Đô Thị Quỷ Ký

Chương 29: 29: Chó Âm






Hành động sợ hãi của Diệp Chi cũng khiến hắn sợ lây theo, nhưng trong tình huống này hắn không thể ôm đầu bịt tai như cô được, cả hai chỉ có thể dựa vào một mình hắn mà thôi.

Hắn hít vào một hơi để lấy thêm can đảm, bấm nút hạ cửa kính xe xuống để nhìn ra ngoài thì không thấy có ai nữa, người vẫy xe kia đã biến mất.

Chợt hắn phát hiện có một cái miếu nhỏ cách đó vài mét, vong quỷ vừa nãy là được thờ cúng trong cái miếu kia?
Ôm mối nghi hoặc trong lòng, hắn mở cửa xe bước xuống, tiến lại cái miếu kia xem xét.

Đây là miếu được xây trên một trụ chống chứ không phải loại nằm sát đất, dân gian vẫn cho rằng ở những nơi cô hồn dã quỷ vất vưởng thì chỉ cần xây một cái miếu nhỏ sát đất để thắp nhang là được, nhưng ở những nơi âm khí nặng, vong quỷ hoành hành thì phải xây một cái miếu có chân cao để lấy thêm dương khí trấn áp, đồng thời cho thêm phần trang trọng, thu hút người qua đường dừng lại cúng bái.

Hắn nhìn vào bên trong miếu, chỉ thấy có bát nhang thắp kín một nửa, ba chén nước để phía trước chỏng chơ, bên cạnh có lọ độc bình chứa vài thân hoa đã héo tàn, đối xứng phía bên kia là bó nhang còn được chừng chục que, cùng cái bật lửa rẻ tiền.

Một hơi gió lạnh thổi tới sau lưng, hắn quay lại nhìn ra xa, da gà toàn thân hắn thi nhau dựng đứng, đây là một đoạn đường cong, không có đèn đường, ánh trăng mờ ảo soi xuống một thứ ánh sáng nhàn nhạt, hai bên đường là cây cối um tùm, cành lá đung đưa phất phơ theo gió, sát với đám cây cối, trên lề đường hẹp, cứ cách một khoảng lại có một cái vong đứng bên đường chờ vẫy xe, chia nhau ra đứng từng đoạn, kéo dài từ trước khi tới miếu cho đến khi đi qua khỏi miếu.

Thì ra đoạn đường cong này là một điểm đen về tai nạn, cứ ai bị xe cán chết ở khúc đường này đều hóa thành vong quỷ, vất vưởng ở nơi thân xác bị đày đọa, giày xéo.

Cứ lẩn khuất mãi ở đây, chờ người hữu duyên đi qua thì vẫy tay xin quá giang một đoạn chứ không thể rời xa, xe đi xa khỏi miếu một chùng mực nào đó là vong quỷ phải rời xe mà trở lại nơi này.

Mục đích của những chuyến quá giang xe này là gì thì hắn không biết, có lẽ mỗi vong quỷ đều có một tâm tư khác nhau, nhưng nhìn cái miếu trơ trọi này thì hắn biết, tất cả bọn họ sẽ đều có một đặc điểm chung giống nhau, tất cả họ đều rất đói khát.

Hắn nhớ trước khi rời khỏi quán beefsteak hồi chiều, Diệp Chi đã ghé vào tiệm bánh bên cạnh mua một túi bánh bông lan rất ngon, loại thương hiệu nổi tiếng, để làm quà cho Thanh Thanh.

“Thanh Thanh, xem như cô chia sẻ phần bánh này cho những vong quỷ đói khát ở đây, tôi giúp cô tạo một phần âm đức, tuy rất nhỏ nhưng cũng là việc thiện.” Hắn vừa nghĩ trong đầu vừa quay lại xe lấy túi bánh và chai nước lọc ra.

Quay trở lại miếu, hắn xé phần vỏ bao làm dĩa đựng, lấy các miếng bánh bông lan thơm lừng ra đặt lên trên, để ngay ngắn phía trước bát hương, lại rót nước đầy ba cái chén cúng, thắp cháy ba que nhang.

