Giấy Ngắn Tình Dài – The Cardesiseur [Hệ Liệt 2]

Quyển 2 - Chương 97: Đánh giá cao cái “đầu chó con”




Khi Vưu Kiện trở về nhà chính thì ngoài trời đã tối đen như mực. 

Trên người gã thoang thoảng mùi rượu, từ ngoài sân đi vào phòng khách không quá hai mươi bước chân, nhưng gã chật vật một lúc mới có thể đến nơi. Tài xế đứng bên cạnh muốn đỡ lấy thì bị gã gạt tay, quát khẽ. 

Trong phòng khách không bật đèn sáng choang như mọi hôm. Bầu không khí yên tĩnh và ngột ngạt, nhất thời đè ép thần kinh của Vưu Kiện. Gã lắc đầu, vịn tay lên thành ghế, muốn nới lỏng cà vạt trên cổ. 

Đúng lúc ấy, từ trên lầu có một bóng đen từ từ bước xuống. Tiếng bước chân khẽ khàng mà lạnh lẽo, khiến cho chú tài xế vốn đang loay hoay cùng Vưu Kiện phải rùng mình, ngẩng đầu lên nhìn một cái. 

“Cậu Cả.” Chú tài xế trông thấy Vưu Thần, lập tức cúi người cung kính.

Vưu Thần vừa mới hạ cánh cách đây năm tiếng trước, trên người còn mặc nguyên vẹn bộ quần áo trong phòng họp. Ánh mắt sâu hun hút như đáy vực, y thờ ơ liếc nhìn người tài xế vẫn đang cúi người, lạnh nhạt cất tiếng:

“Lui.” 

Người tài xế kìm nén run rẩy, vội vội vàng vàng cúi chào rồi xoay người biến mất như khói. 

Bấy giờ, Vưu Kiện mới tỉnh táo, ngẩng đầu nhìn sang bên cạnh. Lúc tầm nhìn đã rõ ràng hơn một chút, gã nhất thời sửng sốt, toàn thân cứng đờ. 

“Anh Cả?” 

Một tiếng gọi kinh ngạc cất lên, nhưng còn chưa kịp nói tiếp câu sau, một bạt tai đầy tức giận đã giáng xuống gò má của Vưu Kiện. 

Cả người Vưu Kiện lảo đảo, may sao gã kịp thời chống tay xuống bàn. Một bên gương mặt nhanh chóng sưng tấy, đau đớn tê người. Gã đưa tay sờ lên mặt mình, qua hồi lâu vẫn không biết phải nói gì. 

Vưu Kiện hiểu vì sao Vưu Thần lại làm như thế. Vì sao vừa mới gặp mặt nhau thì đã tức giận cho gã một bạt tai điếng người. Còn vì sao được nữa? Chẳng phải là vì bản thân gã không làm tròn trách nhiệm hay sao? Vì không làm tròn trách nhiệm của một người anh trai, cho nên mới bị đánh như vậy. 

Vưu Kiện cắn răng chịu đau, không mở miệng đôi co nửa lời. 

“Từ khi nào?” Vưu Thần đứng thẳng lưng, rũ mắt hỏi. 

Vưu Kiện loạng choạng đứng lên, đưa tay lau đi vệt máu bên khóe miệng, khàn giọng đáp: “Ba ngày trước, vào đêm sinh nhật của anh.”

“Đến tận hôm nay mới phát hiện?” Giọng của Vưu Thần vẫn lạnh như băng. 

“Vâng.” 

“Những ngày đó em đã làm gì?” 

“…” 

“Đã làm gì?”

“Em…”

Bỗng, Vưu Thần vươn tay siết lấy cổ Vưu Kiện, nghiến răng từng chữ trong cơn giận dữ: “Rốt cuộc đã làm cái quái gì trong những ngày đó? Hả?!”

“Em…” Vưu Kiện không vùng vẫy, chỉ cố gắng nói bằng giọng gió, “… Em xin lỗi, em sơ suất…” 

Vưu Thần nhắm mắt lại, đồng thời buông tay. Ngay sau đó, Vưu Kiện ngã ngồi trên đất, hoảng hốt hít liên tục mấy ngụm khí vào phổi. Gã sờ sờ cần cổ, cảm giác vừa nghẹt thở vừa đau đớn lan khắp cơ thể. 

Bình thường, Vưu Thần là một người cực kỳ kiệm lời và lạnh lùng. Nhưng chỉ cần có một chuyện không vừa lòng hoặc chạm vào điều tối kỵ của y, y sẽ lập tức trở thành một con quỷ hung tàn nhất trên đời này. 

Từ hơi thở đến ánh mắt, tất thảy đều ngập mùi chết chóc. 

Vưu Thần xoay lưng về phía Vưu Kiện, đầu mày chau tợn, ngữ khí ngược lại không nghe ra được là có còn căm giận hay không. 

Y chỉ nói vỏn vẹn bốn chữ, nhưng qua bốn chữ này, Vưu Kiện có thể nhìn thấy được một tương lai không mấy tươi sáng của Tề Cao Vân. 

“Đem nó về đây.” 

— 

Vưu Hạ ngủ li bì suốt năm ngày. Nếu có khoảnh khắc anh chợt tỉnh cũng chỉ kéo dài khoảng vài phút mà thôi. 

Mỗi lần Vưu Hạ giật mình choàng mở mắt, toàn thân đều run lẩy bẩy như gặp phải một cơn ác mộng khủng khiếp nào đó. Trên trán không đổ mồ hôi, nhưng qua đôi mắt bần thần cũng đủ hiểu được anh mệt mỏi tiều tụy đến nhường nào. 

Một đêm đầu Đông tĩnh lặng. 

Vưu Hạ nằm yên bất động trên giường, hơi thở đều đặn nhịp nhàng. Song, trong một thế giới khác, anh đang lang thang vô định, đi mãi đi mãi vẫn không thấy một đích đến.

Không gian xung quanh mờ ảo vì bị phủ một lớp sương dày đặc và lạnh lẽo. Vưu Hạ lần dò từng bước, từng bước, cho đến khi thấp thoáng nghe thấy có tiếng cười nói của trẻ con vang lên. Anh hít thầm một hơi, men theo âm thanh phát ra mà đi về hướng đó. 

Qua lớp sương mù, anh phát hiện có một lớp học. Bên trong có rất nhiều học sinh, tiếng cười nói có lẽ xuất phát từ đây. Vưu Hạ đứng bên ngoài nhìn vào một hồi thì bất chợt cảm thấy chóng mặt. Anh nhíu mày, lắc lắc đầu, chẳng bao lâu thì nhận ra mình đang đứng bên trong lớp học nọ. 

Có vài ba đứa trẻ xoay quanh một bạn học nam. 

“Lần này điểm Tập Làm Văn của cậu vẫn cao nhất lớp đó.” 

“Hạ Hạ đúng là thiên tài. Môn nào cậu cũng đứng nhất hết trơn.”

“Cho tụi mình đọc thử bài văn của cậu nha?”

“U Woa, Hạ Hạ viết về anh trai hả? Anh trai của cậu giỏi đến vậy thật ư?”

“Đâu đâu? Aw, mình cũng muốn có một anh trai như vậy.” 

“Hạ Hạ, cậu có viết quá lên không đó? Thật sự có người hoàn hảo như thế hả?”

Lúc bị hàng đống câu hỏi vây quanh, đứa nhỏ được gọi là Hạ Hạ kia không chịu được mà giành lại bài văn của mình. Khuôn mặt của nó hơi đỏ lên, nhưng không phải vì ngại, mà là vì giận. 

“Mình không biết nói dối đâu! Anh Cả của mình rất giỏi, giỏi gấp mấy trăm lần so với người khác. Sau này mình cũng sẽ tài giỏi giống anh ấy.” 

