A Mạch Tòng Quân

Chương 79: Oan gia




Thương Dịch Chi vừa cúi đầu nhấp một ngụm rượu, nghe thấy vậy động tác liền hơi sững lại, một lát sau mới chậm rãi nuốt xuống, ngẩng đầu lên nhìn A Mạch: “Thịnh Đô không tốt sao?”

“Tốt,” A Mạch đáp, cẩn thận cân nhắc rồi nói tiếp: “Nhưng ta không thích.”

Thương Dịch Chi im lặng nhìn A Mạch một lúc rất lâu, nhìn cho đến khi lòng bàn tay của A Mạch toát mồ hôi, cuối cùng mới nhẹ nhàng cười, đặt chén rượu trong tay xuống, đáp: “Được, ta cho ngươi về.”

A Mạch nhếch môi cười, sau đó cung kính dùng hai tay nâng chiếc chén ngọc bích lên, trịnh trọng nói với Thương Dịch Chi: “Nguyên soái, Mạch Tuệ của thất doanh quân Giang Bắc kính ngươi!”

Trong mắt Thương Dịch Chi chợt có tia sáng lướt qua, đột nhiên đưa tay giữ lấy chén rượu trong tay A Mạch. A Mạch khó hiểu nhìn Thương Dịch Chi, Thương Dịch Chi chỉ nhếch khóe miệng gượng cười, nói: “Uống rượu không hợp với tính cách của ngươi”

A Mạch nhìn Thương Dịch Chi, rồi lại cúi đầu nhìn xuống, tay Thương Dịch Chi vẫn còn giữ lấy chén rượu, đầu ngón tay nhẹ nhàng chạm vào hổ khẩu(1) của nàng, ngón tay thon dài nổi bật lên vẻ ôn nhuận trên nền xanh biếc của chiếc chén ngọc, nhìn như thể tùy ý, lại giống như vô cùng kiên định.

Đang do dự, Thương Dịch Chi đã cầm lấy chén rượu của A Mạch để qua một bên.

“Trở về đi.” Thương Dịch Chi nhẹ giọng nói, ánh mắt nhìn thẳng vàoA Mạch,“Cứ chuẩn bị sẵn sàng, mấy ngày nữa là có thể quay lại đại quân Giang Bắc.”

A Mạch biết rất rõ trong lòng mình hiện giờ hẳn là mừng đến phát điên lên được, nhưng không hiểu sao, khi nhìn vào ánh mắt của Thương Dịch Chi, nàng lại không thể biểu hiện tâm trạng vui sướng ấy ra bên ngoài, chỉ chậm rãi cúi đầu, rồi đứng lên, vái chào Thương Dịch Chi, nói: “Đa tạ nguyên soái, A Mạch cáo lui.” Nói xong, lần đầu tiên không đợi Thương Dịch Chi lên tiếng trả lời, liền xoay người rời đi.

Di chuyển qua hành lang khúc khuỷu, chỉ qua một khúc quanh là có thể tránh được ánh mắt ở phía sau, trong lòng A Mạch âm thầm cảnh báo mình rằng không thể quay đầu lại, nhưng khi chân vừa bước đến chỗ rẽ, lại không tự chủ được mà dừng lại, ngừng một chút rồi quay người, cũng không nhìn Thương Dịch Chi, chỉ thu ống tay áo, trịnh trọng hướng về phía Thương Dịch Chi cúi người vái chào.

