Đại Tấn Đẹp Đến Như Vậy (Đổi Nữ Thành Phượng)

Chương 50




Editor: Xoài

Beta: Hoàng Lan

Hà Úc bị Tuân Hoán chém đầu, thi thể và đầu được đón một cách vững vàng, không có một chút động tĩnh nào.

Hai trăm thị vệ bên ngoài chỉ nghe thấy tiếng khóc của Dương Hoàng hậu.

Hoàng đế “phát sốt” trên long sàng mở to mắt, cười ngốc nghếch với Thanh Hà: “Ta giả vờ ngủ giống không?”

“Cực kỳ giống luôn.” Thanh Hà cầm khăn nóng lau mặt cho Hoàng đế, khăn tay bị nhuộm đỏ, hóa ra là Hoàng đến không phát sốt bị bệnh, chỉ là Thanh Hà dùng màu bôi cải trang thôi.

Hoàng đế nói: “Ta muốn ăn kẹo, ta muốn thưởng.”

Thanh Hà nói: “Còn một việc chưa làm, đợi chút nữa phụ hoàng hoàn thành thì sẽ đưa kẹo cho người.”

Thanh Hà nhét một đôi bông gòn vào tai Hoàng đế rồi gật đầu với đám Vương Duyệt bọn họ: “Bắt đầu.”

Si Giám mang theo một đám Trung Lĩnh quân buộc vải đỏ lên tay áo bao vây hai trăm thị vệ, đầu tiên là bắn tên đánh ngã một loạt, sau đó tiến lên bổ đao, sau một chén trà, cuối cùng một vài tiếng kêu thảm cũng biến mất.

Thanh Hà dùng một tấm vải che kín hai mắt Hoàng đế: “Phụ hoàng, con đỡ người ra ngoài đi bộ.”

Ở cửa chính chính điện của điện Tử Quang đã chất đầy thi thể, cửa cũng không mở ra, giống như Địa Ngục, Hoàng đế nhìn thấy sẽ thét lên, thậm chí là sợ ngất đi.

Đám người đi ra ngoài từ cửa hông, đế hậu leo lên một chiếc xe ngựa nhẹ nhàng tiện lợi không có trần, Vương Duyệt mang theo đầu của Hà Úc, Tuân Hoán và Si Giám cùng với Trung Hộ quân cưỡi ngựa, giơ một lá cờ phướn hổ trắng, một đường rống to: “Tư Mã Quýnh mưu phản rồi! Phái Hà Úc ám sát Hoàng thượng, hiện tại đã đền tội! Hoàng thượng có chỉ! Phổ biến cờ Bạch Hổ! Triệu tập Trung Lĩnh quân tiêu diệt nghịch thần Tư Mã Quýnh!”

Cờ xí của Đại Tấn có nhiều loại, mỗi một loại đại diện cho một ý khác nhau, cờ Bạch Hổ là ý Hoàng đế tự mình ra gọi binh thảo phạt, biểu thị Hoàng đế đã gặp phải sự uy hiếp nghiêm trọng nhất, quân dân thiên hạ, phàm là người nhìn thấy cờ Bạch Hổ thì đều phải cầm vũ khí lên tham gia chiến đấu.

Có cờ Bạch Hổ, có đầu của Hà Úc, còn có đế hậu ăn mặc chỉnh tề trong xe ngựa, đại đa số Trung Lĩnh quân trong cung đã không phục Hà Úc, nhao nhao gia nhập trận doanh.

Mỗi một người mới gia nhập thì sẽ nhận được một sợi vải đỏ, đợi xe ngựa chạy quanh hoàng cung một vòng, trong ba mươi ngàn Trung Lĩnh quân thì đã có hai mươi ngàn người phối hợp chặt chẽ, mười ngàn người còn lại thì vẫn đang đứng nhìn.

Thanh Hà thấy thế thì đồng thời thả một quả pháo hoa màu đỏ và xanh lá lên bầu trời.

Nhân lúc bóng đêm, Trường Sa vương Tư Mã Nghệ mang theo hai trăm tử sĩ đã sớm mai phục ở ngoài cách cửa Đông Dịch hoàng cung không xa, ở cổng có binh sĩ phủ Đại tư mã sắp đặt ba lớp trạm gác, không cho phép bất cứ kẻ nào đi qua.

Tư Mã Nghệ nhìn thấy trên bầu trời dâng lên pháo hoa hai màu đỏ xanh, biết được Thanh Hà bọn họ thực hiện được rồi thì lập tức cưỡi ngựa xông thẳng về phía ba lớp trạm gác ở cửa Đông Dịch.

