chuyện này ra ngoài.

Thấy ả bắt đầu ấp úng, Hoàng Tử Hà liền hỏi thẳng: “Tối qua ư? Ý ngươi là chuyện Tôn ghẻ chết hả? Việc đó chúng ta biết cả rồi, ngươi khỏi cần giấu giếm.”

“Vâng… Chính là tin báo Tôn ghẻ đã chết… Hơn nữa, người ngoài phố đều nói, hắn ta bị oan hồn Tích Thúy hại chết.” Lạc Bội nơm nớp kể, “Nô tỳ cũng không biết tại sao, hôm ấy công chúa vừa trông thấy Tích Thúy thì sinh bệnh… Cô ta, ai bảo cô ta không tránh mặt ngay, để công chúa nổi giận, nói cô ta xúi quẩy rồi sai chúng nô tỳ đánh cho một trận đuổi đi, không cho bước chân vào phủ nữa…”

Hoàng Tử Hà hỏi: “Cô ta đụng phải công chúa đúng không?”

“Đâu có, bấy giờ chúng nô tỳ đều ở đó, cô ta tham kiến công chúa, song công chúa vừa thấy cô ta thì đột ngột lên cơn đau tim, phải dựa vào người Thùy Châu.” Lạc Bội hồi tưởng lại tình hình khi ấy, cũng không giấu được vẻ cảm thương, “Công chúa chỉ sai người đánh đuổi cô ta đi, nào ngờ Ngụy Hỷ Mẫn lại làm ra chuyện như thế…”

Hoàng Tử Hà nhíu mày. Vi phò mã lại kể rằng, vì Tích Thúy giẫm phải gấu váy công chúa, nên công chúa nổi giận…

Rốt cuộc lời của ai đáng tin hơn?

Lạc Bội vẫn thao thao kể: “Thực ra chuyện của cô ta chẳng liên quan gì tới công chúa… Nhưng dù sao hai người có liên quan đến cô ả đều chết không rõ nguyên nhân, còn bị đồn đại là trời phạt, có người nói là oan hồn cô ta đòi mạng… Nô tỳ nghĩ, có lẽ công chúa cũng lo lắng không yên, lại thêm cây trâm Cửu loan biến mất, khiến công chúa hoảng loạn, tái phát bệnh cũ. Mà lần này bệnh đến như núi đổ, thục phi đã dẫn tới mấy vị thái y trong cung song vẫn chẳng thấy khá lên, giờ bọn người dưới trong phủ đang vô cùng lo sợ…”

Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Đã điều tra những kẻ ra vào nhà kho hôm qua chưa?”

“Hôm qua sau khi đưa trâm Cửu loan vào đó thì không ai ra vào nữa.”

“Thế đã tra xét hai hoạn quan canh cửa chưa?”

“Thưa rồi, họ bị khám người và soát phòng trước nhất, nhưng chẳng thu gì hết. Tuy nói chúng có thể thông đồng với nhau để ăn trộm, nhưng gần đây công chúa lo lắng đến mất ngủ, đã phái thêm người trông giữ, hai tên hoạn quan canh nhà ngang đó lúc nào cũng ở trong tầm mắt của các thị vệ, hoạn quan và thị nữ, quả không có cơ hội lẻn vào.”

Hoàng Tử Hà thoáng trầm tư, rồi ngồi xuống quan sát chiếc rương.

Đó là một chiếc rương bằng gỗ nhãn thông thường, ngoài quét sơn đỏ, trên vẽ hoa văn cát tường bằng sơn đen. Bên trong là gỗ nguyên khối, cô gõ khắp các ngóc ngách nhưng chẳng thấy có gì khác lạ.

Sau đó cô lại cầm đến cái tráp, mở ra xem xét một lượt. Tráp làm bằng gỗ đàn hương, điêu khắc tinh xảo, chạm hoa cỏ bốn mùa, thoạt nhìn đã biết vật cất bên trong không phải tầm thường. Xem kỹ khắp trong ngoài, cô cũng chẳng thấy có gì lạ.

“Chìa khóa thì sao? Công chúa luôn đem theo bên mình ư?”

