Ba Lần Đi Thi Thái Tử Phi

Chương 38: Đời người là thế (tứ)




Có một số điều nếu nó là vận mệnh của bạn, thì hẳn nhiên không thể tránh khỏi.

Tóm lại, lần đi này tuy không có A Ly đi theo, nhưng đoàn người Tư Mã Dục vẫn tương ngộ Mộ Dung Tuyển ở Tương Dương.

Thêm một lần nữa, tên sát phôi Vệ Lang lại mang theo một đội tư binh đuổi giết, đuổi tới vùng Giang Bắc người Hán đối diện với quân danh của quân Tần, nghênh ngang điều tra một lượt, xác định được bọn họ thật sự đã quay về doanh trại, hơn nữa chúng cũng không có ý định phái binh ra đuổi giết mười mấy người của anh, vậy mà anh ta còn tỏ ra tiếc nuối mang binh trở về.

Thực ra không hẳn là Mộ Dung Tuyển không nghĩ đến việc đuổi giết. Người này cả đời xông pha chiến trận, xưa nay đều rất thật trọng, có sở trường lùi một bước để đánh trả đối phương. Hắn ta đã từng gặp nhiều kiểu người kiêu ngạo và hống hách, nhưng lại chưa từng gặp qua kiểu người nào kiêu ngạo hống hách như Vệ Lang —– dám dẫn theo mười mấy người đuổi tới trước đại doanh của người ta, còn luyến tiếc không chịu đi, rõ ràng chính là muốn dụ hắn xuất chiến đây mà. Mộ Dung Tuyển ngẫm nghĩ, tên nhóc kia không phải tự nguyện tới tìm chết, chắc chắn là sau lưng nó còn có một đại quân ẩn nấp.

Thường những người cố tình để lộ hành tung, lại hay dấu diếm ý đồ, không liều lĩnh xông lên, cuối cùng cũng không dụ được lọt vào tầm bắn. Dựa trên kinh nghiệm quan sát người lâu nay, là người tài tự nhiên sẽ không tới đây chịu chết, nên càng chắc chắn rằng còn có một thế lực phía sau.

Dù sao cũng chỉ là mười mấy người mà thôi, hắn mới không thèm quan tâm. Một mặt chờ mật thám trở về báo cáo, mặt khác thì bước vào trướng uống một chén sữa dê.

Vừa dùng xong chén sữa dê, phó tướng chạy vào báo, nói là vùng phụ cận mười dặm trở lại không hề có dấu vết của đại quân, có muốn ra ngoài làm thịt đám nhóc kia không?

Mộ Dung Tuyển ung dung thản nhiên, chỉ nói: “dù sao cũng chỉ là đám nhóc con, muốn thịt chúng thì cứ thịt. Nhưng đừng đi xa quá”.

Phó tướng âm thầm khinh bỉ — từ khi Mộ Dung Tuyển đến đây, chưa hề biểu hiện ra một chút chí khí giỏi giang của các thế hệ danh tướng, trái lại còn để lộ ra tư tưởng già nua cùng nhát gan, hắn ta không khỏi cho rằng Mộ Dung Tuyển thành danh là do may mắn, bắt đầu có tâm tư khinh thường. Còn nghĩ rằng, không phải Mộ Dung Tuyển già quá rồi hay sao? Với lại hắn ta ban đầu theo Bắc Yến rồi lại phản bội, làm thế Bắc Yến mới bị diệt quốc, không phải hắn quá nhát gan rồi sao?

Do đó lại càng không thèm để những lời nói của hắn vào trong đầu, “Mạt tướng phải đi rồi”.

Phó tướng mang theo người ngựa ra khỏi doanh trại đuổi giết Vệ Lang. Mộ Dung Tuyển nhìn trời, tính toán thời gian —- hai mươi chín tháng mười, gió sẽ thổi lên. Ban đêm cướp doanh thì tốt hơn ban ngày.