Tuấn mã lao vùn vụt, đạp phá bóng đêm, giống như ma quỷ xuất hiện trước mặt đám thị vệ, khoảng cách quá gần, không kịp bắn tên, bọn thị vệ nhao nhao nâng thương nhắm về phía đùi ngựa, hai bên giao chiến.

Lúc này cửa Đông Dịch đóng chặt đột nhiên ầm vang mở rộng, bên trong tuôn ra một đoàn Trung Lĩnh quân cột vải đỏ trên cánh tay phải, bọn họ phát động công kích từ phía sau bọn thị vệ.

Lần này đội thị vệ gặp phải cảnh giáp công hai tầng trước sau, rất nhanh đã bị tiêu diệt.

Tiểu đội hai trăm người của Tư Mã Nghệ và Trung Lĩnh quân hợp lực thành công ở cửa Đông Dịch!

Bởi vì quân ta đều buộc dây vải đỏ trên cánh tay phải, cho nên tạm thời gọi bọn họ là đội quân Hồng Tụ.

Tư Mã Nghệ là Trường Sa vương, em trai ruột của Hoàng đế, lại am hiểu công chiếm, địa vị và năng lực đều nổi bật, ông là thủ lĩnh đội quân Hồng Tụ mà Thanh Hà chọn ra.

Vương Duyệt mở ra chiếu sách Cần Vương: “Trường Sa vương Tư Mã Nghệ nghe lệnh! Phản tặc Tư Mã Quýnh làm loạn, phá tường hoàng cung, điên cuồng vô lễ, sai sử loạn thần Hà Úc ám sát Hoàng đế, mưu phản bức thoái vị, Trường Sa vương Tư Mã Nghệ là thập nhị đệ của trẫm, anh dũng thiện chiến, trung thành tuyệt đối, lập chí giúp đỡ hoàng thất, phong Trường Sa vương làm Cần Vương Đại nguyên soái, dẫn đầu nghĩa quân tiến đánh phủ Đại tư mã, đuổi bắt phản tặc Tư Mã Quýnh! Khâm thử.”

Tư Mã Nghệ quỳ xuống nhận thánh chỉ: “Thần đệ nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh, san bằng phủ Đại tư mã, đuổi bắt Quýnh tặc!”

Tư Mã Nghệ chờ chiếu sách Cần Vương đã hơn một năm, cuối cùng cũng có được sự thừa nhận chính thức, Nhiệt huyết ông sôi trào ngay tức khắc, cầm thánh chỉ lên ngựa: “Các vị tướng sĩ, theo ta cùng đuổi bắt Quýnh tặc!”

Danh phận của Tư Mã Nghệ vừa được định ra, những người phối hợp nhao nhao giơ cánh tay phải buộc vải đỏ lên: “Đuổi bắt Quýnh tặc! Đuổi bắt Quýnh tặc!”

Tư Mã Nghệ làm đội quân Hồng Tụ phấn chấn, dựa theo kế hoạch mà đi thẳng đến Tây Uyển hoàng cung.

Tại sao lại là Tây Uyển?

Bởi vì tường thành Tây Uyển có sẵn cái lỗ hổng ở đó, độ rộng có thể chứa đồng thời tám chiếc xe bò đi qua, hơn nữa, để tiện cho mình đi qua đi lại mà Tề vương không xây cửa ở lỗ hổng, chỉ có mấy trạm gác.

Nơi này là chỗ quan trọng nhất của hoàng thất, nhưng mà, đây cũng là chỗ yếu nhất của phủ Đại tư mã.

Tư Mã Nghệ chỉ huy đội quân Hồng Tụ phát động tập kích trạm gác ở lỗ hổng, đến bước này rồi, ông đã mất đường lui, chỉ có tiến lên, tiếp tục tiến lên!

Lại nói đến phủ Đại tư mã, Tề vương Tư Mã Quýnh còn chưa chìm vào giấc ngủ thì đã bị người ta gọi dậy: “Đại tư mã, không xong rồi! Trường Sa vương Tư Mã Nghệ mang theo Trung Lĩnh quân tiến đánh phủ Đại tư mã!”

Tư Mã Quýnh quả thật không thể tin nổi: “Hà Úc đâu?”

“Đầu của Hà Tướng quân bị treo trên tường thành Tây Uyển, tội danh là ám sát Hoàng đế, mưu phản bức thoái vị!”