Nam Hạ, mùa thu, năm thứ ba theo lịch Thịnh Nguyên, Đường Thiệu Nghĩa lĩnh một vạn kỵ binh đánh lén Bào Mã Xuyên, nơi quân Bắc Mạc tích trữ lương thảo, chỉ một ngọn đuốc mà thiêu rụi hơn nửa năm lương thực của quân Bắc Mạc thành tro, lương thảo bị đốt cháy, ánh lửa bốc cao đến tận trời, ánh lửa soi rọi cả nửa thành Dự Châu, tiểu hoàng đế Bắc Mạc vội ném chén trà trong tay, ra lệnh cho kỵ binh Bắc Mạc hành quân suốt đêm, đuổi theo bao vây, chặn đường kỵ binh của Đường Thiệu Nghĩa. Từ Bào Mã Xuyên về đến địa phận của dãy núi Ô Lan, là hơn tám trăm dặm đường của máu và bụi, đến khi vào được trong núi Ô Lan, một vạn kỵ binh của Đường Thiệu Nghĩa đã thiệt hại quá nửa, nhưng vẫn không ngăn được Đường Thiệu Nghĩa trở thành một người anh hùng dân tộc của Nam Hạ.

Khi tin tức này đến Thịnh Đô thì đã là cuối tháng chín, triều đình Nam Hạ nhất thời xôn xao náo động, nghe nói nguyên soái Thương Dịch Chi của quân Giang Bắc đang ở Thịnh Đô lập tức dâng tấu thư, tiêu tiêu sái sái một bản tràng giang đại hải, ngôn từ khẳng khái mà dõng dạc, nói trắng ra là hành động quân sự lần này của Đường Thiệu Nghĩa tuy rằng do phó tướng Lý Trạch của quân Giang Bắc chỉ huy, nhưng cũng không nằm ngoài sự chỉ đạo của Thương Dịch Chi ta, vì muốn hoàn thành tốt cuộc chiến đấu chống lại thát tử Bắc Mạc, anh ta mạnh dạn yêu cầu được trở lại tuyến đầu trên chiến trường Giang Bắc.

Ai ngờ tấu thư này lại giống như đá chìm đáy biển.

Người sáng suốt đều nói triều đình một khi đã triệu hồi Thương Dịch Chi từ Giang Bắc trở về thì vĩnh viễn sẽ không bao giờ muốn thả cho anh ta trở về, đáng tiếc cái gã Thương Dịch Chi này lại không thức thời, thấy tấu thư của mình bặt vô âm tín, lại cầu mẫu thân là Trưởng công chúa Thịnh Hoa tiến cung cầu xin cậu mình là hoàng đế đương triều.

Mùng sáu tháng mười, Trưởng công chúa một thân trang phục vào cung diện thánh, huynh muội hai người nói chuyện hồi lâu.

Mùng chín tháng mười, trong triều ban chiếu khen ngợi, thăng cho Đường Thiệu Nghĩa làm Kỵ Lang tướng quân, giữ vị trí Tả phó tướng quân Giang Bắc, thăng nguyên phó tướng quân Giang Bắc Lý Trạch làm Phiêu Kị tướng quân, đảm nhiệm chức vụ Hữu phó tướng quân Giang Bắc. Thương Dịch Chi thôi giữ chức vụ nguyên soái quân Giang Bắc, phong làm Vĩnh Xương Hầu. Vệ Hưng giữ chức Kiêu Kỵ Đô Úy, đảm nhiệm chức vụ Đại tướng quân, Tổng đốc chư lộ quân Giang Bắc.