Đám bạn nhỏ nghe xong, ai nấy cũng mắt sáng trưng như sao, lấp lánh lấp lánh đầy ngưỡng mộ. 

Vưu Hạ rũ mắt nhìn đứa nhỏ viết về anh trai, đáy mắt gợn lên một làn sóng nhỏ. Nhưng sau đó, bên tai anh thình lình vang lên một tiếng khóc thét xé trời. 

Vưu Hạ giật mình ngoảnh đầu tìm kiếm, lúc này mới phát hiện khung cảnh đã bị thay đổi. Trước mặt anh không còn là lớp học nữa, thay vào là một đại sảnh rất lớn. Xung quanh có nhiều người vây quanh, chính giữa là một đứa trẻ. 

Đứa trẻ đang gào khóc trên nền đất. 

Bên cạnh đứa trẻ là một người đàn ông, trong tay người ấy có một sợi roi điện. 

Trái tim Vưu Hạ nảy lên thật mạnh. 

Mỗi khi sợi roi sượt qua da thịt đứa trẻ, anh mơ hồ cảm giác cơ thể của mình cũng đau đớn quằn quại. 

Không… Đừng đánh… Đừng đánh nữa…

“Đừng, đừng đánh… Đừng đánh nữa…”

Trên giường, Vưu Hạ thì thào trong hoảng loạn. Bên cạnh anh đang có một bóng người luôn túc trực không ngừng. Ngay khi nghe thấy giọng nói mê sảng của đối phương, Vưu Thần lập tức ngồi thẳng dậy, nắm lấy bàn tay lạnh buốt kia. 

“Hạ Hạ…” Vưu Thần cúi đầu, thấp giọng gọi. 

Vưu Hạ mơ mơ màng màng thì thào thêm một lúc mới thôi. 

Đúng lúc ấy, cửa phòng bật mở, Vưu Kiện đứng ở ngạch cửa, báo tin: “Anh Cả, nó muốn gặp anh.” 

Một tia lạnh lẽo khẽ khàng vụt qua trong ánh mắt. 

Vưu Thần đảo mắt quan sát Vưu Hạ, nhàn nhạt hỏi: “Lý do?”

Vưu Kiện hít thầm một hơi: “Nó bảo… không chịu nổi nữa.” 

Khi Vưu Thần có mặt, Tề Cao Vân đã bị bức đến phát điên.

Ngày đầu tiên bị nhốt trong phòng giam, Tề Cao Vân vẫn còn sót lại một chút dáng vẻ của người bình thường. Nhưng đến ngày hôm nay, là ngày thứ năm liên tiếp bị nhốt, nó gần như đã hóa thành một kẻ tâm thần.

Có lẽ sẽ không ai dám tin đây là sự thật. Thậm chí là cả Vưu Kiện. Vào khoảnh khắc cánh cửa mở ra, bên trong phòng giam trắng toát là một bóng người nằm thoi thóp trên giường. Lúc nghe thấy tiếng động, Tề Cao Vân bừng mở đôi mắt điên dại của mình, cổ ngoẹo sang một bên, cố gắng nhìn người vừa mới bước vào.

Vưu Thần đứng sừng sững trong một bộ quần áo đen tuyền. Đôi mắt căm lạnh nhìn đăm đăm về phía Tề Cao Vân.

Qua dư quang, Tề Cao Vân ngờ ngợ nhận ra gì đó, nó lấy hơi lên thở hồng hộc như vừa vui sướng vừa hoảng sợ, khàn giọng gọi: “Ngài…Vưu.”

Một tiếng “ngài Vưu” tràn ngập nể sợ và khẩn thiết khiến Vưu Kiện đứng bên cạnh nhất thời sững sờ. Gã nhíu mày nghĩ ngợi về bộ dạng ngông nghênh không sợ chết của Tề Cao Vân khi còn ở quán bar. Sau đó gã so sánh với bộ dạng tàn tạ chẳng khác gì một con chó ghẻ của Tề Cao Vân ngay lúc này, chợt giật mình phát hiện, hình như… nó đã điên rồi.

Đúng vậy.

Chỉ trong năm ngày, Vưu Thần đã khiến một tên súc sinh như Tề Cao Vân thành một kẻ tham sống sợ chết.

Rốt cuộc trong suốt năm ngày qua, Tề Cao Vân đã phải chịu đựng những gì? 

Vưu Kiện không trực tiếp nhúng tay vào chuyện này, vì Vưu Thần không cho phép. Gã chỉ có thể đứng bên ngoài nghe ngóng tình hình thông qua một thuộc hạ thân cận, từ đó mới biết được toàn bộ sự thật ghê người ở bên trong phòng giam. 

Từ khi vào đây, Tề Cao Vân đã bị trói chặt tay chân trên giường bệnh nhân. Xung quanh phòng giam được sơn phết độc một màu trắng. Phía trên đầu nó có một bóng đèn cũng là loại ánh sáng trắng. Tần suất chiếu sáng khoảng mười tiếng một ngày và chỉ chiếu thẳng vào mắt Tề Cao Vân. 

Đương nhiên, Tề Cao Vân sẽ không được nhắm mắt lại. Mỗi khi nó muốn nhắm mắt đều sẽ bị một thuộc hạ khác dùng roi điện đánh mạnh vào người. 

Liên tiếp năm ngày, thị lực của Tề Cao Vân bị suy giảm mạnh. Đồng tử không còn phản xạ nhạy bén, hình ảnh trước mắt cũng mờ mờ ảo ảo, gần giống trở thành một người mù. 

Vưu Thần bước đến ngồi xuống một chiếc ghế được bố trí sẵn. Y gác hai tay lên thành vịn, nghiêng nhẹ đầu nhìn Tề Cao Vân. 

“Cởi trói.” Sau đó, Vưu Thần hạ giọng ra lệnh. 

Khi Tề Cao Vân được cởi trói, cả người hôi hám tàn tạ ngã rạp ra đất, bò lết như một con chó ghẻ, hoảng loạn van xin. Nó lết tới gần bên chân Vưu Thần, đôi tay rỉ máu vô tình bám vào gấu quần của y. Lúc ấy, Vưu Kiện định bước lên tung một cú đạp vào người nó, song Vưu Thần lại khoát tay ngăn cản. 

Vưu Kiện khựng lại, liếc mắt nhìn anh trai, trầm mặc khó hiểu. 

“Ngài… Vưu.” Tề Cao Vân chưa gì đã vội mừng rỡ, nó bấu gấu quần của y, nói năng loạn xạ, “Ngài Vưu, tha tôi, tha tôi… Tôi đau lắm, đau lắm… Tôi đau khắp nơi… Ngài Vưu…” 

Vưu Thần rũ mắt dửng dưng nhìn đối phương khóc lóc van xin, bất ngờ hạ lệnh: “Kéo nó ra, kẹp gãy ngón tay của nó.” 

Ngay tức thì, cả người Tề Cao Vân đông cứng. Nó bàng hoàng ngẩng đầu nhìn Vưu Thần, như đang nhìn thấy một con quỷ sống. 

“Không, không được, không được, tha tôi, tha tôi…Arrgggggg.” 

Thuộc hạ của Vưu Thần đều là những người được huấn luyện kỹ càng. Họ máu lạnh, vô cảm, trong lúc hành hình một người cũng không hề tỏ ra thương hại. 

Giống hệt những con robot. 

Các khớp tay của Tề Cao Vân bị bẻ gãy nát vụn. 

Nó đau đến điếng người, giàn giụa nước mắt nhưng không thể thốt ra bằng lời. 

Vưu Thần tì huyệt thái dương trên ngón tay, qua một hồi chiêm ngưỡng dáng vẻ quằn quại khổ sở của Tề Cao Vân, y nhướng mày nói: “Thuốc hiệu quả không?” 