Hắn cầm mấy que nhang trong tay, quay mặt hướng ra đường nói lớn: “Các vị, tôi chỉ là kẻ qua đường, hữu duyên gặp các vị ở đây, có chút phẩm vị gửi lại, mời các vị tùy nghi sử dụng.” Nói xong hắn cắm ba que nhang vào ngay ngắn trong bát hương, rồi trở lại vào trong xe.


Diệp Chi sau một hồi lâu bịt tai che mắt đã bớt sợ hãi, dần bình tĩnh lại.

Nghe tiếng động sập cửa thì từ từ ngẩng đầu lên, he hé mắt ra nhìn, thấy Lữ Hàn vừa ngồi vào ghế bên cạnh thì mạnh dạn hơn, bỏ tay ra khỏi tai, hỏi hắn: “Sao rồi anh?”
Lữ Hàn quay sang nhìn cô, vừa mở miệng toan trả lời thì khựng lại, âm thanh phát ra chưa trọn vẹn chỉ thành một hơi gió thoát ra khỏi miệng.

Diệp Chi nhất tâm mơ hồ, ngơ ngẩn đối chiếu ánh mắt với hắn, nhưng ánh mắt hắn vốn không nhìn cô.

Ánh mắt hắn đang từ từ chuyển dịch ra băng ghế phía sau.

Cô gái đứng vẫy xe khi nãy đang ngồi ở hàng ghế sau, vị trí ngay chính giữa.

Diệp Chi nhìn theo ánh mắt hắn, từ từ quay đầu lại, thấy một cô gái đang ngồi ở hàng ghế sau, phản xạ nhanh nhạy báo cho Diệp Chi biết thứ đang ngồi đó là gì.

Lữ Hàn nhìn ra chân thân của cô gái sau khi bị tai nạn, còn cô gái chỉ để cho Diệp Chi nhìn thấy hình ảnh của mình trước khi bị tai nạn, nhưng cũng đủ khiến cho Diệp Chi á khẩu, há hốc miệng không thốt nên lời mà cũng không ngậm miệng lại được, toàn thân cứng đơ quay đầu lại chầm chậm nhìn ra phía trước, không dám nhìn tiếp thứ phía sau nữa.

Còn Lữ Hàn lúc nãy đã có thừa bình tĩnh, chậm rãi cất tiếng: “Cô gái, hãy dùng ít bánh tôi để bên kia, còn bây giờ chúng tôi phải đi rồi, xin dừng bước ở đây.” Đoạn quay sang Diệp Chi: “Cô nổ máy xe thử xem.”
Diệp Chi tay run lẩy bẩy, phải vài lần thao tác mới vặn được chìa khóa đề máy, tiếng máy nổ lên, chứng tỏ cô gái kia đã đồng ý cho bọn họ đi tiếp.

“Được rồi, cô lái xe chạy đi.” Lữ Hàn nói nhỏ giọng nhưng mang một chút khẩu khí mệnh lệnh.

Xe chuyển bánh, dời đi được vài vòng bánh xe thì băng ghế sau đã không còn ai nữa.

Cô gái xuất hiện lại ở ngôi miếu bên đường, giơ tay nhẹ nhàng cầm lấy một cái bánh nhỏ, nhấc lên.

Xác phàm của cái bánh vẫn nằm im trên tờ giấy gói bằng nilon, nhưng phần năng lượng đã hóa thành một cái bánh mờ ảo, theo bàn tay cô gái nhấc lên, đặt vào trong miệng.


Đã rất lâu rồi, cô mới nếm lại được chút đồ ăn mỹ vị của chốn nhân gian, một giọt nước mắt trào ra, ánh mắt cô nhìn theo chiếc xe đang lăn bánh rời xa dần, trong lòng cảm thấy đau buồn vô hạn.

