Xác Ấm

Chương 20




Đến khoảng một giờ thì hai cô gái bắt đầu ngáp. Trong phòng khách có mấy chiếc chõng bạt, nhưng không ai muốn đặt chân ra khỏi phòng Julie cả. Cái khối vuông sơn màu sặc sỡ này giống như một hầm trú ẩn ấm áp giữa lãnh nguyên băng giá của nam cực. Nora chiếm chiếc giường. Julie và tôi nằm trên sàn. Nora lúi húi chép bài tập về nhà chừng một tiếng, rồi tắt đèn và bắt đầu ngáy nhè nhẹ như một cái cưa xích nhỏ. Julie và tôi nằm ngửa ra, đắp một cái chăn dày, dùng đống quần áo của nàng làm đệm trên mặt sàn cứng như đá. Thật là một cảm giác kì lạ khi khắp xung quanh tôi chỗ nào cũng là nàng. Mùi sự sống của nàng bám vào tất cả. Nàng ở trên người tôi, ở bên dưới tôi, và bên cạnh tôi. Như thể cả căn phòng được xây bằng mùi vị của nàng.

“R này,” nàng thì thầm, mắt nhìn lên trần. Trên đó đầy những chữ và hình vẽ nghuệch ngoạc bằng sơn lân tinh.

“Sao.”

“Tôi ghét nơi này.”

“Tôi biết.”

“Đưa tôi đến đâu dó khác đi.”

Tôi nhìn lên trần. Tôi ước mình có thể đọc được những gì nàng đã viết lên. Thay vào đó, tôi giả vờ những chữ cái là các ngôi sao, còn các từ ngữ kia là các chòm sao.

“Muốn… đi đâu?”

“Tôi không biết. Một nơi thật xa. Một lục địa xa xôi nào đó nơi những chuyện này không xảy ra. Nơi người ta sống trong hòa bình.”

Tôi im lặng.

“Một anh bạn của Perry từng là phi công… chúng ta có thể đi bằng ngôi nhà máy bay của anh ấy. Nó sẽ giống như ở trong một căn nhà di động biết bay ấy, mình muốn đi đâu cũng được!” Nàng nằm nghiêng sang bên và cười với tôi. “Anh nghĩ sao, R? Mình có thể đi đến tận đầu bên kia thế giới.”

Sự phấn khích trong giọng nói của nàng làm tôi đau nhói. Tôi hi vọng nàng không thấy được vẻ tuyệt vọng trong mắt tôi. Tôi không biết chắc, nhưng gần đây có điều gì đó trong không khí, một sự im lìm chết chóc khi tôi đi qua thành phố và khu ngoại ô, nó cho tôi biết rằng cái ngày ta có thể chạy trốn mọi rắc rối đã qua rồi. Sẽ không còn nghỉ ngơi, không còn những chuyến du lịch, không còn lánh đến một vùng nhiệt đới nào được nữa. Dịch bệnh dã lan khắp thế giới.

“Cô nói…” tôi mở lời, cố chuẩn bị để nói ra một ý nghĩ phức tạp. “Cô nói.. cái…”

“nào,” nàng động viên. “Dùng từ của anh xem nào.”

“Cô nói… máy bay… không là thế giới riêng.”

Nụ cười của nàng sững lại. “Gì cơ?”

“Không thể… bay trên… mọi rắc rối.”

Nàng nhíu mày. “Tôi đã nói thế ư?”

“Bố cô… hộp bê tông… tường và súng… Trốn chạy… không hay hơn… lẩn tránh. Có khi tệ hơn.”

Nàng nghĩ một lát. “Tôi biết,” nàng nói, và tôi thấy có lỗi vì đã làm giấc mơ chóng vánh của nàng tan biến. “Tôi biết thế. Tôi đã tự bảo mình như thế suốt bao nhiêu năm nay, rằng vẫn còn hi vọng, rằng chúng ta vẫn có thể tìm ra cách để thay đổi tình thế, vv và vv. Chỉ có điều… càng ngày chuyện đó càng khó tin hơn.”

“Tôi biết,” tôi nói, cố che giấu vết rạn trong vẻ chân thành của mình. “Nhưng không được… bỏ cuộc.”