Thuốc…? 

Đau đớn chưa thể vơi đi, nhưng Tề Cao Vân vẫn có thể tỉnh táo nhớ đến một chuyện còn khiếp đảm hơn gấp mấy lần. 

Trong năm ngày nay, ngoại trừ bị hành hạ bởi ánh sáng, nó còn bị thuộc hạ của Vưu Thần ép uống một loại thuốc kích dục. Mỗi ngày cách bốn tiếng sẽ phải uống một liều. Phần dưới không được mặc quần, ngay vị trí của lỗ niệu đạo sẽ chực chờ sẵn một mũi kim nhọn hoắc nhỏ xíu. Sau khi cương lên, mũi kim được canh chuẩn xác sẽ đâm sâu vào lỗ niệu đạo. 

Khi ấy, Tề Cao Vân muốn vùng vẫy nhưng không thể. Bởi vì một khi nó cố gắng giãy dụa, mũi kim sẽ càng đâm loạn khắp nơi, máu rỉ ra không ngừng. 

Hồi ức khủng khiếp ùa về, Tề Cao Vân hoảng loạn dập đầu xuống đất: “Đừng, đừng cho, tôi uống, nữa… Tôi không, muốn uống… Đừng… Xin ngài… Đừng…” 

Vưu Thần cười khẩy: “Không phải mày rất thích những chuyện này à?”

“Không… Không… Không thích…”

Chợt, nụ cười trên môi y vụt tắt. 

Đôi mắt Vưu Thần tối sầm lại, nơi cánh mũi thoát ra từng hơi thở lạnh lẽo chết chóc: “Vậy… tại sao mày lại dám làm như thế với em trai tao?”

Tề Cao Vân nghe hỏi thì chỉ biết lắc đầu hối hận. 

“Xin lỗi… Xin lỗi…Xin ngài tha… tha cho…” Vừa nói, nó vừa dập đầu khẩn khoản cầu xin. 

Thấy vậy, Vưu Thần nghiêng đầu nhìn về phía một thuộc hạ, ra lệnh qua ánh mắt. Chẳng bao lâu, thuộc hạ ấy quay lại với một chén canh trong tay. Chén canh có màu hồng phấn, là hỗn hợp của máu, sữa và Scopolamine. 

Vưu Thần hất nhẹ cằm, nhàn nhạt nói: “Chỉ cần mày uống cạn chén canh này, tao sẽ lập tức thả mày đi.”

“Thật…thật…sao?” Tề Cao Vân ngẩng đầu, trên trán đã bị dập đến chảy máu. 

Vưu Thần nhướng mày, không đáp. 

Vì bần cùng, vì tham sống sợ chết, Tề Cao Vân tức khắc vươn tay chộp lấy chén canh hỗn hợp, ngửa cổ uống ừng ực. Mùi vị máu tanh tưởi suýt khiến nó phải nôn, nhưng Vưu Thần đã sớm cảnh cáo nó không được nôn ra dù chỉ một chút.

Sau khi uống cạn chén canh, Vưu Thần cho người mở cửa phòng giam thật. Một lối đi nhỏ hẹp hiện ra trước mặt. Tề Cao Vân bừng mở đôi mắt sắp bị mù của mình, sung sướng muốn khóc. Nó nghĩ mình sắp thoát khỏi được địa ngục trần gian, cho nên đã dồn hết sức bình sinh lảo đảo đứng dậy, chạy ra ngoài.

Có điều, khi nó mới chạy được ba bước, Vưu Thần ở trong phòng đã đứng dậy, nghiêng nửa người, giơ khẩu súng trong tay lên, bắn một phát vào chân trái. 

Một tiếng “đoàng” thình lình xé tan bầu không khí yên tĩnh của phòng giam.

Viên đạn ghim sâu vào bắp chuối của Tề Cao Vân, khiến bước đi của nó suy suyễn. Nó đau điếng, thế nhưng không muốn từ bỏ, đành tiếp tục bò lết bằng một chân. 

Đáng tiếc, vào giây khắc này, Vưu Thần vốn chỉ xem Tề Cao Vân như một con thú hoang bần cùng khổ sở, y nhàn nhã chiêm ngưỡng dáng vẻ chạy trốn của nó, khóe môi thâm hiểm nhếch lên. 

Nhìn thấy Tề Cao Vân vừa bò lết được thêm một đoạn, Vưu Thần lại giơ súng lên, bắn một phát vào chân còn lại. Tức thì, đối phương ngã khụy, bám hai tay trên mặt đất, hoảng sợ kêu gào. Hai chân bị bắn chảy máu, không còn đủ sức để đi, nó bắt đầu dán hai bàn tay trên đất, trườn bò về phía trước. Mỗi lần Tề Cao Vân lê đi đều sẽ lưu lại mấy vệt máu dài loang lổ. 

Toàn bộ sự việc được thu vào mắt Vưu Kiện. Gã không có ý kiến gì, chỉ là nhất thời có một suy nghĩ. 

Quả nhiên vẫn là anh Cả. 

Vưu Thần thu tầm mắt lại, ném súng sang một bên, lạnh giọng hạ lệnh: 

“Bắt nó về lại đây rồi cắt lưỡi nó. Mỗi ngày đúng giờ cho uống một chén canh hỗn hợp ban nãy. Nhớ rồi chứ?”

Thuộc hạ đứng gần lập tức tuân theo: “Đã rõ.” 

Ra khỏi phòng giam, Vưu Kiện đi bên cạnh bỗng hỏi: “Anh định làm gì tiếp theo?”

Vưu Thần lau tay bằng khăn mùi soa, nhàn nhạt đáp: “Nó không có người thân, báo một tin là đã chết vì tai nạn. Tự an bài tất cả đi.” 

— 

Vào giờ cơm tối, Trương Mỹ Hạnh đang dọn chén bát lên bàn thì bỗng nghe thấy cửa ngoài bật mở. Cô thoáng ngừng lại, ngoảnh đầu nhìn ra ngoài đó một cái rồi nhỏ giọng gọi Thiên Nga:

“Nga ơi, con ra xem là ai mới tới thế.”

Thiên Nga vốn đang ngồi đung đưa chân trên ghế, cười khúc khích với cuốn truyện tranh thì nghe mẹ bảo. Cô bé lập tức bỏ cuốn truyện xuống bàn, nhanh nhảu chạy ra ngoài, ló đầu ngó xem tối thế này lại có ai đến.

Qua ngọn đèn lơ lửng dưới mái hiên, Thiên Nga nhận ra đối phương là Kỳ Họa Niên. Cậu vừa mới dắt chiếc xe đạp đỗ sát bên vách tường trống. Lúc xoay người lại, cậu giật mình bởi một đôi mắt to tròn đang trố ra nhìn mình.

Kỳ Họa Niên sững người một giây rồi phì cười: “Thiên Nga, em đứng đó làm gì vậy?”

Thiên Nga ôm cột tường, líu lo đáp: “Em đang nhìn anh á. Sao hôm nay anh lại qua đây thế ạ? Anh nhớ em hả? Hihi.”

Kỳ Họa Niên đi về phía Thiên Nga, trước đưa cho con bé một chiếc túi đầy ắp bánh kẹo, sau là xoa đầu nó, hỏi: “Mấy nay học hành sao rồi? Có quen với bạn bè trong lớp chưa?”

“Ỏ, em quen với hai người bạn lần á. Ai cũng dễ thương tốt bụng hết. Bài vở cũng không có nhiều lắm, cô giáo giảng siêu hay, em nghe tới đâu hiểu tới đó.”

Thiên Nga miệng mồm lanh lợi nói không ngừng. Tính cách cô bé tương đối hướng ngoại, không có vẻ gì là ngại ngùng với lạ nước lạ cái nữa. Đi vào trong phòng khách, Thiên Nga khoe với mẹ túi kẹo của Kỳ Họa Niên, sau đó thì chạy vào phòng ngủ cất đi, để dành tối ăn.