* * *
Xe chạy đến khu vực đông dân cư hơn, nhà cửa gần nhau hơn, Diệp Chi theo hướng dẫn trên điện thoại cho xe rẽ vào một đường nhỏ, trên bản đồ hướng dẫn cần chạy thêm khoảng 100 mét nữa, rẽ tiếp vào một đường nhỏ khác, chạy thêm một đoạn ngắn nữa là tới.

Chạy hết 100 mét, quả nhiên gặp một đoạn đường nhỏ cắt ngang, Diệp Chi cho xe rẽ vào, vừa đánh tay lái qua thì Diệp Chi hoảng sợ kêu lên: “Á, lại có ma vẫy xe tới nữa rồi.”
Trong ánh đèn xe chiếu xa xa, có một người con gái mặc bộ đồ ngủ, hai tay ôm vòng quanh người vì lạnh, đứng sát bên lề đường.

Tay lái Diệp Chi trở nên loạng choạng, cứng đờ, không trả tay lái lại được, suýt nữa là đâm vào hàng rào nhà người ta bên đường, Lữ Hàn vội chụp vào tay lái, giúp cô trả ngược tay lái thẳng lại, hắn chậm rãi nói: “Là người bình thường thôi, không phải ma đâu.”
Xe lăn bánh tới chỗ cô gái kia đang đứng, Diệp Chi bỗng thốt lên: “Ủa, ra là chị Thanh Thanh mà.”
Cô dừng xe lại, hạ cửa kính xuống, thò đầu ra gọi: “Chị Thanh Thanh, sao chị đứng ở đây vậy?”
Cô gái kia bị chói mắt, vẫn chưa nhận ra người ở trong xe là ai, Diệp Chi tắt đèn xe, tắt máy, tự giới thiệu: “Là em đây, Diệp Chi đây.”
Thanh Thanh giờ mới nhận ra: “Ơ, sao giờ này em mới tới? Bây giờ đã khuya quá rồi.”
“Em gặp chút chuyện trên đường nên bây giờ mới tới được, sao chị lại đứng ở đây vậy?”
Diệp Chi vừa hỏi xong thì từ sau lưng Thanh Thanh một người đàn ông bước ra hỏi: “Xe của ai dừng ở đây?”
Diệp Chi nhanh nhảu, miệng lưỡi ngọt ngào: “Chào anh ạ, em là Diệp Chi đây.”
“Cô là người bên bảo hiểm đấy à? Công ty các cô giờ tính thế nào?” Người đàn ông hỏi lại với khí thế hằn học.

“Dạ, thì hôm nay em đến để gặp anh chị đây, tính đến sớm, nhưng không ngờ gặp chuyện trên đường, phải chuyển hướng đi qua đồn cảnh sát, rồi mới tới đây nên vừa đợi thời gian trễ, vừa đi quãng đường xa hơn, nên mãi giờ mới tới được.”
Thanh Thanh ngạc nhiên: “Em gặp chuyện gì mà sao lại liên quan đến cảnh sát?”
Lữ Hàn nãy giờ vẫn ngồi trên xe, đánh giá tình hình, thấy Thanh Thanh có vẻ hòa hoãn, còn người đàn ông kia khả năng là chồng của Thanh Thanh thì tâm trạng có vẻ thù địch.

Hắn cân nhắc, quyết định dùng chiến thuật tâm lý đánh lạc hướng và áp đảo, nên dịch người qua sát tới Diệp Chi, bịa ra một câu chuyện, nói với hai người đang đứng bên ngoài:
“Do hôm nay xảy ra án mạng ở cây xăng trên đường, tôi là một âm dương sư, tới đó để trợ giúp cảnh sát, hai người có biết cái cây xăng từ đường lớn rẽ vào, có hai trụ bơm xăng cũ, han rỉ, bong tróc, phía trước có bồn nước to bằng nhựa màu xanh không?”
Thanh Thanh gật đầu: “Có, từ đây về thành phố thì giữa đường chỉ có một cây xăng đó thôi, anh nói ở đó xảy ra án mạng?”