“Thưa vâng, lúc nào cũng đặt trong hộc tủ đầu giường công chúa. Công chúa mấy hôm nay ngủ không yên giấc nên chúng nô tỳ phải chầu chực bên ngoài điện hầu hạ, từ nửa đêm đến gần sáng luôn có mấy người trông nom. Nếu có người ra vào phòng công chúa, nhất định phải ngang qua chỗ bọn nô tỳ.”

“Ngoài cửa sổ thì sao?” Hoàng Tử Hà lại hỏi.

“Công công xem, gác Thê Vân ở trên đài cao, cửa sổ phòng công chúa và nhà kho đều cao đến mấy trượng, ai có thể bò lên đài cao, trèo qua cửa sổ vào ăn cắp chứ?”

Hoàng Tử Hà nghe nói liền đi đến bên cửa sổ, mở cửa nhìn ra.

Đứng trên đài cao chọc trời, cả phủ công chúa đều thu vào tầm mắt, thậm chí còn có thể trông thấy nửa phường Vĩnh Gia đằng xa. Bên dưới là biển hoa hợp hoan màu hồng phấn, chỗ đậm chỗ nhạt, tầng tầng lớp lớp trải dài dập dờn như sóng, còn gác Thê Vân chẳng khác nào ngọn núi tiên nổi lên giữa những đợt sóng hồng, cao vút chạm mây, nguy nga lộng lẫy.

Lối vào duy nhất là những bậc thềm quanh co bên ngoài, đi lên thân đài cao theo hình chữ chi.

Lý Thư Bạch hỏi: “Đồng Xương yếu ớt từ bé, sao lại ở trên đài cao thế này? Đi lên chẳng phải mệt lắm ư?”

“Bẩm gia, công chúa sợ nóng, lại sợ cả lạnh, ở đây mùa hè gió to, mùa đông thì lúc nào cũng có ánh nắng, hơn nữa lại cách xa mặt đất, đỡ bị ẩm ướt, thái y cho rằng có lợi cho thể trạng công chúa. Nếu công chúa mệt thì có thể ngồi kiệu lên mà.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, ra ý bảo Lạc Bội cất đặt mọi thứ lại như cũ rồi cả ba bước ra ngoài.

Lý Thư Bạch đứng trên khoảnh sân trống trước gác Thê Văn nhìn xuống dưới, còn Hoàng Tử Hà vào thăm Đồng Xương công chúa. Nào ngờ đi vào chỉ thấy nàng đã ngủ trên giường.

Màn lụa dày buông rủ, treo cả nút thắt như ý tết bằng chỉ vàng tơ bạc, bốn miếng chặn chiếu* bằng ngọc hòa điền chạm hình Phi Thiên nhạc kỹ(**) đặt ở bốn góc chiếu ngà.

* Thời cổ dùng miếng chặn chiếu để chèn mép chiếu khỏi quăn, đồng thời cũng có tác dụng trừ tà.

(**) Phi Thiên nhạc kỹ là hợp thể của nhạc thần Càn Thát Bà và ca thần Khẩn Na La, hai trong tám loài “phi nhân” (không phải người) trong Phật giáo, được gọi chung là Thiên Long bát bộ. Tám loài phi nhân đó là: Thiên thần, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già. Tám loài này do Thiên thần và Rồng đứng đầu nên gọi là “Thiên Long bát bộ”.

Giữa cung vàng điện ngọc cẩm tú phồn hoa ấy, lại là một nữ tử đang cuộn tròn người thiêm thiếp, sắc mặt tái nhợt, hơi thở yếu ớt.