Từ lúc phó tướng báo lại rằng không nhìn thấy đại quân ẩn nấp, Mộ Dung Tuyển cảm thấy, mặc kệ ngoài kia là ai mang binh tới, người này cũng là hậu sinh khả uý. Chỉ đáng tiếc người trẻ tuổi thường khí huyết quá thịnh, tính kế không sâu, rất dễ để người ta nhìn thấu.

Đổi lại trong tình cảnh này, ngay đêm nay nếu thiếu niên kia dám đến cướp doanh trại, đương nhiên Mộ Dung Tuyển sẽ lấy mạng cậu ta, không cho cậu có cơ hội được trưởng thành.

Thế nhưng….. Hắn làm thế để làm gì? Bắc Tần không phải cố quốc của hắn, ngược lại dân tộc Đê đối với hắn lại thù địch.

Hắn đã nhiều ngày ở tiền tuyến thăm dò, đã nhìn thấy được, binh lính phía Nam rất dũng mãnh, được huấn luyện bài bản, lại có dũng tướng, trí tướng, từ mười năm về trước đã không thể sánh bằng. Chưa nói đến cái chết của Thừa tướng, bọn người Tần luật pháp lỏng lẻo, xa hoa dâm đãng, dù cho bọn họ có cao to như núi, có dũng mãnh thiện chiến, cũng không nhất định có thể đánh thắng. Huống chi còn mang nhiều dịch bệnh bên trong, thật sự không dễ dàng gì để đội quân viễn chinh. Lần này Tần đế căn bản chính là tự mình chuốc lấy diệt vong. Mặc dù Mộ Dung Tuyển kính trọng ông ta, nhưng cũng không có ý định thay ông ta bán mạng. Từ cái ngày bị điều đến tiền tuyến, hắn vẫn luôn tìm cách để được điều về lại.

Thua nhỏ chỉ bị trách phạt, rồi sẽ tự thỉnh cáo lão lui về, đó không hẳn là biện pháp không tốt.

Vì thế Mộ Dung Tuyển lại ngồi trước trướng xơi thêm một chén sữa dê.

—– thức uống mặc dù ngon, nhưng dù sao cũng là lạc nô. Ở phía Nam khá lâu, Mộ Dung Tuyển đã có hơi nhớ nhung vị sữa dê đặc trưng của quê nhà do dân tộc Khương nấu.

Vệ Lang thấy có người đuổi tới, liền thả chậm tốc độ, không xa không gần dụ dỗ. Tính dụ bọn họ chạy vượt tới đây. Anh đã chuẩn bị riêng một chú ngựa tốt, nếu như đánh không lại, thì còn có thể trốn.

Ba trăm người à, mười lăm người bọn họ cũng đủ để chém chết chúng rồi. Nhưng mà dám qua sông đuổi theo bọn họ, xem ra quá xem thường anh rồi —- Tư Mã Dục và Tạ Liên đứng cạnh các hộ vệ cường tráng, lúc này tính ra cũng tập hợp được năm trăm người. Hơn nữa Tương Dương chính là trọng trấn, tướng thủ thành cũng không hề buông lỏng.

Qua một hồi chém giết.

Tuy rằng không lời được mạng Mộ Dung Tuyển, Vệ Lang vẫn cảm thấy bản thân mình đi buôn chuyến này coi ra không tệ.

Phó tướng bị thua trận này, bản thân hắn cũng thấy thua rất nhục nhã. Mộ Dung Tuyển còn đang tính toán các bước tiến tiến công, lại nghe nói phó tướng dám truy xa, liền phái người mang theo ba ngàn nhân mã từ doanh trại đi cứu viện.

Vào thời điểm cứu được người về, phó tướng đã bị đánh cho văng mũ cởi giáp, chật vật không sao chịu nổi. Mộ Dung Tuyển trách vài câu không nặng không nhẹ, lại quay về trướng nghỉ ngơi.

Phó tướng giận giữ và xấu hổ không thôi, nhìn thấy thái độ dửng dưng của Mộ Dung Tuyển, lại càng sinh ra phẫn hận.

Phía bên này, Tư Mã Dục lui binh về doanh trại. Cho binh lính kiểm kê chiến lợi phẩm, ba người mới quay lại bờ sông, nơi bến phà, tàu thuyền hay neo đậu để trao đổi công việc.