Tư Mã Quýnh vỗ mạnh án thư: “Trường Sa vương này, bình thường ta đối với hắn không tệ mà! Lại dám đâm sau lưng!”

Tư Mã Quýnh lập tức mặc giáp ra trận: “Mau thả tín hiệu, triệu tập một trăm năm mươi nghìn trú quân ngoài thành đi vào thành, ta mang theo quân đội một trăm nghìn người nội ứng ngoại hợp với bọn họ, quân đội hai trăm năm mươi nghìn người đấu với Trung Lĩnh quân ba mươi nghìn người, ta phải xé xác Trường Sa vương!”

Ban đêm không thấy rõ cờ xí, chỉ có thể lấy khói lửa làm tín hiệu, Tư Mã Quýnh đã sớm chuẩn bị rất nhiều, thế nhưng đợi lão võ trang đầy đủ cầm vũ khí ra khỏi cửa phòng, nhìn pháo hoa rực rỡ sắc màu trên bầu trời đêm thành Lạc Dương, lão lập tức trợn tròn mắt: Chuyện gì vậy?

Người thả pháo hoa chính là Tào Thục, bà phát hiện ra hôm nay phủ Đại tư mã mua một lượng lớn pháo hoa màu đỏ từ trong danh sách vật phẩm nhập kho trong phủ.

Ăn Tết đương nhiên phải bắn pháo hoa, nhưng mà chỉ mua một loại màu thì rất có vấn đề, Tào Thục suy đoán đây là Tư Mã Quýnh chuẩn bị cho sang năm dùng để phát động bức thoái vị.

Tào Thục giàu nứt đố đổ vách, hôm nay bảo người làm và tai mắt ngầm của Lưu Diệu trong tứ di lý gần như thầu hết toàn bộ pháo hoa của thành Lạc Dương, chờ Thanh Hà bắn pháo hoa hai màu đỏ xanh lên trời, thuộc hạ của Lưu Diệu rải rác ở các ngõ ngách toàn thành cùng nhau đốt các loại pháo hoa, nhất là màu đỏ, bầu trời đêm của thành Lạc Dương bị đốt cháy trong nháy mắt.

Tối nay là đêm Tết ông Táo, từ hôm nay trở đi chính là vào Tết, từng nhà đều chuẩn bị pháo hoa, thích tham gia náo nhiệt là truyền thống của bách tính trong nước, thấy bên ngoài đốt pháo hoa thì nhao nhao đốt pháo hoa nhà mình. Bầu trời đêm giống như trong nhà các vị tiên mở xưởng nhuộm lớn, đỏ lục xanh tím màu gì cũng có.

Cho nên, khi phủ Đại tư mã bắn tín hiệu pháo hoa màu đỏ thì lập bị nhấn chìm ngay trong biển pháo hoa của từng nhà quần chúng.

Mà số pháo hoa hôm nay Tào Thục mua đủ để bắn tới hừng đông.

Một trăm năm mươi nghìn quân ngoài thành trông coi trạm gác chỉ thấy toàn bộ bầu trời đêm của thành Lạc Dương đều là màu sắc rực rỡ, nào có hiểu được là phủ Đại tư mã kinh biến!

Tề vương nhìn bầu trời đêm biến ảo khó lường, lão giận dữ: “Thả bồ câu đưa tin!”

Thuộc hạ nghe tiếng pháo hoa đinh tai nhức óc, nói: “Bây giờ thả chim bồ câu, bồ câu đưa tin tám phần sẽ bị doạ rơi xuống, thậm chí là bị pháo hoa gây thương tích.”

Tề vương đập một bàn tay tới: “Bồ câu không được thì người cũng có thể đúng không! Nhanh chóng phái lính liên lạc ra khỏi thành!”

Mà trên phố lớn ngõ nhỏ gần phủ Đại tư mã, quân Hồng Tụ đã sớm sắp xếp các loại mai phục và cửa ải, chuyên để chặn giết lính liên lạc.

Tề vương lên ngựa: “Lấy cờ Sô Ngu ra, người thấy cờ này như thấy Hoàng thượng, nếu như Trường Sa vương không chịu lui binh đầu hàng thì hắn chính là mưu phản!”

Sô Ngu chính là một loại thần vật trong “Sơn Hải Kinh” ghi lại, nó thiện lương nhân từ, ngay cả cỏ xanh cũng không đành lòng chà đạp, chỉ ăn sinh vật chết tự nhiên (*), cho nên, nó đã trở thành biểu tượng hòa bình, cờ Sô Ngu là cờ lệnh riêng cho việc ngưng tuyên chiến.