Thùy Châu đứng dậy hành lễ với Hoàng Tử Hà, dẫn cô ra gian ngoài rồi nói nhỏ: “Đêm qua công chúa mất ngủ nên hôm nay rất mệt. Trước lúc ngủ công chúa còn căn dặn, công công cứ thoải mái tra xét trong phủ, nhất định phải tìm cho được cây trâm…”

Nói đến đây, Thùy Châu cụp mắt xuống, rơm rớm: “Công chúa cả nghĩ quá, dù trâm Cửu loan là bảo vật hiếm thấy, thì cũng chỉ là một cây trâm mà thôi. Song chúng nô tỳ khuyên nhủ thế nào, công chúa cũng khăng khăng cho rằng cây trâm ấy có liên quan đến sự vui buồn của mình, còn nói Phan thục phi đã lấy trâm đi, chắc… chắc mình cũng sắp bị bà ta đưa đi…”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Ta biết rồi. Mấy ngày này các vị phải để ý cẩn thận, dẫu sao…”

Dẫu sao, cô vẫn nhớ những hình vẽ trong bức họa ở nhà Trương Hàng Anh, trừ hai hình đã ứng nghiệm, chỉ còn lại hình thứ ba.

Hoàng đế rất sủng ái Đồng Xương công chúa, nếu nàng trở thành nạn nhân bị chim loan bổ xuống mổ chết như hình vẽ cuối cùng, e rằng cả Trường An sẽ dậy sóng, khó mà dẹp yên được.

Thùy Châu quay trở vào trông nom công chúa, còn Hoàng Tử Hà đi đến bên cạnh Lý Thư Bạch, phát hiện y đang nhìn chằm chằm vào rừng hợp hoan.

Cô chưa kịp lên tiếng thì Lý Thư Bạch đã quay lưng đi xuống.

Hoàng Tử Hà liếc mắt trông theo, chỉ thấy Vũ Tuyên đứng bất động dưới tán hợp hoan, tay nắm một thứ gì đó. Có điều khoảng cách quá xa nên cô không trông rõ nét mặt hắn, cũng không thấy được thứ hắn cầm trong tay.

Thấy Lý Thư Bạch đã bước xuống cầu thang, Hoàng Tử Hà vội ép mình quay đầu lại, theo y xuống khỏi gác Thê Vân.

Hai người theo các bậc thang đi xuống, thỉnh thoảng ở chỗ ngoặt, cô nhác thấy gương mặt nhìn nghiêng của Lý Thư Bạch, nghiêm nghị mà đăm chiêu.

Đương không biết thái độ này do đâu mà có, lại ngập ngừng không dám hỏi thì Lý Thư Bạch đột ngột lên tiếng: “Xem ra không có cách nào đột nhập vào kho trộm đồ, rồi mở được rương lẫn tráp, cuỗm món đồ kia đi nguyên vẹn nhỉ?”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nhất định có cách, chỉ là chúng ta chưa biết đấy thôi.”

“Cách đó có lẽ cũng hữu dụng với lá bùa của ta?” Lý Thư Bạch nói đoạn dừng bước, quay đầu nhìn cô.

Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu: “Có hữu dụng không thì chưa biết, song tôi tin rằng, bất luận lá bùa của vương gia, kẻ gặp báo ứng bị trời giáng sấm sét thiêu chết, hay kẻ chết trong căn phòng như lồng sắt, thì mỗi câu chuyện kỳ quái đều có mánh khóe riêng của nó, chỉ là chúng ta chưa biết mà thôi.”

Ánh mắt y nhìn xoáy vào cô, gió lồng lộng lướt qua người họ. Quan sát cô hồi lâu, y mới nhận xét: “Vụ này ngươi phản ứng hơi lạ.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên nhìn Lý Thư Bạch, không hiểu y ám chỉ cái gì.

“Ví như cây trâm Cửu loan của Đồng Xương công chúa bị mất cắp, vậy mà hình như ngươi chỉ chăm chắm lo cho an nguy của công chúa, việc gì khiến ngươi cảm thấy linh cảm của Đồng Xương là đúng, cây trâm ấy sẽ liên quan tới tính mạng công chúa hả?”

Thấy y chỉ hỏi tới việc này, Hoàng Tử Hà thầm thở phào nhẹ nhõm, vội đáp: “Chuyện này nô tài đang định hỏi ý gia xem có cần tới bái phỏng Ngạc vương không?”

Lý Thư Bạch nhướng mày: “Liên quan gì đến Ngạc vương?”