Giọng nàng trở nên u sầu. nàng đã phát hiện ra lời phỉnh phờ của tôi. “Sao tự dưng anh lạc quan thế? Anh đang nghĩ gì vậy?”

Tôi không nói gì, nhưng nàng đọc được khuôn mặt tôi như đọc tít báo trên trang nhất, những tít báo về bom nguyên tử và tàu Titanic và tất cả các cuộc đại chiến thế giới với phông chữ ngày một nhỏ hơn.

“Không còn nơi nào khác, phải không,” nàng nói.

Tôi lắc đầu khẽ đến mức gần như không nhìn thấy.

“Toàn bộ thế giới,” nàng nói. “Anh nghĩ tất cả đã chết? Tất cả đã bị tàn phá?”

“Phải.”

“Làm sao anh biết được?”

“Tôi không biết. Nhưng tôi… cảm thấy.”

Nàng thở ra một hơi dài và nhìn lên những chiết máy bay đồ chơi lơ lửng trên đầu chúng tôi. “Thế chúng ta phải làm gì bây giờ?”

“Phải… sửa lại.”

“Sửa cái gì?”

“Không biết… Tất cả mọi thứ.”

Nàng chống khuỷu tay nhỏm dậy. “Anh đang nói cái gì thế?” Nàng không hạ thấp giọng xuống nữa. Nora cựa mình và thôi ngáy. “Sửa tất cả mọi thứ ư?” Julie hỏi, mắt lóe lên trong bóng tói. “Chính xác là chúng ta phải làm thế nào bây giờ? Nếu anh có phát kiến vĩ đại nào thì hãy chia sẻ đi, vì đâu phải là tôi không nghĩ về chuyện này suốt ngày. Đâu phải là nó đã không đốt cháy tâm trí tôi hàng sáng và hàng đêm kể từ khi mẹ tôi đi. Làm sao chúng ta sửa được mọi thứ? Tất cả đều đã quá đổ vỡ. Tất cả mọi người đều đang chết, chết đi chết lại bao nhiêu lần, mỗi lần lại khủng khiếp, đáng sợ hơn. Chúng ta biết phải làm gì bây giờ? Anh có biết cái gì đã gây ra chuyện này không? Bệnh dịch ấy?”

Tôi ngần ngừ. “Không.”

“Thế thì sao anh biết phải làm gì được? Tôi muốn biết, R ạ. Làm sao chúng ta có thể sửa lại nó được?”

Tôi vẫn nhìn lên trần nhà. Tôi nhìn những chòm sao từ ngữ sáng xanh lấp lánh giữa không trung xa vời. Trong khi tôi nằm đó, để cho trí não mình vươn tới tận những thiên đường tưởng tượng đấy, hai ngôi sao bắt đầu thay đổi. Chúng xoay tròn, hiện rõ dần, và hình thù của chúng trở nên dễ nhận hơn. Chúng biến thành… các chữ cái.

T

H

“Th…” tôi thì thầm.

“Cái gì cơ?”

“ Thờ…” tôi nhắc lại, cố phát âm cho rõ. Nó là một âm thanh. Nó là một âm tiết. Chòm sao mờ nhòa kia đang biến thành một từ. “Cái gì… kia?” Tôi hỏi, chỉ lên trần nhà.

“Cái gì? Cái câu trích dẫn ấy á?”

Tôi đứng dậy và chỉ vào câu đó. “Cái này.”

“Là một câu trong bài ‘Imagine’. Bài hát của John Lennon đấy.”

“Câu.. nào?”

“Cũng dễ thôi nếu bạn thử.”

Tôi đứng đó một phút, ngước nhìn lên như một nhà du hành mạo hiểm khám phá vũ trụ. Rồi tôi lại nằm xuống và bắt tay ra sau đầu, mắt vẫn mở to. Tôi không có câu trả lời mà nàng dang tìm kiếm, nhưng tôi cảm nhận được sự hiện diện của chúng. Những đốm sáng lung linh trong bóng tối xa xăm.