Hắn gật đầu: “Hôm nay một nhân viên ở đó bị sát hại, tôi tới đó gọi hồn người nhân viên bị giết ra, tìm kẻ thủ ác, giúp cảnh sát lập tức bắt giữ hắn ngay trong đêm, hóa ra đó là một tên nghiện, muốn sát hại người nhân viên đó để cướp tiền.

Người nhân viên bị sát hại đó là một bác trai lớn tuổi, người ốm, thấp, tóc muối tiêu nhưng phần trắng nhiều hơn, một bàn tay có tới sáu ngón, hai người biết người nhân viên đó không? ” Hắn cố gắng nhớ lại hình ảnh vong quỷ kia để miêu tả.

Chồng của Thanh Thanh bước lên, xen vào câu chuyện: “Tôi có biết, mọi người vẫn hay gọi là bác Sáu Hà, chính là do cái bàn tay có sáu ngón đó, ông bác đó bị chết rồi?”
Lữ Hàn gật đầu: “Phải, chết rồi, nhưng do bị sát hại nên không siêu thoát, hơn nữa không ai biết kẻ thủ ác là ai, nên tôi phải gọi ông ta ra, chỉ rõ kẻ thủ ác cho phía cảnh sát bắt giữ.”
Thanh Thanh rụt rè: “Anh nói anh là âm dương sư?”
“Phải, nhà hai người trước đây nuôi rất nhiều chó à?”
“Không, nhà chúng tôi chỉ có hai con mèo thôi, không có nuôi chó, sao anh lại hỏi như vậy?”
Lữ Hàn không trả lời, cau mày trầm ngâm, suy nghĩ, hỏi lại: “Gần đây, trong nhà hai người có mới vừa đem vật gì kỳ lạ về hay không?”
Thanh Thanh nhìn qua chồng, ngập ngừng như muốn nói gì đó.

Người chồng cũng liếc cô, nuốt nước miếng một cái rồi hỏi lại: “Sao thầy lại hỏi như vậy?”
Người chồng chuyển cách xưng hô từ đời thường qua cách xưng hô đối với người trong giới huyền thuật, Lữ Hàn hiểu rằng mình đã đặt được viên gạch đầu tiên trên con đường xử lý chuyện rắc rối này, hắn nói chậm rãi: “Phía sau hai người là một bầy chó âm, chừng chục con, đứng đầy trong sân, hai người thành thật nghĩ lại xem, đã đem thứ gì kỳ lạ về trong nhà rồi?”
Hai vợ chồng lại nhìn nhau, rồi người chồng quay qua đáp: “Thú thật với thầy, tôi mới xin được một lá bùa về dán vào trước cửa, để trấn ma quỷ thôi, chứ ngoài ra không có gì lạ.”
“Dẫn tôi đi xem lá bùa nào.” Lữ Hàn nói với người chồng bằng khẩu khí mạnh mẽ, đoạn bước xuống xe, theo hai vợ chồng vào trong sân nhà, Diệp Chi cũng leo xuống, lẽo đẽo theo sau.

Sân nhà ở khu ngoại ô rộng rãi hơn hẳn nhà trong thành phố, nền sân lát xi măng ở giữa, trải dài qua một bên sát với chân tường, bên còn lại là những khoảng đất trồng rau và các loại cây bụi, chậu hoa.

Băng qua mảnh sân, đến trước cánh cửa chính ra vào nhà, người chồng dùng một bàn tay hướng về phía một tờ giấy màu vàng dán trên tường cạnh cửa, quay lại nói với Lữ Hàn: “Đây là lá bùa tôi mới thỉnh về.”
Lữ Hàn chăm chú quan sát, là một lá bùa màu vàng, trên đó vẽ loằng ngoằng các thứ mà hắn chẳng hiểu, có điều hắn vẫn nghiêm giọng hỏi: “Anh đưa về đây từ khi nào?”
“Chỉ mới chiều này thôi.” Người chồng đáp.