“Lần trước sau trận kích cúc, chính là bận Vi phò mã bị thương ấy, Chiêu vương đột nhiên đòi ăn bánh cổ lâu, nên mọi người kéo cả đến nhà Trương Hàng Anh, trông thấy giữa nhà huynh ấy treo một bức họa, nghe nói là năm xưa phụ thân Trương Hàng Anh vào cung chẩn mạch cho tiên hoàng, được ngự ban. Bấy giờ Ngạc vương vừa nhác thấy bức họa, vẻ mặt liền trở nên rất khó hiểu.”

Lý Thư Bạch thoáng trầm tư, lại hỏi: “Bức tranh đó thì liên quan gì đến vụ án này?”

“Trên bức họa nghe nói là ngự bút đó, tổng cộng có ba hình vẽ phân bố không đều, hình thứ nhất là một nam nhân bị sét đánh chết cháy; hình thứ hai là một người chết trong lồng sắt; còn hình thứ ba, là một người bị con chim lớn trên trời lao xuống mổ chết.”

Lý Thư Bạch nhíu mày: “Bởi vậy, căn cứ vào cái chết của hai người trước đây, ngươi cho rằng, Đồng Xương công chúa có thể sẽ là… người thứ ba?”

“Thưa vâng. Bấy giờ nô tài có xem nhưng không để ý, song giờ nghĩ lại, có lẽ bức họa ấy liên quan mật thiết tới vụ án này.”

Lý Thư Bạch quay người tiếp tục đi xuống, miệng hỏi: “Bức họa đó là ngự bút thực ư?”

“Không biết. Song xem chất liệu thì là giấy gai vàng ở Thục, mịn mà bền, nhìn bề ngoài quả là thượng phẩm, song nô tài ít tiếp xúc với đồ vật trong cung nên không dám khẳng định.”

“Trong cung thường dùng giấy gai vàng của Thục để viết chữ, còn như vẽ tranh thì tiên hoàng lại ưa giấy Tuyên hoặc gai trắng hơn, sao lại dùng giấy gai vàng nhỉ?”

“Hơn nữa bức họa lại rất nguệch ngoạc, trông cứ như ba mảng mực đen, ai mà biết được là do ai vẽ? Huống hồ hình như người vẽ cũng tiện tay nguệch chơi mà thôi, cái gọi là ba kiểu chết, đều do mấy người bọn tôi tưởng tượng và phỏng đoán ra cả.”

“Ngươi đi làm việc của mình đi, ta qua chỗ phò mã, tiện thể bảo người Đại Lý Tự đi lấy bức họa ấy về, xem có phải ngự bút của phụ hoàng không.”

Đoạn Lý Thư Bạch xoay người toan đi. Chợt nghe thấy tiếng hoàng oanh ríu rít bên tai, véo von êm dịu như châu như ngọc, y hơi ngẩng đầu nhìn lên cành cây, bắt gặp hai con hoàng oanh đang hướng về phía nhau mà hót, thỉnh thoảng còn cọ cọ cánh vào nhau. Những đóa hợp hoan rung rinh đầu cành cũng lả tả rơi xuống như nhung như lụa, vô cùng diễm lệ.

Ánh mắt y dõi theo hoa rơi, dừng ở mặt cô. Một cánh hoa vương vào mai tóc cô, sắc hồng tươi tắn càng tôn lên gương mặt nõn nà, nhan sắc sinh động, khiến ánh mắt y bất giác sững lại.

Thấy cô giơ tay gỡ đóa hợp hoan ra, vẻ đầy tâm sự, y liền hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”

Hoàng Tử Hà trầm ngâm: “Ba vụ án này đều có liên quan hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tới phủ công chúa. Giờ đây hai người đã tử vong, phò mã lại bị thương, nhưng cho đến giờ, về cơ bản vẫn chưa có manh mối gì… Tôi lo rằng nếu không sớm phá xong vụ này, lỡ như công chúa xảy ra chuyện, e rằng khó mà thu xếp được cục diện…”

Lý Thư Bạch thản nhiên nói: “Ta biết rồi. Ngươi đừng nôn nóng, nếu không ổn, sẽ có Thôi Thuần Trạm dọn dẹp tàn cục giúp ngươi.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, lòng chợt thương cảm cho Thôi thiếu khanh.