BƯỚC CHN NHẸ NHÀNG. Bùn dưới gót ủng. Đừng nhìn vào đâu cả. Những câu khẩu hiệu kì lạ lặp đi lặp lại trong đầu tôi. Như tiếng lầm bầm của những lão già râu ria xồm xoàm vọng ra từ những ngõ tối. Mày đi đâu vậy, Pery? Đồ ngốc. Đồ óc bã đậu. Đi đâu? Mỗi ngày vũ trụ lại rộng thêm ra, tối hơn, lạnh đi. Tôi dừng lại trước một cánh cửa màu đen. Một cô gái sống trong ngôi nhà kim loại này. Tôi có yêu nàng không? Tôi không biết nữa. Nhưng nàng là tất cả những gì còn lại. Vầng mặt trời đỏ rực cuối cùng trong một khoảng không gian bao la không ngừng giãn nở. Tôi bước vào nhà và thấy nàng đang ngồi trên cầu thang, hai tay ôm gối. Nàng đặt một ngón tay lên môi. “Bố,” nàng thì thầm.

Tôi ngước lên cầu thang nhìn về phía buồng ngủ của vị tướng. Tôi nghe thấy giọng ông lè nhè trong bóng tối lờ mờ.

“Bức ảnh này, Julie. Công viên nước, con có nhớ công viên nước không? Phải kéo lên mười xô nước mới đủ cho một lần trượt. Hai mươi phút vất vả chỉ để cho mười giây sung sướng. Nhưng hồi đấy thấy cũng đáng, phải không? Bố đã thấy rất vui khi thấy mặt con lao ra khỏi dường ống. Ngay từ khi đó con đã giống hệt mẹ rồi.”

Julie lặng lẽ đứng dậy, đi ra cửa trước.

“Con giống hệt mẹ, Julie ạ. Con chẳng giống bố chút nào, con chỉ giống mẹ thôi. Sao mẹ lại có thể làm thế?”

Tôi mở cửa và lùi ra ngoài. Julie đi theo tôi, bước chân nhẹ nhàng không một tiếng động.

“Sao mẹ con lại có thể mềm yếu như thế? Ông nói bằng giọng như thép tan chảy. “Sao mẹ có thể để chúng ta lại đây?”

Chúng tôi im lặng bước đi. Làn mưa lâm thâm đọng lên tóc và chúng tôi lắc đầu rũ nước như những con chó hoang. Chúng tôi đến nhà đại tá Rosso. Bà Rosso ra mở cửa, nhìn Julie một cái, rồi ôm lấy nàng. Chúng tôi bước vào căn nhà ấm áp.

Tôi thấy đại tá Rosso đang ngồi trong phòng khách nhấm nháp tách cà phê, giương mục kính đọc một quyển sách cũ ố nước. Trong khi Julie và bà Rosso khe khẽ trò chuyện với nhau trong bếp, tôi ngồi xuống đối diện với vị đại tá.

“Perry,” ông chào.

“Chào đại tá ạ.”

“Cháu thế nào?”

“Cháu còn sống.”

“Một khởi đầu tốt. Cháu đã ổn định ở nhà mồ côi rồi chứ?”

“Cháu ghét nó.”

Đại tá Rosso im lặng hồi lâu. “Cháu đang băn khoăn điều gì à?”

Tôi cố tìm lời. Hình như tôi đã quên mất phần lớn vốn từ của mình. Mãi rồi tôi mới khẽ nói, “Bố đã nói dối cháu.”

“Sao lại thế?”

“Bố nói chúng ta đang sửa lại mọi thứ, và nếu chúng ta không bỏ cuộc thì tất cả sẽ ổn hết.”

“Bố cháu tin như vậy. Và ta cũng thế.”

“Nhưng rồi bố cháu đã chết.” Giọng tôi run run, và tôi gắng sức bắt nó rắn rỏi trở lại. “Và đó là một cái chết vô nghĩa. Không có chiến đấu, không có sự hi sinh cao cả nào cả, chỉ là một tai nạn lao động ngu ngốc có thể xảy ra với bất kì ai, ở bất kì đâu, vào ất kì lúc nào trong lịch sử.”