Trương Mỹ Hạnh nhìn theo cái dáng nhỏ con thoăn thoắt của Thiên Nga, cười hiền từ. Đoạn, cô ngoảnh đầu nhìn Kỳ Họa Niên, chợt phát hiện một chuyện kỳ lạ. Hôm nay cậu không chỉ đến đây một mình mà còn vác theo một… túi hành lý.

Gì thế nhỉ? Không lẽ chủ nhà bên kia đã đuổi thằng bé?

Trương Mỹ Hạnh vừa sốt ruột vừa khó hiểu hỏi: “Túi hành lý kia là sao vậy Niên?”

Kỳ Họa Niên nghe hỏi, ngẩng lên nhìn đối phương, ấp úng: “À… cái này, thật ra hôm nay con đến là có chuyện muốn phiền dì một chút.”

Vì thái độ úp úp mở mở của Kỳ Họa Niên mà suốt bữa cơm tối, Trương Mỹ Hạnh không có nửa phút yên lòng. Thân là dì ruột, cô thấy mình cũng nên có trách nhiệm thay chị gái chăm sóc cho đứa cháu này. Cho nên cách đây mấy tháng, cô có mở lời muốn cậu sống cùng với hai người để đỡ vất vả tiền nong, thế nhưng cậu nhất quyết không chịu.

Bây giờ thì đột nhiên lại đem hành lý tới đây, rốt cuộc là có chuyện gì rồi không biết nữa.

Qua bữa cơm, Thiên Nga nghe theo lời mẹ, lẳng lặng đi vào phòng làm bài tập. Bên ngoài chỉ còn có hai người lớn đang ngồi đối diện nhau, ai nấy đều im lìm chưa lên tiếng.

Trương Mỹ Hạnh rót một cốc trà nguội uống để thanh cổ họng rồi chủ động nói trước: “Chủ nhà bên kia làm khó dễ với con hả?”

Kỳ Họa Niên ngước nhìn cô bằng đôi mắt nặng tâm tư, song khóe miệng lại nhàn nhạt cong lên, mỉm cười đáp: “Dạ không. Chủ nhà là bạn của con, giữa chúng con không có xích mích gì cả, chẳng qua lúc này con không tiện để sống cùng nữa thôi.”

“Con soi gương xem, ai mà tin nổi lời con nói đây?”

Mặc dù Trương Mỹ Hạnh là một người phụ nữ nông thôn, quanh năm suốt tháng chỉ lao động ngoài đồng, nhưng không phải vì thế mà có thể đánh giá cô là một người có đầu óc rỗng tuếch nông cạn được. Những ai từng tiếp xúc với cô đôi lần đều biết con người cô có bao nhiêu phần sâu sắc và tâm lý.

Cho nên ban nãy vừa mới nhìn vào đôi mắt của Kỳ Họa Niên thôi, Trương Mỹ Hạnh lập tức cảm nhận được thằng bé đang có tâm sự.

Có điều, tâm sự như thế nào thì cô không dám chắc. Dẫu sao cô cũng chưa từng nghe đối phương kể về mối quan hệ giữa cậu và chủ nhà, vì vậy mọi thứ tạm thời chỉ là phỏng đoán.

Trương Mỹ Hạnh thường ngày rất hiền hậu nhưng không hiểu sao hôm nay lại bất chợt khó chịu, giọng điệu cũng nghiêm khắc: “Trước dì cũng nói rồi, ba người ở chung thì vẫn đỡ vất vả hơn nhiều. Ở với người lạ sớm muộn gì cũng đụng chạm nhau thôi. Bây giờ con tính thế nào? Có muốn dọn về đây ở luôn không?”

Thật lòng mà nói, Kỳ Họa Niên vẫn chưa có quyết định gì sâu xa. Vốn dĩ cậu dọn hành lý trở về đây là vì hiện tại không thể sống trong căn hộ của Vưu Hạ nữa. Chuyện hai người họ sống cùng nhau đã bị phát hiện, đương nhiên cậu không thể cứ mặt dày ở lại được. Vì vậy, trước khi để phía người nhà của Vưu Hạ lên tiếng đuổi người, cậu đã tự giác cuốn gói rời đi.

Lúc khóa cửa nhà, Kỳ Họa Niên chợt cười giễu bản thân: Không biết mình làm mọi thứ rốt ráo thế này thì có bị họ mỉa mai hay không đây? Chẳng hạn như…

“Chưa gì đã muốn trốn rồi à?” Từ xa bỗng truyền tới một giọng nói hết sức châm chọc.

Động tác khóa cửa nhất thời khựng lại.

Kỳ Họa Niên giật mình ngoảnh đầu nhìn qua, phát hiện Vưu Kiện đang từng bước thong thả đi đến gần. Khoảng cách của cả hai bị rút ngắn chỉ trong vòng ba nốt nhạc.

Trong cuộc sống luôn tồn tại những điều mà bản thân chúng ta không bao giờ ngờ đến được. Giống như giây phút này, khi Kỳ Họa Niên chỉ tình cờ nghĩ tới người nhà của Vưu Hạ, thì một khắc sau đó, một trong số họ liền xuất hiện. Hơn thế, người nọ còn mang theo một khuôn mặt không có cảm xúc, à không, là lẫn lộn rất nhiều cảm xúc mới phải, là một bộ biểu cảm vô cùng phức tạp, nhìn chằm chằm vào cậu.

Kỳ Họa Niên vô thức nắm lấy quai của vali hành lý, mấp máy mở miệng: “Em… Em chào thầy.”

Vưu Kiện ôm hai tay trước ngực, ánh mắt đầy ý tứ liếc nhìn hành lý bên cạnh Kỳ Họa Niên, nhếch môi cười: “Uầy, tác phong của cậu cứ như con dế ấy nhỉ, thoáng cái liền đến, thoáng cái liền đi. Tôi mà đến đây chậm một giây nữa thì hẳn là không tóm được cậu rồi.”

Cách nói chuyện xưa nay của Vưu Kiện vẫn luôn chia thành hai loại. Một loại dành cho người gã yêu thương chiều chuộng. Một loại dành cho người gã cảm thấy ngứa tai gai mắt. Nếu buộc phải chia thêm một loại nữa thì có lẽ là loại người tàng hình, tức không đáng để gã đặt vào mắt mình.

Nếu nói theo nghĩa may mắn thay thì Kỳ Họa Niên vẫn chưa bị nằm trong danh sách những người tàng hình. Nhưng nếu nói đúng nghĩa đen đủi thì cậu đã lọt vào danh sách chướng tai gai mắt của gã. Cho nên mỗi khi tiếp chuyện với cậu, thái độ của gã sẽ dao động ở khoảng hời hợt và tức giận.

Có thể sẽ hời hợt, cũng có thể sẽ tức điên mắng chửi, song cuối cùng gã chỉ dùng mấy lời mỉa mai để châm chọc đối phương mà thôi.

Lý do à? Nói sau vậy.

Kỳ Họa Niên im lặng một chốc mới giải thích: “Em nghĩ là thầy đã hiểu lầm gì rồi. Em dọn đi là vì cảm thấy mình không nên ở lại đây nữa thôi ạ. Dù sao không có anh ấy, em ở đây cũng không có ý nghĩa gì.”

Vưu Kiện chau mày, bắt đầu khó chịu: “Gì? Bây giờ cậu còn cố tình muốn khoe tâm ý của mình ra cho tôi xem nữa à? Đúng vậy, nếu không có Hạ thì cậu ở đây đúng là vô nghĩa. Nhưng nếu không có cậu thì có lẽ mọi chuyện đã khác rồi. Hai đứa giỏi thật, nhất là cậu, dám qua mặt cả tôi sao?”