Gió thổi cỏ lau đung đưa như tuyết, tay áo bay bay, âm thanh phần phật. Sông chảy xa xăm, mây trời cao vời vợi, quanh hai bờ sông không có một bóng người, là thời gian và địa điểm dễ khiến cho người ta dậy lên ưu tư.

Đương nhiên, ba tên kia đều là người bình thường, không có gì để bừng lên xúc động, đề tài nói chuyện đều là loại chuyện cướp doanh, giết địch.

Tạ Liên đã bàn bạc qua với Tư Mã Dục, không lên tiếng nữa, chỉ ngồi bệt xuống nền đất, ném mớ dây câu, rồi nghe bọn họ trao đổi.

Tất nhiên là Vệ Lang cực kỳ tán thành chuyện cướp doanh. Hôm nay, khi anh đuổi đến đó cũng đã đặc biệt chú ý, hướng mai phục, làm cách nào để có thể lẻn vào thật gần, đại khái anh đã lên kế hoạch cả rồi.

Lại thảo luận thêm một chút chuyện về quần áo cùng tín hiệu, cảm thấy tương đối ổn thỏa, mới trở về nói lại với tướng thủ thành.

Trước khi đi, phát hiện Tạ Liên đang ngồi thiền, hai người nhịn không được xáp lại gần, “Có câu được không đó?”.

Bỗng nhiên bong bóng cá bị kéo giật giật, Tạ Liên hất cần câu lên, nhìn thấy cá rời khỏi mặt nước, khóe miệng anh bất giác cong cong. Sau khi kéo lên, liền ném qua cho Vệ Lang và Tư Mã Dục cùng xem.

Cư nhiên lại là một con cá vũ xương (còn được gọi là cá vền) vảy trắng lớn.

—– Hoàn tư Kiến Nghiệp thủy, chung ức vũ xương ngư (*). Thịt tươi ngon nước đậm đà, hấp nấu nướng hầm đều ngon, thiếu niên Giang Nam đều thèm thuồng vị thịt tươi ngon của loài cá này. Đến cả ánh mắt Tư Mã Dục nhìn nó cũng phải ngời sáng.

(*) Trích câu cuối trong bài thơ  Bắc Chu <北周>của Dữu Tín <庾信>

弱龄参顾问, 畴昔滥吹嘘.

绿槐垂学市, 长杨映直庐.

连盟翻灭郑, 仁义反亡徐.

还思建业水, 终忆武昌鱼.

– Phiên âm Hán Việt:

Nhược linh tham cố vấn, trù tích lạm xuy hư.

Lục hòe thùy học thị, trường dương ánh trực lư.

Liên minh phiên diệt trịnh, nhân nghĩa phản vong từ.

Hoàn tư kiến nghiệp thủy, chung ức vũ xương ngư.

— Dịch nghĩa (tìm trên GG không thấy, nên Mì tự “chém” cho xong, không chắc nghĩa có đúng không, có gì mọi người bỏ qua nhé!).

Tuổi già sức yếu còn tham vấn, đâu đây tâng bốc của ngày xưa.

Hòe xanh rủ bóng nơi góc chợ, bóng dương kéo đổ trên đường dài.

Đảo ngược liên minh tiêu diệt Trịnh, bội phản nhân nghĩa diệt mất Từ.

Chỉ còn hoài niệm sông Kiến Nghiệp, cùng ký ức về cá vũ xương.

Vệ Lang đang lục lọi trong sọt cá, bắt gặp bên trong có thêm bốn năm con cá nữa, lớp vảy màu trắng bạc ươn ướt, lớp thịt phì nhiêu hãy còn tươi sống. Lập tức hô hào, “mở đại tiệc, mở đại tiệc”.

Tạ Liên khi câu được cá, từ đó đến giờ đều là đem tặng không, chưa hề tiếc rẻ. Lúc này lại giật con cá vừa câu được lại, “mở đại tiệc gì chứ” cười nói, “ta tính sẽ phơi khô nó rồi gởi về”.