Nghe nói khi tin này vừa ban ra, Thương tiểu Hầu gia thiếu chút nữa thì trở mặt ngay trên điện, nhưng sau đó trên khuôn mặt tuấn tú liền lộ rõ vẻ cố tỏ ra bình tĩnh, khi rời triều liền đi thẳng đến chỗ ở của Trưởng công chúa trong Hầu phủ, về phần mẫu tử trong lúc đó đã nói những gì thì người bên ngoài không thể nào biết được, chỉ có điều là Thương tiểu Hầu gia sau khi từ Lạc Hà Hiên đi ra, ban đêm liền tá túc ở ngoại thành Thịnh Đô trên sông Thanh Thủy giữa phấn hương ôn nhu. Thương tiểu Hầu gia giữa lúc như vậy lại vờn liễu hái hoa bên ngoài, đương nhiên khiến cho Trưởng công chúa nổi giận, song chẳng đợi cho Trưởng công chúa kịp có hành động gì , tiểu thiếp vốn được tiểu Hầu gia sủng ái đã không nhịn nổi cơn uất nghẹn này mà mang theo hai gia nô xông thẳng lên thuyền hoa trên sông Thanh Thủy, đúng lúc đám quan nhân ở Thịnh Đô đang cùng uống rượu bàn chuyện nhân sinh với Thương tiểu Hầu gia. Nếu vào lúc khác, tiểu Hầu gia vốn nổi tiếng phong lưu đa tình này tất nhiên sẽ không so đo cùng người tiểu thiếp, nhưng lúc này anh ta vừa trải qua một đả kích lớn trong đời người, trong lòng đang rất, rất phiền não, đâu thể nào dung thứ cho người tiểu thiếp này khóc lóc om sòm như thế, liền giận dữ vung tay cho tiểu thiếp một bạt tai. Ai ngờ người tiểu thiếp kia cũng là kẻ tính tình cương liệt, liền một mạch gieo mình xuống sông. Chỉ nghe “Ùm” một tiếng, tiểu Hầu gia cả kinh, lập tức tỉnh rượu, dù thế nào cũng là thiếp yêu của mình, bỏ làm sao được? Tiểu Hầu gia vội vàng gọi người xuống cứu, nhưng trong cảnh cảnh tối lửa tắt đèn, mặt sông vừa rộng lại vừa có gió, làm sao còn tìm thấy bóng người, mãi cho đến hừng đông ngày hôm sau, cũng không thể nào tìm thấy bóng dáng của người tiểu thiếp. Tiếc thay cho một thiếu nữ xinh đẹp, lại cứ như vậy trầm mình xuống đáy sông, người đời có lưu lại bài thơ làm chứng:

Thanh thủy liễm diễm thủy mang mang

Họa phảng nhật mộ đối kiều nương,

Khả liên hương khuê hoa liễu chất,

Hoan tình khuynh tẫn phó hoàng lương.

(Dòng sông Thanh Thủy nước mênh mang

Thuyền hoa đâu ngờ thành thuyền tang

Thương thay đóa sen nơi đáy nước

Một giấc hoàng lương đã vội tàn (2))

[ được rồi, tác giả thừa nhận nàng đùa ác thật!o[╯□╰]o]

Đương nhiên, dị bản khi truyền đến khắp phố thì về phần chân thật của nó, dân chúng không thể nào biết được.

Ngày mười hai tháng mười, Vệ Hưng từ Thịnh Đô bắt đầu khởi hành đi nhậm chức đại tướng quân quân Giang Bắc. Vệ Hưng, người Giang Đông, ba mươi tuổi, không phải kiểu người cao ráo sáng sủa, mà chỉ là một người đàn ông có tướng mạo xấu xí, nguyên đứng đầu cấm vệ quân, là môn sinh của Lâm tể tướng, và tâm phúc của thiên tử.

Bên bờ Thanh Thủy, A Mạch một thân nhung trang, tư thế oai hùng, bừng bừng phấn chấn xuất hiện trên bến tàu, dĩ nhiên là đã khôi phục lại thân phận chủ tướng Mạch Tuệ của thất doanh quân Giang Bắc.

Đại tướng quân Vệ Hưng đối với A Mạch vốn chưa từng quá để ý, khi Thương Dịch Chi hồi kinh, mang theo bên người vài quan quân tâm phúc vốn không phải việc gì lạ. Lại nói, lần này Vệ Hưng nhậm chức đại tướng quân quân Giang Bắc, trong lòng Thương Dịch Chi mặc dù không muốn, trên mặt cũng chẳng tỏ vẻ gì, nếu không đã chẳng đem mấy tên trợ thủ đắc lực đều trao hết cho Vệ Hưng, ngay cả ba mươi sáu thân vệ tuấn tú nổi danh khắp Thịnh Đô cũng tặng Vệ Hưng đến một nửa. Về phần Thương Dịch Chi có ý định an bài điều gì hay không, Vệ Hưng cũng chẳng buồn hao tâm tổn trí suy nghĩ làm gì cho mệt.