“Anh có thể giới thiệu sơ qua về vị thầy mà anh đã xin lá bùa này không? Ví dụ như ông ta ở có gần đây không? Tiếng tăm thế nào? Sở trường chuyên về những loại bùa chú nào…?”
“À, ông ta chỉ là thầy bùa bình thường, cũng không nổi tiếng lắm, tôi cũng không rõ ông ta chuyên về loại bùa gì, chỉ là có dịp ngồi uống rượu mấy lần với ông ta nên cũng có quen biết.

Trưa nay tôi cùng mấy người bạn ăn cơm, uống rượu ở nhà ông ta, chợt nhớ tới rằng, dạo này vợ tôi cứ bảo trong nhà có ma quỷ nên sẵn tiện tôi hỏi ông ta có lá bùa nào trừ tà không? Ông ta bảo có, rồi bước vào trong, lát sau cầm ra cho tôi lá bùa này bảo đem về dán trước cửa là được.”
Lữ Hàn chớp mắt, vận Thấu Thị của mình mạnh hơn một chút, quan sát kỹ lá bùa, thấy lá bùa chỉ tỏa ra một quầng khí xám nhàn nhạt, hắn hiểu rằng lá bùa này linh lực rất tệ, chỉ có thể điều khiển được vong của mấy con chó mà thôi, liền thở dài một hơi, quay sang nói với người chồng: “Lá bùa này quả thật cũng có tác dụng, nhưng chỉ là sai khiến một đám chó âm đi theo anh về nhà này, giữ gìn trước cửa cho anh mà thôi, cùng lắm gặp những tên trộm yếu bóng vía, lén lén lút lút đột nhập vào, chúng có thể sủa được vài tiếng văng vẳng, hoặc quấn chân khiến tên trộm nhút nhát cảm giác bước đi hơi nặng nề một chút, chứ hiệu quả để trừ tà, e rằng…”
Hắn cố gắng lựa chọn từ ngữ, nghe lõm mấy lớp học đào tạo dành riêng cho nhân viên tư vấn, hắn cũng biết chút ít về tâm lý giao tiếp, trong đó mở miệng chê bai đối thủ là cách nhanh nhất và ngắn nhất để đánh mất khách hàng, “E rằng, hiệu quả có hơi khiêm tốn.” Nói xong hắn giơ tay chỉ chỉ trỏ trỏ, đếm vong của mấy con chó, “Tôi đếm được, có cả thảy mười hai con, đang ngúng nga ngúng nguẩy đi lại trong sân nhà, thỉnh thoảng lại sủa nhặng xị lên đây.”
Thanh Thanh đột nhiên lên tiếng: “Hèn gì, tối nay tôi đi ngủ sớm, chợp mắt một chút lại cứ nghe văng vẳng tiếng chó sủa bên tai, thế rồi…”
Thấy Thanh Thanh ngập ngừng, Lữ Hàn hỏi ngay: “Thế rồi… thế nào?”