(*) Trích từ “Sơn Hải Kinh”.

Trong hành động quân sự, cờ Bạch Hổ là biểu tượng của khởi binh chinh chiến; cờ Sô Ngu là biểu tượng của lui binh ngưng chiến. Hai lá cờ hiệu hoàn toàn khác biệt.

Thế nhưng lúc Tề vương cầm cờ Sô Ngu ép Trường Sa vương lui binh thì lại phát hiện ra Trường Sa vương giương cờ Bạch Hổ!

Các binh sĩ lập tức ngây ngẩn cả người: Khi cờ Sô Ngu và cờ Bạch Hổ đồng thời xuất hiện thì người lính nên làm gì.

Tề vương thấy lòng quân dao động thì vội vàng nói: “Cờ Sô Ngu trong tay ta là do Hoàng đế trao tặng, cờ Bạch Hổ trong tay Trường Sa vương là giả! Bình thường ngay cả lên triều hắn cũng không đi được mấy lần, sao lại có được cờ mà Hoàng thượng ban thưởng?”

Cũng đúng, Trường Sa vương sớm đã bị bài xích rồi, Hoàng đế ngốc có khả năng cũng không nhận ra ông ta.

Trường Sa vương đã sớm dự đoán được: “Quýnh tặc! Nhìn thấy Hoàng thượng còn không quỳ xuống!”

Đám người tản ra, chỉ thấy Hoàng đế đứng trên một chiếc xe ngựa, Hoàng đế ngốc Tư Mã Trung nói ra như vẹt dưới sự nhỏ giọng nhắc nhở của Dương Hiến Dung ngồi sau lưng:

“Tư Mã Quýnh, Hà Úc đã nhận tội bị xử tử, đầu của hắn bị treo trên tường, hắn cũng khai nhận ngươi cất giấu long bào, ám sát trẫm, mưu phản bức thoái vị lòng lang dạ thú. Hy vọng ngươi nhanh chóng đầu hàng, quay đầu là bờ, đừng mắc thêm lỗi lầm nữa.”

“Nếu ngươi nhận tội đầu hàng, trẫm nể tình ngươi là đường đệ mà chắc chắn sẽ tha cho ngươi, và tính mạng của cả nhà ngươi.”

Một bên là cờ Sô Ngu chết, một bên là cờ Bạch Hổ và Hoàng đế, quân đội một trăm nghìn người dưới tay Tư Mã Quýnh đều hiểu Trường Sa vương được Hoàng đế ủng hộ, cho nên mới dám lớn lối như vậy.

Tư Mã Quýnh tuyệt đối không ngờ rằng hoàng thất lại liên thủ với Trường Sa vương!

Rõ ràng hôm qua một nhà ba người còn ôm nhau thút thít, hôm nay đã dám “tạo phản” cứng đối cứng với mình rồi!

Tư Mã Quýnh nói: “Trường Sa vương dùng danh nghĩa của thiên tử phát hiệu lệnh cho chư hầu! Lòng dạ đáng chém, mau mau theo ta tiêu diệt tên tặc này! Bắn tên!”

Tư Mã Quýnh ra lệnh một tiếng, thủ hạ giương cung bắn tên, Trường Sa vương chỉ huy quân Hồng Tụ dựng lên tấm chắn không phòng vệ, Vương Duyệt điều khiển xe lùi lại, mũi tên đâm đùng đùng vào trên toa xe.

Tư Mã Quýnh nổi lên sát tâm, lão muốn giết luôn cả Hoàng đế.

Bởi vì số người của Tư Mã Quýnh thực sự quá nhiều, Trường Sa vương đứng đầu quân Hồng Tụ rất nhanh đã bị ép về chỗ tường vây Tây Uyển, hai bên vây quanh lỗ hổng trên tường bắt đầu đánh công kiên một cách chật vật, tình cảnh nhất thời rơi vào trạng thái cục diện bế tắc.

Tư Mã Quýnh nhìn quân đội một trăm nghìn người của mình bị chắn ở chỗ tường vây không thể động đậy, lão chia binh ngay thành hai đường, một nửa ở lại phủ Đại tư mã, một nửa kia ra ngoài từ cửa chính, sau đó đi đường vòng tiến đánh một cánh cửa thành khác của hoàng cung — lúc này quân Hồng Tụ đang tập trung binh lực công vào lỗ hổng ở tường Tây Uyển, cửa thành hoàng cung phòng thủ yếu kém, sau khi tấn công vào, hai mặt giáp công, quân Hồng Tụ nhất định sẽ tan tác.