Đến đây, Kỳ Họa Niên áy náy cúi đầu, im thin thít không dám cãi một lời. Cậu hiểu rõ lý do vì sao Vưu Kiện tức giận đến nhường này. Lần Vưu Hạ nhập viện, gã đã nói rất rõ ràng, rằng không cho phép cậu xuất hiện trước mặt anh nữa. Thế nhưng nhiều tháng qua đi, cậu không cách nào quên được mối tình trong lòng mình, cho nên mới ngoan cố làm việc trái khuấy.

Kỳ Họa Niên chấp nhận mọi lỗi của bản thân.

Có điều, cậu chưa bao giờ thấy hối hận về quyết định này.

Nếu cậu không sống cùng với anh, liệu có biết được chuyện anh bị mất tích hay không? Nếu không ai nhanh chóng phát hiện và đi tìm thì anh sẽ như thế nào?

Thật sự… cậu không dám tưởng tượng đến viễn cảnh đau thương ấy.

Về phía Vưu Kiện, sau khi phát hiện được chuyện Vưu Hạ và Kỳ Họa Niên ngang nhiên sống chung với nhau tận một tháng, gã chẳng nhớ nổi khi đó mình như thế nào. Ngạc nhiên? Ừ có chứ! Tức giận? Đúng, có luôn, vô cùng tức giận! Nhẹ nhõm? Không, tại sao gã phải thấy nhẹ nhõm khi mối đe dọa đang ở rất gần em trai mình?

Trong suy nghĩ của Vưu Kiện vốn luôn nhập nhằng giữa hai điều. Kỳ Họa Niên giúp Vưu Hạ vui vẻ và có cảm xúc nhiều hơn. Song, Kỳ Họa Niên cũng là chiếc mầm độc có thể nảy ươm bén rễ, khiến cho tâm lý của Vưu Hạ bị tác động và có thể là một ngày nào đó anh sẽ thình lình nhớ lại tất thảy mọi chuyện.

Vưu Kiện từng suy nghĩ đắn đo rất nhiều, cuối cùng vẫn không biết có nên cá cược một lần này hay không. Gã không dám đem cuộc đời của em trai mình ra mà đánh cược, cho nên đã lựa chọn sự an toàn nhiều hơn.

Miễn là Kỳ Họa Niên không còn ở bên cạnh Vưu Hạ.

Miễn là… đừng nhớ lại quá khứ.

Qua một hồi thinh lặng, Kỳ Họa Niên bất ngờ cúi gập người thành góc chín mươi độ, chân thành nói: “Em xin lỗi thầy, chuyện sống cùng nhau là quyết định của em, là do em đã làm trái với sự cho phép của thầy. Thật ra em không muốn chứng tỏ tình cảm của bản thân ở đây, vì dùng lời nói để chứng minh thì rất sáo rỗng. Em muốn mọi người tận mắt nhìn thấy từng cử chỉ hành động của em dành cho anh Hạ hơn. Còn về quyết định dọn đến đây, là vì em muốn được ở gần và chăm sóc cho anh ấy thôi ạ.”

Nói làm sao đây?

Đây chính là điểm huyệt của Vưu Kiện.

Hay nói cách khác, lời nói cử chỉ hành động của Kỳ Họa Niên dành cho Vưu Hạ, tất thảy đều là điểm huyệt của Vưu Kiện.

Đã bao lần gã xuống nước khuyên can, đã bao lần gã tức giận ngăn cấm, nhưng kết quả vẫn không bao giờ thay đổi.

Quả thực là một đứa cố chấp cứng đầu.

Có điều, Vưu Kiện lại đánh giá cao cái “đầu chó con” cứng cỏi lì lợm này. Một khi con người ta thật sự si tình đều sẽ trở nên như thế, phải không?

Nói đi thì cũng nên nói lại, nếu quyết định dọn đồ đến đây là của Kỳ Họa Niên thì quyết định cho cậu ta bước vào nhà lại là của Vưu Hạ.

Phân tích ra mới thấy, không chỉ có một đứa dám qua mặt gã.

Vưu Kiện đau đầu vuốt vuốt trán, lắc đầu thua triệt để.

“Tôi hiểu những gì mà cậu đã làm cho thằng bé. Tôi cũng không trách cậu, vì dù sao chính cậu cũng là người kịp thời cứu thằng bé ra khỏi chỗ đó. Nhưng mà từ giờ về sau, tôi e là cả hai rất khó để sống cùng nhau.” Vưu Kiện nghiêm túc nói.

Kỳ Họa Niên cũng bình tĩnh gật đầu: “Vâng, em biết những chuyện này rồi. Đó cũng là lý do em quyết định sẽ tạm thời dọn đi, cố gắng đợi đến một lúc anh ấy có thể hồi phục và chấp nhận gặp mặt em lần nữa.”

Ngay lập tức, khóe môi Vưu Kiện run giật, hẳn là sắp nổi điên: “Họa Niên, cái đầu chó của cậu phải bị đánh tươm máu thì mới hiểu vấn đề đúng không hm?”

Kỳ Họa Niên vô thức hít thầm một hơi: “Thầy đừng nóng giận, chẳng qua hiện tại em vẫn chưa thể quên được anh ấy thôi. Có thể sau này… thật lâu sau này, em cũng sẽ buông bỏ đoạn tình ấy xuống được. Nhưng em hứa, trong khoảng thời gian mà anh ấy cần hồi phục, em sẽ không nhiễu loạn nữa.”

Vưu Kiện lạnh nhạt đáp: “Cậu dám làm loạn xem, lúc ấy tôi không nương tay đâu.”

Dừng đoạn, gã nghĩ ngợi gì đó rồi chợt nhắc đến Vưu Hạ: “Tình hình của thằng bé vẫn còn đang theo dõi. Tạm thời chưa có kết luận gì.”

Vì không ngờ đối phương sẽ chủ động đề cập đến tình trạng của Vưu Hạ, Kỳ Họa Niên vừa mừng rỡ vừa sốt ruột, xoắn xuýt các đầu ngón tay. Lát sau, cậu cẩn trọng lên tiếng: “Thật ra từ khi sống cùng với anh Hạ, em bắt đầu nhận ra được một số thứ kỳ lạ liên quan đến anh ấy. Cơ mà em không dám hỏi trực tiếp, vì sợ là chuyện nhạy cảm. Nhưng nếu suy nghĩ của em là đúng thì có phải trước kia, trong quá khứ, anh Hạ từng trải qua chướng ngại tâm lý nào không?”

Từ lúc Vưu Hạ mười tuổi, trong nhà dường như cũng ngầm đặt ra một quy định. Không ai được nhắc đến các cụm từ như: Quá khứ, chướng ngại tâm lý, mèo, thậm chí là cả Từ Thiếu Hàn.

Vưu Kiện nghe xong, đầu mày chau đến đáng sợ, giọng điệu nghiêm túc: “Cậu đã biết được những gì rồi?”

Kỳ Họa Niên nhìn gã, thành thật lắc đầu: “Em vẫn chưa biết được chuyện gì cả. Nhưng qua cách nói chuyện và bộc lộ cảm xúc của anh Hạ, em ngờ ngợ nhận ra những điều đó. Có lần khi nhìn thấy tay em chảy máu, anh ấy như hoảng sợ và suy sụp tinh thần, luôn miệng gọi ai đó là thầy, rồi xin lỗi rất nhiều. Sau đó gặp thêm chuyện của Cao Vân, anh ấy bắt đầu tự ngăn cách mình với xung quanh. Hơn cả là chán ghét động chạm da thịt… Em thấy rất lo, sợ tinh thần của anh ấy lại bị ảnh hưởng.”

