Độc Lộ

Chương 175: 175: Thuận Nghịch






Thời gian cứ chậm rãi trôi.
Không biết bao lâu, Việt mới từ từ mở mắt.

Đôi mắt hắn tràn đầy thâm thúy, lóe lên tia sáng trí tuệ như của một bậc hiền nhân.

Có thể dễ sàng nhận thấy, so với lúc trước, khí thế trên người hắn hoàn toàn chẳng có chút thay đổi gì.
Tốn nhiều thời gian tu luyện như vậy, nhưng hắn vẫn không tài nào đột phá Đệ nhị Bộ, cứ giậm chân ở Bước thứ nhất mà thôi.
- Rốt cuộc sai lầm ở đâu vậy?
Việt khẽ nhíu mày, vẻ thâm thúy đầy giả tạo mới đây thôi đã biến mất, thay vào đó là sự nghi hoặc, ánh mắt nồng đậm hoang mang.

Không hoang mang sao được khi hắn đã rất cố gắng tìm kiếm Âm Dương nhị khí trong mảnh hỗn độn nhưng hoàn toàn biệt vô âm tích.
Thế giới của hắn, về cơ bản chính là nhân thể, mà nhân thể với âm dương học, thể hiện rõ ràng nhất chính là lục phủ ngũ tạng.

Phủ thuộc dương, tạng thuộc âm, đó có lẽ là kiến thức cơ bản mà ai cũng hiểu.
Tuy nhiên Nghịch Tu chi lộ hiển nhiên không đơn giản như vậy, đó không phải nơi khởi nguồn của Âm Dương nhị khí.

Đây không phải suy đoán chủ quan mà kết luận chính xác, hắn đã cố gắng tìm kiếm vạn vật mẫu khí theo phương vị của phủ tạng, nhưng bất thành.
Ngoài phủ tạng ra, âm dương ứng với cơ thể người còn biểu hiện ở ngực bụng và lưng, ở trên và dưới thắt lưng, ở huyết tủy và năng lực, ở cấu trúc và chức năng..., nhưng những biểu hiện như vậy về cơ bản là rất mông lung, thực tế không giúp được gì cho hắn.
- Má nó, chẳng nhẽ từ bỏ?
Việt có chút không cam tâm, đương nhiên rồi, cam tâm sao được khi đã đi tới bước này rồi mà không làm ăn được gì.


Nghịch Lộ vốn dĩ muôn vàn khó khăn, điều đầu tiên chính là đạo pháp thích hợp.

Đạo pháp không cầu mạnh mẽ, không cầu cao thâm huyền ảo, chỉ cần có cái nhìn toàn diện và sự thấu hiểu đối với khởi nguyên của thế giới, cụ thể là sự hình thành của từng loại quy tắc thiên địa.
Nay vừa vặn gặp được bộ Âm Dương Kinh này của vị cổ nhân Đại Việt, có thể nói bên trong thể hiện cái nhìn cực kỳ thấu triệt đối với động lực phát triển của thiên địa thuở sơ khai, Âm Dương diễn biến thế giới.

Nắm giữ một thiên kinh thư thần kỳ như vậy, vẫn không thể bước vào Đệ nhị Bộ, không thể cam tâm!
Chậm rãi đứng dậy, Việt ném những nghi vấn ra khỏi đầu, có những thời điểm dù không cam tâm đến mức nào thì cũng vô dụng mà thôi.

Hắn quyết định sang xem nốt phần Đệ nhị thiên của Thuận Nghịch kinh ở phía bên kia, nếu không giúp được gì cho việc đột phá thì nên nhanh chóng rời khỏi Thiên Nguyệt Bí cảnh.
Quả thực nhiều năm sống trên lưỡi đao đầu súng đã giúp Việt rèn giũa nên một tinh thần thép, có thể thản nhiên trước mọi việc.

Chỉ có điều nếu hắn biết, đột phá Bước thứ hai mới có thể rời khỏi Thiên Nguyệt bí cảnh, thì gương mặt hắn sẽ trở nên đặc sắc đến mức nào.
"Thuận Nghịch kinh"
Nhìn ba cổ tự Khoa đẩu trên cao, ngay ngắn nhưng thô ráp, nguệch ngoạc nhưng dứt khoát, không có đường nét rồng bay phượng múa bút phục giấy chờ như những dòng bút tích của Như Nguyệt Vương.

Điều này cũng không có gì khó hiểu nếu biết đến xuất thân của hai vị danh nhân này.
Xuất thân của Việt quốc công tương đối mù mờ, về cơ bản có hai giả thiết được công nhận.