Vệ Lang và Tư Mã Dục liếc nhìn nhau, vô cùng bất mãn dò xét Tạ Liên —-  chỉ là mấy con cá thôi mà, sao lại keo kiệt, bủn xỉn như vậy chứ, có phải Tạ Liên không đó?

Ngàn dặm gởi cá về, từ khi nào mà hắn ta cùng Hoàn nương tình cảm sâu đậm đến vậy?

Tạ Liên không thèm để ý tới hai tên kia nữa, chậm rãi thu gọn bộ đồ câu, “Trời không còn sớm nữa rồi, tối nay không phải còn có việc sao? Chúng ta trở về nghỉ ngơi đi”.

Nói xong thì tự mình đi trước. Một tay thì mang vác cần câu, tay kia thì xách theo sọt cá bỏ đi.

Bất chợt Tư Mã Dục phục hồi lại tinh thần, như nghĩ tới điều gì, lẽo đẽo theo sau, “Lần trước gọi thái y cho Hoàn nương, đúng rồi, có phải là đã có…….”

Bước chân Tạ Liên hơi ngừng lại một chút. Nhất thời cũng thất thần, không thể diễn tả được là đang vui hay ngỡ ngàng. Nhưng cũng không quá rối rắm, chỉ cười nói: “Đúng rồi. Đến nay cũng đã được bốn tháng”.

Vệ Lang:…… Mẹ ơi! nhanh cực kỳ luôn!

Tư Mã Dục đã nhào lên trước mặt rồi ngăn Tạ Liên lại, kích động đến mức nói năng lộn xộn, “Có triệu chứng gì không? có phải là hay cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ, không hiểu tại sao người cứ bị nóng lên. Rồi bỗng dưng không ăn được thứ này thứ kia?”.

Tạ Liên: =__=|||...... Có phải là tôi mang thai đâu, làm sao mà tôi biết được!

Vẫn là Vệ Lang chen vào, “Mang thai chứ có phải phát bệnh đâu, ngươi nói quái gở không à”.

“Cũng có thể là điềm báo trước có phải không?” Tư Mã Dục vẫn chưa hết hy vọng, “…… ta cũng muốn viết thư về nhà hỏi một chút, tiện đó cũng gởi giúp ngươi luôn”.

Tự dưng Vệ Lang bỗng nảy sinh một cảm giác cô đơn, nghĩ đến việc hai tên kia đều sắp bước tới chức vụ làm cha, đến cả tên ngốc tử Vương Diễm cũng đã đính hôn, càng nghĩ càng thấy cô đơn.

Anh quyết định, lần này trở về, nếu vẫn chưa có người nào đồng ý gả cho anh, anh sẽ đi cướp đoạt đến chừng nào kết hôn được thì thôi.

Vào đêm cướp doanh, tuy rằng Mộ Dung Tuyển đã có sự đề phòng, nhưng lại bị nhóm ba người Tư Mã Dục đánh cho trở tay không kịp. Đợi đến khi hắn ổn định lại cục diện, nhóm ba người Tư Mã Dục đã vơ vét được một vố lớn, rồi sạch sẽ lưu loát mang theo binh lính rút lui từ sớm. Ngay lúc này hắn có muốn đuổi theo, cũng chưa chắc gì đuổi kịp.

Không khỏi nảy sinh cảm khái, thiếu niên phương Nam, quả là trang anh hùng vượt bậc.

Đến lúc hắn biết được, đến cướp doanh chính là Thái tử Nam Triều cùng với tam lang của Tạ Hoàn Tạ gia, khi đó hắn đã rờ khỏi Tương Dương, đang ở một nơi rất xa rồi —- hơn nữa, có lẽ cả đời này cũng không có cơ hội quay lại.

Lúc A Ly đang uống thuốc, thư của Tư Mã Dục gởi đi cũng vừa về tới.

Thật ra cô đã biết trước, bệnh này của cô căn bản không thể cứ uống thuốc và châm cứu là có thể trị khỏi —- đó chính là hệ thống, nó đang nhắc nhở cô, lần sát hạch này của cô lại sắp thất bại rồi. Ngoại trừ có chuyện gì chuyển biến để tăng thêm tình tiết, bằng không sẽ bị phán RỚT.