Sau khi A Mạch bái kiến Vệ Hưng liền lui về sau thuyền, cũng không dừng lại lâu ở bên ngoài, mà lập tức chui vào trong khoang, cho đến khi thuyền đi qua Thúy Sơn thì nàng mới từ trong khoang thuyền đi ra, đứng bên mạn thuyền ngây người nhìn vách núi Thúy Sơn cao cả ngàn thước bên bờ sông Thanh Thủy. Đang lúc xuất thần, đột nhiên phát hiện thấy tốc độ của con thuyền dường như chậm lại, A Mạch có chút nghi hoặc, ngẩng đầu nhìn về phía thuyền lớn của Vệ Hưng đã dừng lại, bên cạnh xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ chậm rãi tiến sát lại gần, trên thuyền lớn buông thang dây xuống, một thanh niên mặc cẩm y từ trong thuyền nhỏ đi ra, bắt lấy thang dây leo lên, khi leo đến mạn thuyền thì quay đầu về phía thuyền nhỏ kêu lên: “Tắc Nhu, về sớm đi!”

Trên con thuyền nhỏ cũng không có tiếng trả lời, trong lòng A Mạch vừa động, liền đi lên phía trước vài bước, đứng ở đầu thuyền nhìn về phía con thuyền nhỏ kia, thấy ngoại trừ một người chèo thuyền và một mái chèo màu đỏ cũng không thấy có ai khác, nhưng xuyên qua màn trúc nhìn vào khoang thì có thể nhìn thấy hình bóng của một thiếu nữ xinh đẹp, chỉ lẳng lặng ngồi trong khoang thuyền.

Người thanh niên mặc cẩm y đã lên đến thuyền lớn, phía sau, chiếc thuyền nhỏ chậm rãi chèo đi, người thanh niên lại hướng về phía chiếc thuyền nhỏ vẫy tay thật lâu, sau đó mới quay người lại. A Mạch lúc này mới thấy rõ diện mạo của người nọ, trong lòng đột nhiên cả kinh, không thể ngờ được anh ta lại lên thuyền của Vệ Hưng.

Người nọ cũng quay đầu nhìn thấy A Mạch, bất giác cũng sửng sốt, kinh ngạc, tựa hồ không dám tin là thật, sau một lát mới đột nhiên nhếch môi lộ ra một nụ cười vô cùng sáng lạn, hướng về phía A Mạch chắp tay kêu lớn: “Tiểu huynh đệ!”

A Mạch lập tức hận mình không thể nhảy xuống sông Thanh Thủy này một lần nữa, không thể ngờ trên thế gian này sao lại có kẻ giống như hắn, ngày ấy bị nàng đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Vậy mà giờ đây, anh ta vẫn còn có thể đứng trên thuyền lớn mà chắp tay hưng phấn, cao giọng chào hỏi, A Mạch không nói gì, chỉ xoay người yên lặng đi vào khoang thuyền.

Ban đêm, thuyền dừng lại ở Thanh Hồ, ở trong khoang thuyền, A Mạch liền ngửi thấy một mùi hương ngào ngạt xông vào mũi, liền nhíu mày, bên ngoài đã có tiếng gõ cửa vang lên, nghe có tiếng người nhẹ giọng gọi: “Mạch tướng quân có ở trong khoang thuyền không?”

A Mạch cảm thấy thật vô cùng bất đắc dĩ, biết có tránh cũng không được, đành phải ra mở cửa, cửa khoang thuyền vừa mở ra, một mùi hương nồng đặc đập thẳng vào mặt nàng, khiến A Mạch không khỏi ngửa người ra sau, nheo mắt nhìn người mới đến.