Theo gia phả họ Ngô thì Việt quốc công là con của Sùng Tiết tương quân Ngô An Ngữ, và là cháu sáu đời của Ngô Vương.


Theo Đại Việt sử lược thì ông lại là con của Thái úy Quách Thịnh Dật dưới triều đại Lý Thái Tông.

Nhưng dù là xuất thân nào thì cũng thuộc dòng dõi làm quan, văn chương thư pháp đều nhất tuyệt.
Còn Thái Tổ nhà Hậu Lê, tuy không trải qua thời thơ ấu khó khăn gì, nhưng gia đình ba đời cũng chỉ làm quân trưởng một vùng đất bé nhỏ, đến thời của mình thì Thái Tổ cũng chỉ làm chúa trại Lam Sơn mà thôi.
Tuy nhiên nét chữ mặc dù thô ráp đơn giản nhưng đường nét cực độ sắc bén, lại có sát khí lạnh lẽo không ngừng thẩm thấu ra, chỉ bấy nhiêu thôi đã thấy được phần nào phong thái của bậc vương giả trong kiếm đạo.
- Thuận và Nghịch, có chút gì đó giống âm và dương!
Việt bắt đầu xem xét nội dung của Thuận Nghịch Kinh Đệ nhị thiên này.
"Thuận đạo trời thì hưng, nghịch đạo trời thì vong!"
Chỉ một câu đầy triết lý, nhưng khiến Việt bắt đầu có chút dị ứng.

Thứ hắn truy cầu là tự do, là thích làm gì thì làm, thấy thứ mình khoái thì cướp, gặp người mình thích thì kết giao, không cần và cũng không muốn phải thuận theo bất kỳ thứ gì, dù đó là ông trời.
Tuy nhiên hắn vẫn kiên nhẫn chuyển ánh mắt xuống đọc tiếp, tu gia vốn dĩ là tranh giành thọ nguyên với thiên địa, nếu chỉ đơn giản là thuận thiên thì khó làm nên cơm cháo gì.
"Vậy cái gọi là Thiên, rốt cuộc là gì?"
- "Thiên" không phải là trời sao? Mà không đúng, bầu trời thì làm sao có thuận hay nghịch chứ, vậy "Thiên" là gì?
Những cuốn kinh thư luôn có sức hấp dẫn của riêng nó, khiến suy nghĩ của Việt bị cuốn theo những dòng khắc trên vách núi lúc nào không hay.
"Không phải chỉ đơn thuần là khoảng không vũ trụ đối xứng với mặt đất, mà ‘Thiên’ là để chỉ tất cả những gì thuộc về tự nhiên, thuộc về tạo hóa đất trời.
Tự nhiên có quy tắc của mình, không có ngoại lệ cho bất kỳ ai.

Hễ ai đốt đuốc đi trong mưa ắt sẽ tắt, ai bắn trúng chim sẽ được thịt.


Nước gió xuôi tất chèo thuyền sẽ mau tới mà dễ, nước gió ngược tất thuyền chèo sẽ chậm và hay va chạm...
Sinh mệnh đều có thọ nguyên, tu lộ hiểu đơn giản chính là quá trình phá vỡ quy tắc này, không ngừng tranh đoạt thọ nguyên với đất trời, như vậy hiển nhiên là nghịch thiên.
Thế nhưng bước lên tu lộ, tu giả không ngừng vượt qua các ràng buộc, thích nghi với các quy tắc của thiên địa, đó chính là quy luật phát triển của sinh mệnh: không thể thích nghi đồng nghĩa với tử vong, chỉ có phát triển mới có thể tồn tại.

Vậy thì tu đạo chẳng phải là thuận thiên hay sao?
Như vậy, thuận hay nghịch, vốn dĩ là do cách nhìn mà thôi!"
Cái này...Việt bắt đầu có chút hồ đồ rồi, nhưng sau khi ngẫm lại thì lại thấy rất đúng, khiến hắn nhớ đến một thuyết cực kỳ nổi tiếng ở Địa cầu - thuyết tương đối của nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ 20.
- Mọi thứ chỉ là tương đối! Đúng vậy, thuận hay nghịch, hoàn toàn là do cách nhìn mà thôi!
"Quy tắc vận động của thế giới, không nằm ngoài một chữ dịch, bất dịch đồng nghĩa với diệt vong.
Linh và Khí, là hai loại quy tắc đầu tiên của thế giới, đại diện cho sinh mệnh và vận động, nghe qua thì chẳng có gì liên quan, nhưng thực tế lại có quan hệ mật thiết với nhau, vừa thuận vừa nghịch, nghịch nhau mà sinh, thuận thế mà tiến.
Linh chính là khởi nguyên của thế giới, là quy tắc cơ bản nhất để thế giới tồn tại, nhưng có khởi đầu thì phải có kết thúc, bản thân nó cũng có điểm tận cùng của mình.