Nhưng A Ly vẫn cố gắng uống không chừa lại giọt thuốc nào.

Cô vẫn chưa buông tay mặc cho số phận. Bởi vì có thể sống lâu thêm được ngày nào thì còn có hi vọng ngày ấy.

Cô muốn cùng Tư Mã Dục đầu bạc răng long. Cô không hiểu, vì sao là Tư Mã Dục thì không được, hai người rõ ràng đều yêu thương nhau. Không lẽ chính bởi vì cô đã lấy Tạ Liên làm bia đỡ đạn, nên bất kể tình yêu của cô và Tư Mã Dục có tốt đẹp đến đâu, cũng đều không thể bù đắp lại được?

Cô mở bức thư Tư Mã Dục ra. Nhìn những dòng chữ ân cần, kể rằng anh đã cướp doanh trại như thế nào, thắng lợi ra sao, rồi diễn tả tư thế oai hùng hiên ngang lẫm liệt đến mức nào, tưởng tượng ra hình ảnh anh đứng trên tường thành tạo ra tư thế hiên ngang đón gió, thì nhịn không được bật cười.

Hình như còn đề cập đến chuyện con cái nữa.

Bọn họ vẫn còn rất trẻ. Chỉ mới trưởng thành đây thôi, đời người cũng chỉ vừa mới bắt đầu. Nhưng tại sao cứ bị phủ định? Thực lòng muốn khiến cho các giám khảo cũng bị xuyên không một lần thử xem, để xem bọn họ còn dám không suy nghĩ mà bình luận ai là cặn bã, ai không xứng, ai đáng chết? Bọn họ có còn giữ vững cái lập luận cùng phán đoán đó, mà không chịu suy nghĩ cho người khác một chút? Bọn họ quan sát chính là một vở kịch, diễn ở một không gian nào đó, cùng một đống nhân vật nào đó, nhưng mọi người đều có khả năng suy nghĩ, sống và làm việc, đó là cuộc sống thực thụ.

Còn giáo sư ra đề nữa, bà cũng quá không có chủ kiến đi —- các bà ấy đúng là đang đào tạo cô, cho dù độc giả là cơm áo, là cha mẹ của các bà, nhưng các bà không thể đối xử với đám học trò mềm lòng một chút, len lén bỏ qua cho một vài lần sao?

Tại sao mà cứ luôn như vậy chứ……… A Ly cầm chặt bức thư, nước mắt từng giọt từng giọt rơi xuống.

Ở mặt sau thư, Tư Mã Dục lại dặn dò, không được chạy lung tung, không nên suy nghĩ bậy bạ, phải ăn uống thật nhiều, ngủ đủ giấc, vui vẻ lên, phải thường nhớ đến anh. Rồi có nên gọi thái y đến bắt mạch hay không, có phải cô đang có mang nên mới cảm thấy khó chịu. Nghe nói vợ Tạ Liên khi mang thai cũng có triệu chứng này.

( Tạ Liên: …………. ngươi đừng có nói bậy!) Nước mắt A Ly vẫn rơi không ngớt, vừa khóc vừa cười.

Cười xong, mới nhìn ra đám trúc xanh bên ngoài cửa sổ, ngắm mưa phùn đang lả tả bay xuống, hơi sương vân vít lưng chừng, khiến cho tâm trạng cũng ngày càng nặng nề.

Giữa tháng Chạp, Tư Mã Dục tuần tra trở về.

Bệnh tình của A Ly vẫn còn lây lất, không tốt hơn cũng không quá xấu. Cô không muốn để Tư Mã Dục nhận ra, cố nói cười như bình thường, ngay cả Thái y cũng không thường truyền gọi.

Nhưng tình trạng thực sự, trong lơ đãng vẫn lộ ra từng chút từng chút một.