Vương Duyệt và Tuân Hoán đều đang thủ thành, để phòng ngừa quân Hồng Tụ bị bao vây tứ phía, bọn họ bắn tên xuống dưới thành, chặn giết thị vệ leo thang trúc lên tường thành.

Thanh Hà và Phan Mỹ nhân thì tổ chức cung nhân xối từng thùng nước đá xuống.

Trong đêm thành Lạc Dương trời đông giá rét, nước đóng thành băng, từng thùng nước lạnh rót từ cổ xuống không thua gì bị bắn trúng một nhát, thân thể lạnh băng, tay chân cóng đến chết lặng, ngay cả binh khí cũng không cầm được.

Mọi người đồng tâm hiệp lực, hai mươi nghìn người đối phó với đợt tiến công thứ nhất của quân đội một trăm nghìn người của Tư Mã Quýnh, đã là nửa đêm rồi, là thời điểm người kiệt sức, ngựa hết hơi.

Tư Mã Quýnh thấy công thành không được, quân đội một trăm năm mươi nghìn người ngoài thành cũng chậm chạp không đến, lão nhất thời nôn nóng không thôi: Tại sao có thể như vậy được? Nhân số gấp năm lần bọn chúng, vì sao chỉ đánh ngang tay?

Tin tức quân đội của Tư Mã Quýnh đột nhiên tiến đánh hoàng thành trong đêm truyền khắp các sĩ tộc lớn trong Kinh Thành.

Lúc này hai trăm năm mươi lý của thành Lạc Dương đều đóng cửa lý, tin tức tắc nghẽn, bách tính bình thường còn đang hưng phấn trong thời gian ăn Tết, nhưng mà sĩ tộc có tin tức nhanh nhạy, cả đám đều bật dậy từ trên giường, giấu vợ con người nhà xuống dưới đất, đàn ông triệu tập đội tư binh của gia tộc, tự phát tuần tra trong lý, phòng vệ bốn cửa lý để ngừa bị loạn quân xâm nhập, đốt giết ăn cướp.

Bắt đầu từ Hán Mạt, hơn một trăm năm nay, Trung Nguyên vẫn luôn rung chuyển, phần lớn gia tộc ở tụ tập giống như Lang Gia Vương thị, trong tộc nuôi vũ trang tư nhân, bảo vệ người trong tộc.

Loạn thế, Hoàng đế và triều đại thay đổi nhiều lần, mọi người ăn bữa nay lo bữa mai, tư tưởng trung quân đương nhiên là mờ nhạt, tuy biết Tề vương Tư Mã Quýnh ngang nhiên phái binh tiến đánh hoàng cung nhưng vẫn không có ai đi Cần Vương.

Chuyện của Tư Mã gia, chờ bọn họ đánh xong, triệu tập quần thần vào triều, ai ngồi long ỷ thì người đó là Hoàng đế, từ triều Hán đến triều Nguỵ, từ triều Nguỵ đến triều Tấn, sĩ tộc đều như thế.

Ở Vĩnh Khang lý, Lang Gia Vương thị cũng triệu tập khẩn cấp tư binh tuần tra, bảo vệ người trong tộc.

Tộc trưởng Vương Nhung đã cùng thủ lĩnh của tư binh là Vương Đôn thương nghị đối sách trong từ đường gia tộc.

Vương Đôn nói: “Ta vừa mới phái tư binh điều tra nghe ngóng từng nhà từng hộ, bọn họ đều có mặt, chỉ có mẹ con Kỷ Khâu Tử không ở nhà, ta rất lo lắng.”

Vương Duyệt đi làm việc xấu, trong lòng Vương Nhung biết rõ, nhưng ông vạn lần không ngờ tới một người phụ nữ như Tào Thục, không chỉ không trói buộc con trai, ngược lại còn đi theo con trai làm loạn!