Căn nguyên của thế giới đi đến chung điểm, ‘Linh’ chi quy tắc tràn ngập sinh mệnh cũng dần dần chuyển thành tử vong.
Đứng yên đồng nghĩa với diệt vong, thế giới muốn tiếp tục tồn tại bắt buộc phải chuyển dịch và phát triển, loại quy tắc thứ hai cũng theo đó xuất hiện.
Như vậy sự vận động được sinh ra là do đối nghịch với trạng thái đứng yên chết của thế giới, của ‘Linh’, nhưng lại thuận theo tự nhiên.

Nói rằng thuận hay nghịch vốn dĩ do cách nhìn, là vì lẽ đó.
Thế giới càng phát triển, sự chuyển dịch càng lớn thì sinh mệnh lại càng mạnh mẽ.

Sinh mệnh lớn mạnh, theo đó yêu cầu phát triển lại càng lớn, tác động ngược lại sự vận động của thế giới, như vậy Linh và Khí thuận nhau mà vận hành, thế giới cũng theo đó không ngừng phát triển.
Nhưng khi ‘Khí’ đạt đến đỉnh điểm, thế giới phát triển quá mức có thể dẫn đến hỗn loạn, ‘Linh’ lại chuyển về trạng thái cực tĩnh, hai bên đối nghịch kìm kẹp nhau giữ cho thế giới được ổn định.
Như vậy thuận hay nghịch, không chỉ từ cách nhìn, mà còn tùy thời điểm, tùy mục đích.

Thấu hiểu được thuận và nghịch giữa ‘Linh’ và ‘Khí’, chính là nắm giữ được sự chuyển dịch của cả đất trời, từ đó nắm giữ sự chuyển dịch của kẻ địch.”

Việt chìm đắm trong những dòng giảng giải về quy tắc vận động của thiên địa, về sự chuyển dịch của cả đất trời, đầu óc không tự chủ được mà liên tục xoay chuyển, bắt đầu tìm kiếm sự liên hệ giữa Âm Dương kinh và Thuận Nghịch kinh.
- Theo Việt quốc công thì khởi nguyên của sự vận động là Âm Dương nhị khí, còn theo Thái Tổ thì khởi đầu của ‘Khí’ lại là trạng thái tĩnh của ‘Linh’.

Hai giả thuyết này có sự liên hệ gì không?
- Trạng thái tĩnh, dẫn đến diệt vong, từ đó sinh ra sự chuyển dịch!
- Âm Dương đối nghịch, từ đó tạo động lực cho sự vận động!
Không biết bao lâu trôi qua nhưng Việt vẫn cứ đứng đó, ngẩng đầu nhìn những dòng chữ thô ráp trên vách núi, nhừng từ ánh mắt mê man có thể thấy được hắn không phải đang đọc chữ.

Những suy nghĩ cứ liên tục xoay chuyển trong đầu, hắn không tài nào dứt ra được, không phải do bản thân đã quá trầm mê, mà hắn cảm giác được mình đã sắp nắm được mạch suy luận rồi.
- Âm Dương đối nghịch, tạo ra động lực.

Khoan đã, Âm Dương là vạn vật mẫu khí không sai, nhưng chưa hẳn đã cùng lúc sinh ra.

Đúng vậy, Âm Dương kinh có viết, trong âm có dương, trong dương lại có âm, âm sinh ra dương, dương lại sinh ra âm, đó vốn dĩ là một quá trình liền mạch!
- Trạng thái tĩnh, dẫn đến diệt vọng.

Trạng thái tĩnh, chẳng phải cũng thuộc về Âm tính hay sao? Tĩnh đến mức diệt vong, có thể coi là Âm cực, từ đó sinh ra sự chuyển dịch, chính là sinh Dương.
- Hiểu rồi! Thứ ta cần tìm, không phải là Âm Dương, mà là Dương sinh!
Ánh mắt sáng rực, Việt như choàng tỉnh sau một giấc mộng dài, khoanh chân ngồi xuống.

Hắn không thể nào chờ được, muốn kiểm tra suy nghĩ của bản thân.
Đệ nhị Bộ, ta chuẩn bị tới đây!.