Tư Mã Dục đang trải qua thời kì đẹp nhất của đời người, anh chưa từng trải qua sinh ly tử biệt —– những người độ tuổi đương tròn đôi tám, đều ít khi suy nghĩ đến những vấn đề này. Chỉ khi tử biệt bày ra ngay trước mắt, mới biết được rằng nguyên lai nó lại mong manh đến thế —- anh chỉ thấy được A Ly hiện đang không được khỏe, phải cần điều dưỡng thật tốt. Chứ không hề ngờ rằng bệnh của cô có thể không bao giờ trị khỏi.

Gần hết tháng Chạp, anh không còn giành nhiều thời gian để chạy nhảy bên ngoài như trước nữa.

Hầu hết thời gian đều ngồi đối chiếu với sách thực đơn của A Ly để viết ra cuốn “sách ăn uống”, mỗi khi viết xong một chương đều đọc cho A Ly nghe. Gặp những món A Ly chưa có cơ hội làm cho anh ăn, liền càu nhàu: “Đợi khi nàng khỏe hơn, hãy nhớ phải làm cho ta ăn món đó đó”.

Tài hành văn của cậu chàng này vô cùng dí dỏm, nhiều lúc vui tay thường viết ra nhiều câu rất khó đỡ, những lúc đó đều khiến cho A Ly phải cười nghiêng ngả.

Rồi có những khi, để A Ly ngồi tựa trong lòng anh, hai người trùm chung một tấm áo choàng, chỉ để lộ ra hai cái đầu ngắm nhìn tuyết rơi, vừa nói chuyện, vừa đung đưa qua lại.

Ngoài sân tuyết rơi mờ mịt, hồng mai nở rộ, nhấp nhô trên những mái lầu gác trùng điệp, như những dải lụa trắng uốn cong, trên nền tuyết trắng kia điểm lên vài vệt chu sa (sắc đỏ) không cách nào gột rửa, từ từ hóa thành một bức tranh thiên nhiên mộc mạc trắng trong nhiễm lên vài vệt mực; bên trong phòng khói tỏa ra từ lò hương lan tỏa ấm nóng, hơi nóng trên tách trà hóa thành lớp sương trắng, bên cạnh tách trà là một nhánh hoa anh thảo vàng tươi. Tư Mã Dục nói xong một câu, liền vươn một bàn tay ra khỏi lớp áo choàng để bưng tách trà, hỏi A Ly một câu, đút cho cô uống trước một ngụm, còn lại đều uống cạn.

Có khi anh cầm trên tay một cuốn sách, A Ly từ phía sau ôm lấy anh, đưa tay tiến vào trong lớp áo anh. Tư Mã Dục đặt cuốn sách xuống, quay ngược lại cù lét cô, ồn ào một trận, sau đó ngã luôn trên giường. A Ly cầu xin tha thứ, anh liền nổi cơn dương dương tự đắc. A Ly vòng tay lên cổ anh, khép đôi mi lại, sóng mắt mơ màng, hơi thở như lan, “……đừng đi”. Dù vậy anh vẫn cảm thấy những khi A Ly nói câu đại loại như “nếu như có thai thì tốt rồi” là muốn chế nhạo anh, nhưng đến khi A Ly nói, “Chúng ta sinh một đứa bé đi”, anh đều tin tưởng, anh tin rằng cô sẽ mau chóng khỏe lại.

Bệnh tình A Ly vẫn chưa có chuyển biến tốt.

Tháng Tư năm sau, xuân đi hè đến, hoa rau tảo tươi non, lúc mùa sen vừa tới, cũng là lúc Hoàn Đạo Liên lâm bồn.

Bởi vì cô sinh sớm so với ngày dự sinh, nên trên dưới Tạ gia chưa ai kịp chuẩn bị ổn thỏa.

Đúng dịp Tạ Thanh Như về nhà thăm cha mẹ. Tạ gia mở yến tiệc tạ ơn, Tư Mã Dục cũng dắt theo A Ly cải trang mà đến. Thình lình việc vui ùa đến, mọi người đều trở nên rối ren. Tạ Liên là người trầm tĩnh đến vậy, lại cuốn cuồn ôm bầu rượu mà chạy đi.