Người vừa đến vẫn một thân cẩm y như trước, một cây chiết phiến, hai tay ôm quyền chắp tay hướng về phía A Mạch, tự cho mình là phong lưu mà cười nói: “Lâm Mẫn Thận, tham quân sự(3) dưới trướng Vệ đại tướng quân, nghe đại danh Mạch tướng quân đã lâu, hôm nay có thể gặp lại, thật may mắn, may mắn!”

A Mạch thấy anh ta không đề cập chút nào đến chuyện ngày ấy ở Thúy Sơn, thì cũng giả bộ làm như hồ đồ, ôm quyền nói: “Lâm tham quân, hạnh ngộ.”

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch vẫn chưa nhăn mặt với mình, trong lòng nhất thời mừng rỡ, điệu bộ giả vờ đứng đắn nhất thời biến mất không tăm tích, cánh tay rảnh rỗi đưa lên định nắm lấy cổ tay A Mạch: “Mạch tướng quân, chúng ta…”

A Mạch giật cổ tay ra rồi lật lên, lập tức liền ghìm tay của Lâm Mẫn Thận trên khung cửa, thản nhiên nói: “Không biết Lâm tham quân tìm Mạch mỗ có chuyện gì?”

Lâm Mẫn Thận xấu hổ cười cười, ngượng ngùng thu hồi tay lại, đáp: “Gia nhân của ta có làm mấy món điểm tâm, muốn mời Mạch tướng quân đến uống rượu, thưởng thức cảnh trăng thanh gió mát trên Thanh Hồ.”

A Mạch thấy anh ta là tham quân dưới trướng Vệ Hưng, cũng không muốn quá đắc tội, chỉ nói: “Đa tạ ý tốt của Lâm tham quân, nhưng trong quân không được uống rượu, Mạch mỗ không dám trái với quân quy.”

“Ồ, thật vậy à.” Trên mặt Lâm Mẫn Thận không giấu nổi sự thất vọng, ánh mắt vẫn nhìn A Mạch chằm chằm.

A Mạch nhịn không được khẽ nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Lâm tham quân còn chuyện gì nữa không?”

“Không, không có việc gì.” Lâm Mẫn Thận đáp.

“Vậy mời ngài về đi, Mạch mỗ muốn nghỉ ngơi.” A Mạch lạnh lùng hạ lệnh đuổi khách.

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch nói thẳng như vậy, thật sự không tìm ra được cớ gì nữa, đành không cam tâm tình nguyện mà xoay người rời đi, vừa đi được hai bước lại nghe thấy A Mạch ở phía sau gọi: “Lâm tham quân”, Lâm Mẫn Thận trong lòng vui vẻ, vội vàng quay lại, tươi cười nhìn A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân gọi ta có chuyện gì?”

A Mạch chần chờ một chút, mở miệng hỏi nói: “Không biết Lâm tham quân cùng Lâm tể tướng có quan hệ…”

“Đó là gia phụ!” Lâm Mẫn Thận vội vàng đáp, trên mặt khó nén được vẻ đắc chí.

A Mạch thầm nghĩ khó trách anh ta chỉ là một tham quân nho nhỏ lại dám lên thuyền lớn của đại tướng quân Vệ Hưng, mà lại là đi từ thuyền nhỏ trong Lâm gia trang viên lên, ngoại trừ xuất thân của anh ta, thì chắc chắn cũng phải có thêm cả sự ngầm đồng ý của Vệ Hưng thì mới dám như vậy, có thể thấy được quan hệ giữa người này cùng Vệ Hưng không hề tầm thường. Nét lạnh lùng trên khuôn mặt của A Mạch khẽ dãn ra, hơi cong khóe miệng.