Nghe Kỳ Họa Niên nói xong, Vưu Kiện cũng nhất thời rơi vào trầm tư. Gã ngửa cổ hít vào thở ra, lát sau mới rũ mắt nhìn vào mắt đối phương, bình tĩnh gật đầu thừa nhận.

“Đúng vậy, lúc còn nhỏ, Hạ nó từng trải qua một giai đoạn khó khăn về mặt tâm lý. Đến năm mười tuổi, thằng bé mới bắt đầu trở về cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, tính cách thì không thể quay lại như trước được. Lạnh nhạt, thờ ơ, vô cảm, ít nói, những thứ này vốn không phải là bản chất của thằng bé. Nhưng biết làm sao được, chỉ cần thằng bé chịu mở miệng nói chuyện thôi đã là một chuyện đáng ăn mừng rồi.”

Mấy lời này nói ra bây giờ không biết liệu có ích lợi gì hay không? Dù sao đã nhiều năm rồi, những chuyện đau buồn năm ấy đều bị hạn chế nhắc đến. Song, Vưu Kiện lại bị tấm chân tình của Kỳ Họa Niên làm xiêu lòng, cho nên mới bất giác nói cho cậu nghe một nửa của sự thật.

Ở bên kia, Kỳ Họa Niên sửng sốt không nói được gì. Hóa ra những gì mà cậu linh cảm được đều là sự thật. Dù rằng cả hai chỉ có nửa năm gặp gỡ và một tháng vỏn vẹn sống chung với nhau, nhưng cậu đã ngờ ngợ nhận ra được quá khứ của Vưu Hạ không hề đơn giản.

Trước kia đã một lần mắc chướng ngại tâm lý, hiện tại lại trải qua thêm chuyện của Cao Vân, không biết anh ấy sẽ đối mặt với nó như thế nào đây?

Khốn khiếp thật mà!

Kỳ Họa Niên nhắm mắt, kìm nén giận dữ trong lòng mình. Mặc dù cậu muốn hỏi cặn kẽ sự việc năm ấy, nhưng lại cảm thấy mình quá phận nên thôi.

Sau đó cậu ngẩng đầu nhìn Vưu Kiện, chậm rãi nói: “Em cảm ơn thầy đã tin tưởng và nói em nghe chuyện quá khứ của anh Hạ. Từ giờ có lẽ em sẽ không còn có thể gặp lại anh ấy được nữa. Thế nên em hy vọng nếu như sức khỏe của anh ấy có chuyển biến gì, thầy có thể báo với em được không ạ?”

Vưu Kiện nhướng mày hỏi ngược lại: “Báo rồi thì cậu sẽ làm gì?”

“Em…” Kỳ Họa Niên nhíu mày, chưa biết phải đáp làm sao.

Báo cho mình rồi thì mình sẽ làm được gì?

Có thể làm gì được đâu chứ…

Vô nghĩa.

Chưa đợi cậu kịp phản hồi, Vưu Kiện đã đứng thẳng dậy, khoát tay nhủ lòng thương nói: “Thôi được rồi, nếu có gì nghiêm trọng tôi sẽ báo cho cậu một tiếng. Còn không có gì thì cậu tự mà hiểu đi nhé.”

“Vâng, cảm ơn thầy!”

“Bây giờ cậu dọn về nhà cũ à?”

“Vâng, em sẽ tạm thời sống ở đó với dì.”

Tạm thời?

Vưu Kiện âm thầm liếc nhìn đối phương, khẽ hừ mũi một tiếng.

Có vẻ thằng ranh con này chưa từ bỏ ý định theo đuổi em trai mình thì phải? Nhưng tình hình lúc này còn có thể nói chuyện yêu đương sao? Đúng là vớ vẩn thật mà.

Cuộc nói chuyện ngắn ngủi của hai người họ kết thúc sau khi Vưu Kiện dặn dò thêm một số lời cuối cùng. Gã nói xong cũng không nhìn cậu mà rút ngay chìa khóa nhà bỏ vào túi quần, tiếp đến mở cửa căn hộ đi vào bên trong. Có lẽ là muốn dọn quần áo của Vưu Hạ mang về nhà chính.

Kỳ Họa Niên đứng nhìn thêm chốc lát rồi mới xoay người kéo vali rời đi. Cả một ngày trời, cậu ghé sang quán Hoshizora nói chuyện với Sở Thục Ngưng. Đến tối mới chịu đem hành lý về nhà cũ để gặp Trương Mỹ Hạnh bàn chuyện.

Trương Mỹ Hạnh thở dài nhìn đứa nhỏ cứng đầu trước mặt mình: “Vậy con cứ tạm thời ở đây với tụi dì đi. Sau này có tìm được chỗ mới thì hẵng dọn đi.”

Nghe thấy giọng điệu của cô đã dịu dàng chút ít, Kỳ Họa Niên bèn cong môi cười lên dỗ dành: “Vâng, con cảm ơn dì! Chuyện này hơi đường đột, dì đừng có giận nữa nha. Con sẽ ngủ ở ngoài phòng khách, còn phòng ngủ thì dì với bé Nga cứ ở đi ạ.”

Trương Mỹ Hạnh hiếm khi nói đùa, lườm nguýt cậu: “Tất nhiên rồi. Ông nghĩ mình là ông thần à mà bất ngờ về đây còn dám giành lại phòng hm?”

Dừng đoạn, cô lắc lắc đầu, bĩu môi: “Nhưng đúng là ông thần, trời thần thật mà!”



Buổi chiều ngày hôm sau, Kỳ Họa Niên đứng trước cửa một ngôi nhà ba tầng lầu, phía trên được phủ kín bằng một giàn hoa giấy màu trắng. Cậu ấn chuông lần thứ hai, bên trong mới có tiếng dép lê phát ra.

Người mở cửa là một cô gái có mái tóc đen nhánh rũ mềm trước ngực. Cô đưa mắt nhìn Kỳ Họa Niên, thoạt đầu sửng sốt không thôi, vài giây sau mới sực tỉnh, ngại ngùng cúi đầu, ấp úng nói:

“Em… Sao hôm nay em lại đến đây vậy?”

Kỳ Họa Niên nhìn ra được vẻ mặt bất ngờ của Lệ Linh, cậu gượng gạo mỉm cười, thấp giọng giải thích sơ sơ: “Em có một số thứ muốn hỏi chị, không biết chị có đang bận gì không?”

Nghe xong, Lệ Linh chầm chậm thả các đầu ngón tay vốn luôn bám chặt vào khe cửa. Đôi mắt phượng long lanh hơi ngước lên, một lần nữa nhìn ngắm đối phương trong thầm lặng.

Người con trai mà cô thầm thích đơn phương suốt hai năm trời lúc nào cũng trong bộ dạng dịu dàng trưởng thành như thế. Phong cách ăn mặc sạch sẽ tươm tất, ánh mắt sáng ngời thông minh, nụ cười dịu dàng ấm áp, thái độ đường hoàng đứng đắn.

Mỗi một chi tiết nhỏ đều khiến cô yêu thích lâu đến vậy.

Thật lòng, Lệ Linh không nhớ nổi đã bao lâu rồi hai người không còn nói chuyện với nhau. Thế nhưng khoảnh khắc Kỳ Họa Niên đột nhiên đứng trước cửa nhà đã khiến trái tim của cô suýt ngừng đập.

Cứ ngỡ sau nhiều tháng trôi qua, không còn gặp nhau nữa thì những cảm xúc rung động cũng sẽ dần dần phai nhạt. Nhưng mà… hình như không phải là như vậy.

Lý thuyết trong mấy cuốn sách tư vấn tình cảm quả nhiên là lừa gạt!

Haiz… Cảm giác chết tiệt này đến bao giờ mới biến mất đây?

Mình đúng là con nhỏ ngốc.