Tư Mã Dục và A Ly nhìn nhau, đều cố gắng nín cười.

Đợi từ giữa ngọ đến khi tờ mờ sáng, phòng sinh mới truyền ra tin tức. Là một nam hài tử, mẫu tử bình an.

Toàn thể mọi người đều chắp tay chúc mừng, nét mặt không giấu nổi niềm vui. Đến cả Thái Phó khi ra gặp người ngoài đều tươi cười hớn hở.

Tạ Liên vẫn không quay lại, Vương Diễm muốn tiếp chuyện Tạ Thanh Như. Chỉ còn Tư Mã Dục với Vệ Lang là người ngoài, nên cũng không ở lại lâu. A Ly cũng theo họ trở về.

Tạ Liên thì canh giữ bên giường Hoàn Đạo Liên.

Ánh đèn ấm áp soi lên đôi mắt dịu dàng của Tạ Liên. Anh đang bế đứa bé để Hoàn Đạo Liên ngắm nhìn.

Hoàn Đạo Liên nôn nao, cầm lòng không được cúi người hôn lên, hỏi: “Tên nó là gì?”.

Tạ Liên nói: “Vĩ trong chí hướng to lớn, nàng cảm thấy thế nào”.

Hoàn Đạo Liên lẩm nhẩm thì thầm: “Ðồng quản hữu vĩ….. ” gật gật đầu, “tương lai tươi sáng, thật là cái tên tốt”. Còn nói thêm, “Chàng đã có người để truyền thừa hương khói rồi”.

Tạ Liên cười dịu dàng nhìn cô, mang theo chút trách móc, còn lại là điệu bộ nghiêm túc.

Nhưng Hoàn Đạo Liên không đáp lại, vẫn giữ vẻ thản nhiên, nói rằng: “Chàng nên viết cho thiếp một phong hưu thư”.

Lúc này Tạ Liên mới nhận ra cô không hề nói đùa. Nhưng không lập tức bác bỏ, mà đem đứa nhỏ giao cho nhũ mẫu, an bài rõ ràng, mới lặng im ngồi xuống bên cạnh Hoàn Đạo Liên, hỏi: “Sao nàng lại nói như vậy?”.

Hoàn Đạo Liên nhìn chằm chằm vào Tạ Liên, khẽ thở dài, mang theo chút khổ sở, trước sau âm thanh vẫn nhu hòa: “Từ năm bảy tuổi thiếp đã gặp được chàng, tính tới hiện tại đã được mười một năm. Từ rất lâu về trước thiếp đã biết —– biết rằng bản thân mình sẽ được gả cho chàng, nên vẫn luôn âm thầm ngưỡng mộ chàng. Nghĩ rằng chỉ cần có thể bên cạnh chàng đến hết cuộc đời này coi như mộng đã trọn, chứ nào dám mơ mộng gì nhiều. Hóa ra tất cả đều là sai lầm —– Tạ lang, con người không thể biết trước tương lai. Từ sau khi gả cho chàng, thiếp mới nhận ra, thật ra ước ao của thiếp không chỉ vẻn vẹn chừng đó. Nếu như không chiếm được, cả đời này thiếp sẽ không thấy được hạnh phúc, có khi còn vô tình đả thương đến chàng. Nhưng mà, nhất định chàng không thể trao cho thiếp được nhiều như vậy. Tốt hơn là thiếp nên buông tay để ra đi, tránh cho sau này tổn thương đến tình cảm cả hai”.

Tạ Liên trầm mặc, ánh nến leo loét, nhảy nhót trong ánh mắt.

Rất lâu sau, mới đưa tay ra bao phủ bàn tay của Hoàn Đạo Liên, chăm chú, nói: “Nói xem nào, có lẽ ta có thể trao cho nàng thì sao?”.

Hoàn Đạo Liên cười lắc đầu, “không có khả năng, trong lòng chàng còn có hình bóng khác, thiếp cảm nhận được. Thiếp nghĩ, chàng đã không thể cưới nàng ấy, là vì vấn đề huyết mạch phải không? Hiện giờ, chàng đã có con nối dòng, nên đã có thể ở bên nàng ấy. Thiếp không muốn tranh đoạt với người khác, lại càng không nhẫn tâm nhìn chàng cả đời đau khổ vì tình, không bằng nên rời đi thì hơn”.