Lâm Mẫn Thận thấy vậy, nhất thời liền có chút thụ sủng nhược kinh, nhấc chân quay lại.

A Mạch thấy thế vội vàng đưa tay ngăn anh ta, nói: “Lâm tham quân vẫn nên về thuyền nghỉ ngơi sớm đi.”

Lâm Mẫn Thận tuy không thích, nhưng cũng lại không muốn làm trái với ý nguyện của mỹ nhân, hơn nữa thời gian còn dài, không nên nhất thời vội vã, nếu như chọc giận khiến mỹ nhân không vui, ngược lại sẽ không tốt, vì thế cả cười, nói: “Cũng được, tại hạ sẽ không quấy rầy Mạch tướng quân nghỉ ngơi nữa, cáo từ.” Nói xong, mặc dù vẫn chắp tay cáo từ A Mạch, nhưng ánh mắt lại không chịu rời khỏi hai gò má của nàng.

Trong lòng A Mạch vô cùng tức giận, nhưng trên mặt vẫn bất động thanh sắc, nói một tiếng “Ngài đi mạnh giỏi” rồi đóng cửa khoang thuyền lại. Ngồi xuống giường một lát, thật sự nhịn không được, lại đành phải đứng dậy đi tới mở cửa. Quả nhiên, Lâm Mẫn Thận vẫn còn đang đứng nguyên nơi đó, nhìn A Mạch đột nhiên lại mở cửa, trong mắt tràn đầy vẻ vui mừng, há miệng đang muốn nói chuyện, A Mạch đã lên tiếng trước: “Lâm tham quân, Mạch mỗ có câu này không biết có nên nói hay không.”

Lâm Mẫn Thận vội vàng nói: “Tiểu huynh đệ cứ nói, cứ nói.”

A Mạch do dự một chút rồi nói: “Lâm tham quân, trong quân ít có người dùng huân hương(4), Lâm tham quân nếu đã là tham quân dưới trướng của đại tướng quân, một thân huân hương này vẫn là nên…” Nói đến này, A Mạch ngừng lại, chỉ nhìn Lâm Mẫn Thận mà không nói gì.

Lâm Mẫn Thận cũng chằm chằm nhìn A Mạch, nhìn đến khi A Mạch nhíu mày, lúc này mới phục hồi tinh thần lại, vội vàng đáp: “Hiểu mà, tại hạ hiểu mà.”

A Mạch nói một tiếng “Đa tạ” sau đó liền đóng cửa.

Lâm Mẫn Thận vẫn ngơ ngác đứng đó hồi tưởng lại từng cái nhăn mặt, nhíu mày, từng nụ cười, từng lời nói của A Mạch, rốt cục cũng chẳng hiểu vì sao A Mạch lại nói câu “Đa tạ” với mình, là đa tạ cái gì nhỉ. Một lát sau, có một quan quân khác đi xuống, có chút ngạc nhiên nhìn Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận lúc này mới phục hồi lại tinh thần mà lưu luyến rời đi.

Lâm Mẫn Thận trở lại thuyền lớn, còn chưa quay lại khoang của mình, đã thấy binh sĩ đến truyền lời của đại tướng quân, nói là anh ta nhất định phải qua một chuyến. Lâm Mẫn Thận không kịp nghĩ nhiều, vội đi theo binh sĩ, thấy Vệ Hưng đang ở trong khoang thuyền chờ anh ta, liền cúi đầu hỏi: “Đại tướng quân tìm ta có chuyện gì?”

Vệ Hưng đã nghe từ miệng người khác nói, biết Lâm Mẫn Thận tìm người hỏi thăm về chủ tướng Mạch Tuệ của thất doanh, cười cười, hỏi: “Nghe có người nói ngươi tìm người hỏi về Mạch Tuệ, không biết đã hỏi được chưa?”