“Thế rồi, tôi thấy có một đứa bé nắm tay tôi dẫn ra trước cửa, thức dậy, ngủ lại lần thứ hai cũng thấy như vậy nên tôi dậy hẳn, ra trước cổng, mới đứng một lúc thì thấy Diệp Chi và thầy tới.”
Người chồng xen vào: “Vợ tôi dạo này cứ thần hồn nát thần tính thế đấy, nằm xuống là mơ mộng lung tung, tôi khuyên không được nữa.”
Thấy cơ hội để lấy lòng đối phương đã tới, Lữ Hàn gật đầu với người chồng: “Nhưng dù sao anh cũng đã xin lá bùa này về dán trước cửa, nghĩa là đã có lòng muốn giúp đỡ vợ anh, đối với người không thuộc giới huyền thuật như anh thì hành động đó cho thấy anh là người trọn tình trọn nghĩa rồi.”
Bức tường ngăn cách giữa mọi người hoàn toàn bị phá vỡ, người chồng vui vẻ, chắp tay: “Cảm ơn thầy.” Rồi anh ta phân vân: “Vậy lá bùa này và mấy con chó thì xử lý ra sao?”
Lữ Hàn suy nghĩ một thoáng rồi đáp: “Cũng không có gì quá ảnh hưởng, anh cứ để vậy cũng được, chỉ có điều mỗi ngày thì dành ra một ít đồ ăn cho chúng ăn, đợi một lúc chúng ăn xong thì đem cho mèo ăn là được.”
Người chồng ngạc nhiên: “Chúng là chó ma, cho chúng ăn như thế nào được?”
Hắn kiên trì giảng giải: “Anh cứ tưởng tượng nuôi một con chó thật như thế nào thì làm y như thế ấy, nghĩa là kiếm một cái tô riêng, gia đình ăn cơm thì dành ra một phần cơm và thức ăn, trút vào cái tô đó, đem ra đặt một góc nào đó cho chó ăn, đợi cho chúng ăn xong rồi đem qua cho mèo ăn, chỉ có khác một điều là lúc đem thức ăn ra thì trong lòng anh phải tác ý muốn cho chúng ăn, nói ra thành lời luôn thì càng tốt, chỉ cần vậy là chúng sẽ ăn được.”
Nhìn vẻ mặt của hai vợ chồng vẫn đang trong quá trình tiêu hóa câu chữ của mình, hắn chép miệng: “Thế này đi, trong nhà còn cơm và đồ ăn dư của buổi tối nay không?”
Thanh Thanh gật đầu: “Vẫn còn một ít.”
“Tốt, cô đi lấy thức ăn ra đây, còn anh, đi kiếm một cái tô cũ nào đó lại đây.” Hắn phân phó hai vợ chồng.

Một lát sau, những thứ hắn phân công đã xuất hiện đầy đủ, hắn trút cơm và thức ăn vào cái tô cũ, đặt xuống một chỗ gần chậu cây cảnh to, nhìn mấy cái vong đang ngoắc ngoắc đuôi xung quanh, nói chậm từng chữ một: “Tụi bây lại ăn cơm đi.”
Cả đám chó âm lập tức bu lại, xúm xít, chen chúc nhau, chụm đầu vào ăn.

Khác với chó thật, lũ chó âm chen chúc nhau không kể đến khoảng cách vật lý, con này cứ chồng lấp lên con kia, tuy đàn chó tới mười hai con, nhưng chụm đầu chung vào một cái tô vẫn đủ hết được cho tất cả.

Hắn nhìn cảnh đó liền mô tả cho hai vợ chồng cùng nghe.

Nghe xong, người chồng thắc mắc: “Vậy có cần cho chúng uống nước không?”
Câu hỏi làm hắn chưng hửng, quả thật từ trước đến nay hắn chưa từng nghĩ đến việc ăn uống của vong có cần dùng nước hay không.

Bỗng một tia sáng lóe lên trong đầu, hắn gợi ý: “Khi thờ cúng, nhà anh có thói quen đặt nước lên bàn cúng không?”
Thanh Thanh trả lời hộ chồng: “Có, trên bàn thờ vẫn có ba chén nước cúng.”
Chưa đợi Lữ Hàn phản ứng, người chồng đã nhanh nhẹn: “Vậy nghĩa là chúng cũng cần uống nước.”
Lữ Hàn trầm ngâm một thoáng rồi đáp: “Làm thế là trọn vẹn, nhưng cũng không cần phải tuyệt đối quá, cho chúng ăn không vậy cũng được rồi, có nước cũng được, không có cũng được.”
“Thôi, cứ cho chúng thêm một chút nước cũng không mất mát gì.” Nói xong, người chồng lại chạy đi kiếm một ca cũ, hứng nước vào rồi đặt xuống cạnh tô cơm.

Hành động này của người chồng tuy rất nhỏ, nhưng từ sâu xa trong lòng, Lữ Hàn nhận ra một chút tâm tư vi tế của người chồng có thiện căn.