“Perry…”

“Cháu không hiểu nổi, thưa đại tá. Cứu thế giới này thì có ích gì khi mà cuộc sống của chúng ta ngắn ngủi như vây? Tất cả việc làm ấy có ý nghĩa gì khi kết quả sẽ biến mất? Mà chẳng có gì báo trước? Như một hòn gạch khốn kiếp rơi lên đầu.?”

Đại tá Rosso không nói gì. Những giọng lầm rầm trong bếp trở nên rõ ràng hơn khi chúng tôi ngừng lời, vì vậy họ chuyển sang thì thầm, cố giấu vị đại tá điều mà tôi dám chắc là ông đã biết. Thế giới nhỏ bé của chúng tôi đã quá mệt mỏi để còn để tâm đến tội lỗi của những người lãnh đạo.

“Cháu muốn tham gia ban An ninh,” tôi tuyên bố.

Đại tá Rosso thở ra một hơi chậm rãi và bỏ cuốn sách xuống. “Vì sao, Perry?”

“Bởi vì đó là điều duy nhất đáng làm.”

“Ta tưởng cháu muốn viết văn chứ?”

“Đó là chuyện vô dụng.”

“Vì sao?”

“Giờ ta còn nhiều mối quan tâm lớn hơn. Tướng Grigio nói đây là những ngày cuối cùng rồi. Cháu không muốn dùng những ngày cuối cùng của mình phí thời giờ của mình viết những thứ lăng nhăng trên giấy.”

“Viết văn không chỉ là các thứ lăng nhăng trên giấy. Nó là mối liên lạc. Nó là kí ức.”

“Tất cả cái đó không còn quan trọng gì nữa. Đã quá muộn rồi.”

Ông ngắm nhìn tôi. Rồi ông cầm quyển sách lên và chìa cái bìa cho tôi. “Cháu có biết câu chuyện này không?”

“Là Gilgamesh ạ.”

“Đúng. Sử thi Gilgamesh, một trong những tác phẩm văn học đầu tiên trên thế giới. Ta có thể nói nó là cuốn tiểu thuyết đầu tay đầu tiên của nhân loại.” Đại tá Rosso lật lật những trang giấy mỏng manh ố vàng. “Tình yêu, tình dục, máu và nước mắt. Một hành trình tìm kiếm cuộc sống vĩnh hằng. Tìm kiếm cách trốn thoát cái chết.” Ông với tay qua bàn, đưa quyển sách cho Perry. “Nó được viết hơn bốn ngàn năm trước trên những phiến đất sét bởi những người cày cấy trong bùn và ít khi sống quá bốn mươi tuổi. Nó đã sống sót qua vô vàn cuộc chiến, thảm họa, bệnh dịch, và cho đến ngày nay vẫn tiếp tục mê hoặc chúng ta, bởi vì ta đây, giữa cảnh hoàng tàn hiện đại này, đang đọc nó.”

Tôi nhìn đại tá Rosso mà không nhìn quyển sách. Những ngón tay tôi bấm vào tấm bìa da.

“Thế giới sinh ra câu chuyện này biến mất từ lâu rồi, cư dân của nó đã chết, nhưng nó vẫn tiếp tục chạm tới thời hiện tại và tương lai, bởi vì có người quan tâm đến thế giới đó đủ để bảo tòn nó. Để viết lại nó. Để ghi nhớ nó.”

Tôi mở đến giữa sách. Các trang giấy đầy những dấu ba chấm, đánh dấu những từ và dòng bị mất, đã nát vụn và bị lịch sử quên lãng. Tôi nhìn chúng và để cho các dấu chấm tràn ngập mắt mình. “Cháu không muốn ghi nhớ,” tôi nói, và gập quyển sách lại. “Cháu muốn gia nhập ban An ninh. Cháu muốn làm những việc nguy hiểm. Cháu muốn quên đi.”

“Cháu nói vậy là có ý gì, Perry?”

“Cháu không có ý gì cả.”

“Nghe như là có đấy.”

“Không ạ.” Những cái bóng trong phòng tụ vào các nếp nhăn trên mặt chúng tôi, rút cạn màu sắc trong mắt chúng tôi. “Chẳng còn gì đáng kể để nói nữa.”

* * *