Lâm Mẫn Thận nghe anh ta hỏi việc này, liền đĩnh đạc ngồi xuống, trả lời: “Từng gặp một lần ở Thúy Sơn, xem như quen biết, chỉ là không biết tính danh của anh ta, lại càng không biết anh ta là quân Giang Bắc.”

Vệ Hưng nhìn về phía Lâm Mẫn Thận, trầm giọng hỏi: “Ngươi thấy người này như thế nào?”

————————

Chú thích:

1. Hổ khẩu: kẽ tay giữa ngón cái và ngón trỏ.

2. Khổ thơ này mẹ Cún dịch về niêm luật thì tạm ổn nhưng không sát nghĩa lắm.

Hoàng lương: là chỉ hạt kê. Hai chữ này xuất phát từ thành ngữ “Nhất mộng hoàng lương” Ý của câu thành ngữ này dùng để ví với sự mơ tưởng viển vông và những ước mong không thể thực hiện được.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ “Chẩm trung ký” của Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.

Truyện rằng, ngày xưa có một chàng thư sinh nghèo họ Lư. Một hôm, chàng vào nghỉ trong một nhà trọ ở Hàm Đan thì tình cờ gặp đạo sĩ Lã Ông, chàng không ngớt lời than phiền với đạo sĩ về cuộc đời nghèo khổ của mình. Đạo sĩ Lã Ông nghe vậy bèn rút một chiếc gối từ ống tay áo ra nói với thư sinh rằng: “Anh hãy gối đầu lên chiếc gối này thì mọi việc sẽ được như ý cả “. Bấy giờ, người chủ quán đang bắc nồi cháo kê, còn thư sinh do vất vả đường trường, đã nằm gối đầu lên chiếc gối của Lã Ông ngủ thiếp đi.

Thư sinh ngủ được một lúc thì nằm mơ mình cưới được một cô vợ họ Thôi rất xinh đẹp. Vợ chàng tuy là con gái cưng của một gia đình giàu có, nhưng lại chăm chỉ và khéo tay, nàng đã giúp chồng thuận lợi trên bước đường công danh và có với nhau mấy mụn con. Về sau các con khôn lớn, ai nấy đều có cuộc sống khá giả, ấm cúng, thư sinh lại có thêm cháu nội cháu ngoại, chàng sống cuộc đời nhàn nhã trong gia đình đến hơn 80 tuổi rồi qua đời.

Khi chàng thư sinh tỉnh giấc, thấy mình vẫn đang ở trong căn nhà trọ nhỏ hẹp, sự vinh hoa phú quý vừa rồi chẳng qua chỉ là một giấc mộng. Nồi cháo kê của chủ quán bắc trên bếp vẫn còn chưa chín.

Câu thành ngữ “Hoàng lương nhất mộng” cũng do đó mà có.

Hiện nay, người ta vẫn thường dùng “Hoàng lương nhất mộng” để ví với ảo mộng và những mong ước không thể thực hiện được.

Trong truyện này, hoàng lương để chỉ ước vọng đặt tình cảm nam nữ vào Thương tiểu Hầu gia của người tiểu thiếp là không tưởng, là điều không thể thực hiện được. Tất nhiên, thực tế thì đây là kế để cho A Mạch có thể biến mất mà không ai nghi ngờ gì.

3- Tham quân: tham nghĩa là tham dự. Mẹ Cún cũng không biết chức vụ này là gì, nhưng đoán có lẽ là một chức vụ được phép tham dự bàn bạc việc quân sự chăng? Ai biết chỉ dùm nhé.

4- Huân hương: là một chất đặc biệt, nó có thể thông qua khứu giác qua hệ thống thần kinh trung ương tác động vào trong não chúng ta. Các loại tinh dầu khác nhau sản sinh các loại phản ứng khác nhau của cơ thể như: vui vẻ, chán ghét, hiểu lầm, thoải mái… Đại loại là sử dụng nước hoa để cơ thể thoải mái tùy vào từng thời điểm.