Tạ Liên không nói gì thêm. Cô rút từ dưới gối đàn hương ra một cái hộp, rồi mở ra —- bên trong có đặt một cái đồng tâm kết, vẫn là chiếc hà bao thêu chỉ bạc thành chữ Phúc Thọ, hoàn hảo như mới.

“Chàng vẫn còn chôn giấu gì đó trong lòng”. Hoàn Đạo Liên nói: “Hà bao này thiếp đã tìm được một thợ thủ công lành nghề thân quen —- nó thật sự là một sản phẩm tinh xảo, thiếp không thể làm được. Hãy giữ gìn cẩn thận, nếu như đã quý trọng đến vậy, thì đừng nên làm hỏng lần nữa”.

Tạ Liên thu những đồ vật đó vào tay, một lát sau, đứng dậy ném vào trong chậu than.

“Là do ta sai”, anh nói “đáng lẽ không nên giữ lại, khiến cho nàng phải suy nghĩ lung tung”.

Hoàn Đạo Liên liền cúi đầu, khóe môi còn vươn vấn nét cười, sau đó bỗng bật lên tiếng nức nở, “Đó là do thiếp làm….”. Nhưng tâm ý của Tạ Liên, cũng đã chứng minh rõ ràng trước cô rồi.

” Cái gì?”.

“Đều là do thiếp làm, vô cùng khó khăn, mất thời gian rất lâu mới có thể học được…… đã bị chàng thiêu mất rồi”.

Tạ Liên:…… Anh vội vàng quay người muốn cứu lấy, Hoàn Đạo Liên từ phía sau ôm lấy anh, “……….Để thiếp làm một cái mới tặng chàng, hãy nhớ phải mang đó”.

“Ừm”. Tạ Liên cười rồi bất giác thở dài, quay ngược lại ôm lấy cô, “Có thể mở miệng ra nói rõ ràng mọi chuyện, lại tiêu tốn quá nhiều tâm tư. Đã làm mẹ cả rồi, thực sự ta không hiểu nổi nàng”.

Chưa về tới Đông cung, A Ly đã không thể chống đỡ được nữa, đêm đó nổi trận sốt cao. Bất tỉnh nhân sự.

Cố níu kéo sự sống. Tới khi cô tỉnh lại, Tư Mã Dục vẫn còn đang canh giữ bên giường cô.

Thấy A Ly tỉnh lại, liền gắng sức nắm lấy tay cô, đến một câu cũng nói không nên lời.

A Ly há miệng thở dốc, Tư Mã Dục vội vàng gióng tai nghe.

A Ly nói là: “Có thể không cần sinh em bé được không? Có lẽ cả đời này thiếp sẽ không thể có em bé. Chỉ cần hai người chúng ta bên nhau thôi, được không?” Nhưng trước khi Tư Mã Dục trả lời, cô đã cuốn quýt chặn lời, “là thiếp nói lung tung thôi”.

Về sau cô mới hiểu được —- đại khái vô sinh cùng với chung tình, mới chính là đề thi của cô.

Thế mà Tư Mã Dục lại là con một, làm sao cô có thể để anh không có con? Làm sao cô có thể chỉ vì muốn vượt qua đề thi, mà lừa anh một lời hứa hẹn? Việc cô chết đi đã được thiết lập kỹ càng, làm sao cô có thể mang theo luôn niềm hi vọng nối dõi của anh được?

Cô uống chút nước, nói với Tư Mã Dục: “Chàng hãy bước lên và nằm xuống đây đi, ôm thiếp một chút”.

Âm thanh của cô gần như hòa tan vào không gian và thời gian.

Năm tháng tình yêu tươi đẹp nhất, đã dừng lại ngay đêm đó, vĩnh viễn ngừng lại. A Ly vẫn như thế, một lần nữa bỏ lại một mình anh mà đi.

Kiếp thứ 2 đã khép lại.