Lệ Linh cắn môi tự mắng bản thân thiếu nghị lực, sau đó mới né sang một bên, mời Kỳ Họa Niên vào nhà: “Em vào đi, hôm nay chị được nghỉ nên đang rảnh rang đây.”

Trong nhà hôm nay chỉ có bà nội của Lệ Linh thôi. Bà ngồi ở phòng khách, miệng móm mém nhai món gì đó trông rất nghiện, lúc nhìn thấy Kỳ Họa Niên, bà nở nụ cười hiền hậu.

“Lâu quá không gặp con.”

Kỳ Họa Niên lễ phép cúi đầu: “Dạ, dạo này bà vẫn khỏe chứ ạ?”

Bà cười lên thành tiếng: “Ối giồi, khỏe thì mới ngồi đây nhai đống mứt này đây. Ngon lắm, Niên ăn thử không con?”

Kỳ Họa Niên khẽ cười, Lệ Linh ở bên cạnh ngại ngùng đẩy cậu đi trước rồi quay lại nói với bà: “Thôi bà ơi, con mua mấy cái này cho bà cả mà, sao bà nỡ cho người khác thế chứ?”

Bà nội liếm viền môi ngọt lịm, lắc đầu ngán ngẩm: “Có nhỏ cháu gái xinh đẹp mà keo kiệt dễ sợ. Niên à, bà trông con gầy đi dữ lắm, ăn nhiều vào đi đấy. Linh, lấy đồ ăn cho Niên đi con.”

Lệ Linh xấu hổ nhìn Kỳ Họa Niên, Kỳ Họa Niên không mấy để ý, chỉ cảm thấy bà nội của cô rất hiền hậu và tốt bụng. Đôi khi người già sẽ hay nói nhiều thành ra càm ràm suốt ngày, nhưng đó đều là những lời quan tâm ân cần mà thôi.

Cả hai người trước người sau đi lên lầu một, vào phòng riêng của Lệ Linh. Khi đóng cửa lại, Lệ Linh mới chợt phát hiện ra một chuyện rất chi là ngượng nghịu, nhưng mà cũng có chút gì đó nhộn nhạo trong lòng.

Đây là lần đầu tiên Kỳ Họa Niên vào phòng riêng của cô. Mặc dù giữa hai người không có mối quan hệ quá mức thân thiết hay mờ ám, song cảm giác khi ở riêng cùng với cậu trong một căn phòng vẫn khiến cho cô thấy căng thẳng hồi hộp.

Lệ Linh cố xua đi những ý nghĩ linh tinh trong đầu, giữ kẻ ngồi xuống giường, liếc nhìn Kỳ Họa Niên ngồi ở ghế dựa phía đối diện.

“Vậy… em muốn hỏi chị cái gì thế?”

Từ lúc vào phòng đến giờ, Kỳ Họa Niên vẫn luôn giữ chừng mực, không ngó nghiêng xung quanh hay tỏ ra bất kỳ thái độ nào kỳ lạ khiến cho đôi bên khó xử. Cậu ngồi thẳng lưng, nhàn nhạt nói:

“Hôm trước em nghe cô nói chị muốn theo khoa tâm lý đúng không?”

Lệ Linh theo phản xạ gật đầu: “Ừm, đúng rồi.”

Sau đó cô chợt khựng lại, trong lòng mơ màng nghĩ ngợi.

Sao hôm nay Họa Niên lại quan tâm đến chuyện này?

“Sao thế? Có chuyện gì hở?”

Kỳ Họa Niên thấp thoáng mỉm cười như nhẹ nhõm, đáp: “Thật ra em đang muốn hỏi thăm về mấy phương pháp trị liệu tâm lý dành cho người trầm cảm. Không biết chị có thể tư vấn chút xíu cho em không?”

Lệ Linh lập tức sững ra: “Hả?”

Người trầm cảm sao? Nhưng ai mới được? Mà vì sao phải tìm cô để hỏi chứ? Cô chỉ mới là… sinh viên năm nhất thôi mà.

Lệ Linh bối rối hít một hơi, tự dưng cảm thấy áp lực hơn lúc nãy, nét mặt cũng trở nên nghiêm túc: “Đợi đã nha, em quên là chị vừa vào năm nhất nên mới học những bài nền tảng thôi hả? Có thể có một số thứ chị không biết đâu, sao em không tìm ai có chuyên môn hơn ý?”

Đây là lời khuyên mà cô nghĩ là chân thành và hiệu quả nhất dành cho cậu. Không phải cô không muốn giúp, mà vì có lẽ cô không đủ khả năng.

Kỳ Họa Niên nghĩ ngợi giây lát rồi mỉm cười bảo: “Chắc là em thấy tin tưởng chị hơn người khác. Vả lại, em cũng tìm hiểu sơ qua trên mạng rồi, chỉ có một số thứ muốn có người giải thích lại thôi. Dù sao… đây cũng là chuyện riêng tư, em muốn tìm một người thân thiết để tâm sự hơn là tìm người có chuyên môn.”

Đương nhiên trước đó cậu đã có ý định sẽ tìm đến một bác sĩ có chuyên môn để được tư vấn đầy đủ. Song, khi suy đi tính lại, cậu vẫn muốn nói chuyện cùng một người mà mình thấy thân thiết và tin tưởng hơn là một người xa lạ.

Còn vì sao lại chọn Lệ Linh ư? Vì đối với cậu, Lệ Linh là một cô gái sâu sắc, tâm lý và có lòng trắc ẩn. Dù cho cô không thể đưa ra giải pháp nào đó hiệu quả thì ít nhất cậu cũng đã có thể tâm sự cùng cô, giãi bày những cảm xúc rối bời trong lòng mình. 

Ở trên giường, Lệ Linh cúi thấp đầu, lén lút bấu các ngón tay vào tấm ga giường. Cô dám chắc ngay lúc này hai gò má của mình đã đỏ bừng như anh đào, một cảm giác vui sướng ngại ngùng cứ thế dấy lên nơi con tim. 

Tuy giọng điệu của Kỳ Họa Niên rất điềm tĩnh nhưng vừa đủ khiến cô mủi lòng cảm động như thể được tiếp thêm động lực theo đuổi ước mơ. Trong ấn tượng của cô, Kỳ Họa Niên trước giờ ít khi nói dối để làm người khác vui vẻ, hơn nữa qua ánh mắt của cậu có thể thấy được chuyện này là chuyện quan trọng, không hề có một tia đùa giỡn.

Lệ Linh rũ mắt đắn đo một hồi mới ngẩng lên, cười khiêm tốn bảo: “Nếu em đã nói vậy thì chị cũng không từ chối nữa đâu. Tuy trình của chị còn thua kém nhiều người, nhưng mà chị sẽ cố gắng hết sức. Rồi, em muốn bắt đầu từ đâu đây?”

Kỳ Họa Niên nhìn sắc mặt căng thẳng quyết tâm của cô mà khẽ cười trấn an: “Chúng ta có phải đang thi cử đâu mà chị hồi hộp thế? Xem như em đang tâm sự với chị thôi là được rồi.” 

“Ơ…ờ ừm, chị biết rồi.” Lệ Linh phồng má, đá đá chân dưới đất, “Thế… chúng ta nói từ đâu bây giờ?”

Kỳ Họa Niên điềm nhiên tiếp lời: “Hôm qua em có lên mạng tìm hiểu về dấu hiệu cũng như cách chữa trị dành cho người bị trầm cảm. Sau khi đọc qua vài bài, em phát hiện người bạn của em có một số biểu hiện… Ngặt nỗi, hiện tại em không thể ở gần người ấy nên…”

Lệ Linh hơi khó hiểu chen vào: “Điều kiện để chữa trị bệnh trầm cảm cho một người không phải là cần ở bên cạnh người đó hay sao? Nếu em không thể ở gần bệnh nhân thì… làm sao chữa được?” 