Vương Nhung tức giận đến mức râu ria run rẩy: “Gia chủ Kỷ Khâu Tử Vương Đạo này đi đến Kiến Nghiệp, để lại hai mẹ con này, nó đã mấy lần viết thư cho người hàng xóm là ta đây, muốn ta chăm sóc cho hai mẹ con này nhiều hơn. Nhưng ta dù sao cũng là người ngoài, sao có thể nhúng tay vào chuyện nhà người ta được? Tiểu tử Vương Duyệt này hôm qua đã khuyên ta tạo áp lực cho Tề vương, muốn hắn sửa lại tường hoàng cung, ta từ chối, nó chạy ngay đi đập tường nhà ta! Như thế vẫn chưa đủ, đêm nay hai mẹ con này đều chạy đi quyết tử chiến với Tề vương rồi! Nếu như mẹ con chúng nó xảy ra chuyện gì, ta có mặt mũi nào mà gặp Kỷ Khâu Tử?”

Vương Đôn quá sợ hãi: “Vương Duyệt và đường tẩu đều cuốn vào rồi? Chuyện này là thật?”

Vương Đạo và Vương Đôn là anh em họ, hai người đều cùng một ông nội. Anh em họ bình thường có quan hệ tốt đẹp, Vương Đạo cũng thường xuyên viết thư cho em họ Vương Đôn, muốn ông chăm sóc cho vợ con trong nhà.

Vương Nhung gật đầu: “Kỷ Khâu Tử phu nhân và Dương Hoàng hậu là bạn trao khăn, những năm gần đây rất thân thiết. Công chúa Thanh Hà còn thường xuyên ở trong nhà nàng ta, trộm lê và hồng của ta để ăn, ta mở một mắt nhắm một mắt, giả vờ như không biết thôi, hai mẹ con này đều ủng hộ Dương Hoàng hậu. Kỷ Khâu Tử lại không ở nhà, không có ai quản lý, một năm nay càng ngày càng bừa bãi rồi, không nhìn quy tắc gia tộc, tự tiện quyết định.”

Vương Đôn đứng lên nói: “Ta dẫn người đi ngay, cưỡng ép đưa Vương Duyệt và đường tẩu về.”

Vương Nhung nói: “Bên ngoài là chiến tranh loạn lạc, ngươi mang nhiều binh một chút, còn có, các ngươi mang theo thùng nước qua đó.”

Vương Đôn không hiểu: “Vì sao? Thùng nước thô to, có công dụng gì?”

Vương Nhung hỏi: “Nếu như nhìn thấy Vương Duyệt và thị vệ của Tề vương đánh nhau, ngươi sẽ giúp ai?”

Vương Đôn: “Đương nhiên là giúp Vương Duyệt rồi, nó là cháu ruột của ta mà.”

Vương Nhung nói: “Vậy thì không phải xuất hiện vấn đề rồi à, đối với ngươi mà nói chỉ là cứu chất nhi đường tẩu, lý lẽ chính đáng. Nhưng đối với bên ngoài mà nói chính là Lang Gia Vương thị chúng ta ủng hộ hoàng thất, đánh nhau với Tề vương.”

“Nhưng mà ngươi mang theo thùng nước đi đến hoàng cung thì khác. Ngươi cứ nói nhìn thấy hướng hoàng cung bị cháy rồi, Lang Gia Vương thị chúng ta lo lắng thế lửa lan rộng, đã xảy ra là không thể ngăn cản nên mang theo thùng nước tới cứu hoả, về phần thị vệ của Tề vương, chính bọn chúng là thủ phạm phóng hỏa, như vậy chúng ta sẽ xuất quân có tiếng, còn không bị cuốn vào phân tranh nội bộ Tư Mã gia.”

“Ngươi có thể đánh thị vệ của Tề vương — lấy danh cứu hoả là được.”

Lão hồ ly Vương Nhung này sắp thành tinh rồi, còn có thể để ông tìm được sách lược vẹn toàn, Vương Đôn dẫn ngay ba nghìn tư binh đến hoàng cung nghĩ cách cứu viện mẫu tử Vương Duyệt.

Hành quân gấp đến gần hoàng cung thì chạm mặt một đợt nhân mã, cũng mang theo thùng rỗng không có giọt nước nào.

Người đi đầu chính là Tuân Tung của nhà Dĩnh Xuyên Tuân thị - cha của Tuân Hoán.

Tuân Tung nhìn thấy thư con gái để lại thì sắp gấp đến điên rồi, ông vội vàng mang theo năm nghìn tư binh của Tuân gia chạy về phía hoàng cung.

Tuân Tung nhìn thấy thùng nước rỗng không có giọt nước nào trong tay Vương Đôn và tư binh thì ho khan hai tiếng: “ Lang Gia Vương thị các ngươi cũng tới cứu hoả à, đúng lúc, chúng ta cùng đi.”