“Em biết là thế, nhưng em vẫn muốn tìm hiểu cho kỹ càng về chuyện này. Sau đó em sẽ tự tìm cách để có thể tiếp cận người ấy hơn.” 

Lệ Linh gật gù như tỏ tường phần nào, nghĩ ngợi chốc lát mới nói: “Nhưng em có biết cụ thể tình trạng của bệnh nhân như thế nào không? Nguyên nhân dẫn đến trầm cảm chẳng hạn?”

“Nguyên nhân sao…”

Kỳ Họa Niên nhớ lại những lời Vưu Kiện từng nói, nhưng hình như gã không nói rõ cụ thể tình hình năm ấy nên cậu cũng không chắc lắm. Qua hồi lâu, cậu quyết định nói đến chuyện của Tề Cao Vân. Dù sao tinh thần của Vưu Hạ cũng bị ảnh hưởng không hề nhẹ vì sự việc vừa rồi.

“Trong quá khứ, người ấy từng trải qua chướng ngại tâm lý rồi. Dạo gần đây, người ấy còn gặp phải một chuyện cũng cực kỳ tồi tệ… Bị một kẻ khác bắt nhốt và xâm hại thân thể…” 

Lúc nghe Kỳ Họa Niên nói đến đây, toàn thân Lệ Linh bỗng cứng đờ. Cô cảm thấy rùng mình và ghê sợ, thật lòng không dám tưởng tượng ra khung cảnh khủng khiếp ấy, vì sợ mình sẽ nôn ra mất. 

Bị xâm hại thân thể là một việc quá mức ghê tởm. 

Liệu người đó… có thể vượt qua nổi hay không?

Lệ Linh xót xa hít vào một hơi, hạ giọng cẩn trọng hỏi: “Đã bao lâu rồi? Em có biết tình trạng hiện tại của đối phương không?”

Kỳ Họa Niên bất lực lắc đầu, cười lên có chút chua chát: “Em không rõ nữa, em không thể gặp người ấy nên… Nhưng mà chuyện đó xảy ra cách đây hơn một tuần rồi. Sau khi em đến hiện trường, người ấy đang rơi vào khủng hoảng. Một phần vì tác dụng của thuốc mê nên đầu óc cứ mụ mị, một phần vì bị hành hạ liên tục nhiều ngày, đâm ra hoảng sợ với tất cả mọi thứ xung quanh. Em phát hiện người ấy không muốn gần gũi với bất kỳ ai cả…”

Lệ Linh cắn môi, nói nhỏ xíu: “Kể cả em sao?”

Kỳ Họa Niên không trả lời, chỉ nhíu mày, gật đầu một cái. 

Ngay khi nhìn thấy ánh mắt không cam lòng của Kỳ Họa Niên, Lệ Linh liền xác định được mối quan hệ giữa cậu và người bệnh nhân kia là như thế nào. Trái tim mơ hồ nhói lên nhưng rất nhanh đã lặng xuống, như rơi vào giữa đáy vực tăm tối yên tĩnh. 

Xung quanh không còn âm thanh nào khác, ngoại trừ tiếng quạt trần đang quay vù vù trên đầu. 

Lệ Linh im lặng rất lâu, không biết cô đang tìm cách giúp đỡ Kỳ Họa Niên hay là tự cứu lấy bản thân mình khỏi mớ bòng bong của tình cảm. Chỉ biết khi ngẩng đầu lên, nơi ánh mắt đã không còn chút gợn sóng lăn tăn nào nữa. 

“Chị từng đọc qua một cuốn sách nói về những phương pháp trị liệu dành cho người bị trầm cảm. Theo chị thấy, tình trạng của bạn em có lẽ phải cần chữa bằng liệu pháp tâm động học. Nó liên quan đến việc đi đến gốc rễ tâm lý trầm cảm mà bệnh nhân đang mắc. Nói cách khác, đây là một liệu pháp cần thời gian vì bệnh nhân sẽ được yêu cầu tự kiểm tra và phản ứng quá khứ. Hoặc là thực hiện liệu pháp gia đình cũng là một ý hay. Gia đình có thể giúp cho bệnh nhân mở lòng hơn, tự mình nói ra những rắc rối và trăn trở trong suy nghĩ.”

Đoạn, Lệ Linh đứng dậy, đi về phía bàn học, lấy ra một vài cuốn sách rất dày. Tiêu đề đều liên quan đến các bệnh tâm lý. Cô ôm một chồng khoảng ba, bốn cuốn rồi xoay người đi qua chỗ Kỳ Họa Niên, nhét tất cả vào tay cậu.

Kỳ Họa Niên hoang mang cúi nhìn, định mở miệng hỏi thì bị Lệ Linh cướp lời.

“Em muốn tìm hiểu ngọn ngành thì về nhà đọc hết bốn cuốn này đi, có thể sẽ giúp ích cho em đó. Còn về chuyện người đó từng bị xâm hại thân thể, chắc là em hiểu rõ việc này sẽ ảnh hưởng đến thái độ cũng như cảm xúc của đối phương như thế nào đúng không?”

Kỳ Họa Niên ngẩng lên nhìn cô, “Ừm” một tiếng. 

Lệ Linh bình tĩnh nói tiếp: “Đó sẽ là đoạn ký ức mà họ không bao giờ quên được. Nó sẽ theo vào cả mỗi giấc mơ khi họ ngủ. Mức độ khủng khiếp của nó là như thế. Cho nên sẽ không tránh khỏi việc bệnh nhân tránh né tiếp xúc gần gũi với cả người yêu của họ.” 

Cụm từ “người yêu của họ” bị cô nhấn mạnh, khiến cho Kỳ Họa Niên nhất thời chau mày. 

“Nói cách khác, nếu như em muốn có thể ở bên cạnh đối phương và được đối phương tin tưởng thêm một lần nữa thì em buộc phải… rũ bỏ hết dục vọng trong ánh mắt của mình.” 

“…” 

Rũ bỏ… cái gì cơ?

Hai người nhìn thẳng vào mắt nhau, Lệ Linh không hề tránh né hay ngượng ngập như trước, ngược lại cực kỳ điềm tĩnh như một bác sĩ tâm lý thực thụ. 

“Ý của chị là…” 

Lệ Linh điềm đạm mà thẳng thắn giải thích: “Đối với đàn ông con trai, một khi đã yêu thích người nào đó, họ đồng thời cũng nảy sinh dục vọng đối với người mình yêu. Có người thể hiện rất rõ, có người thì kìm chế rất giỏi. Tất nhiên sẽ không tồn tại một người đàn ông nào không có dục vọng. Và em biết đó, tình yêu luôn được thăng hoa nhờ vào tình dục. Có điều, những bệnh nhân từng bị xâm hại thì sẽ hơi khó để có thể chấp nhận gần gũi với người khác…”

Nghe đến đây, khóe môi Kỳ Họa Niên khẽ run rẩy. Thâm tâm cậu biết rõ một sự thật, nhưng chưa bao giờ dám đối mặt với nó. Nay Lệ Linh lại thẳng thừng nói ra, từng câu từng chữ mạnh mẽ đâm vào tâm trí của cậu. 

Kỳ Họa Niên rũ mắt, mím chặt môi buộc bản thân bình tĩnh.

Lệ Linh đứng thẳng người, giọng điệu nhẹ nhàng hơn một chút nhưng vẫn nghiêm túc: “Yêu một bệnh nhân mắc hội chứng tâm lý không hề dễ dàng chút nào cả. Một khi em vẫn muốn theo đuổi đến cùng, thì em có lẽ sẽ phải chấp nhận một tình yêu không tồn tại dục vọng.” 

Hết chương 97.