Liệt Hỏa Kiêu Sầu

Chương 134




Edit: Yển

Beta: Phong Lưu Quân

Thiếu niên Thịnh Linh Uyên định thần lại, hơi sửng sốt, bấy giờ mới ý thức được khóe miệng mình nhếch lên. Hắn vội vàng nghiêm túc lại, vừa định nói gì đó thì một làn gió nhẹ bỗng nhiên lùa qua cửa sổ, đại khái là kiếm linh bay ra ngoài chơi nghi hoặc tại sao hắn phải che chắn thính giác, thò đầu về từ cửa sổ xem sao.

Đồng vừa quay người, tầm nhìn cũng chuyển về phía này. Sợi tơ lòng của Thịnh Linh Uyên vốn luôn giăng trên người hắn, tuy rằng không nhìn thấy kiếm linh, nhưng hắn đã lập tức phát hiện qua cộng cảm.

Hắn lại bắt đầu căng thẳng, nhưng cố ý không nhìn ra cửa sổ, còn làm bộ nhíu mày, như thể đang suy nghĩ chuyện gì không liên quan đến kiếm linh.

Cho đến khi kiếm linh nhoài lên cửa sổ gọi hắn, hắn mới dường như vừa chú ý đến kiếm linh, giả vờ ngẩng đầu nhìn lên theo tiếng gọi, trán còn hơi nhíu, làm bộ làm tịch hỏi: “Lại sao nữa?”

Kiếm linh ra vẻ bất mãn: “Đang yên đang lành, ngươi cắt đứt thính giác làm gì, có phải nói xấu ta với ông già hay không?”

Thịnh Linh Uyên nhướng mày, điềm nhiên như không: “Đúng là không biết lòng người tốt. Ta và phu tử nói chuyện, chẳng phải ngươi chê phiền nên chạy đi mất à? Sợ làm ồn ngươi mới cho tai ngươi được thanh tĩnh, ai rảnh mà suốt ngày bình phẩm ngươi?”

Kiếm linh: “Thế ta cũng muốn nghe!”

“Muốn nghe thì lượn vào mà nghe, không được xen miệng phá rối.”

Nói xong, hắn dường như không chú ý đến kiếm linh nữa, quay lại bàn “chính sự” với Đan Ly rất nhập tâm. Đan Ly chỉ lặng lẽ nhìn, không nói toạc ra, phối hợp chuyển đề tài. Hai người thao thao bất tuyệt, thỉnh thoảng còn kèm theo những ngôn từ thâm sâu khó hiểu. Chẳng bao lâu, kiếm linh đã bị tra tấn đến độ ù tai chóng mặt.

Thấy Thịnh Linh Uyên đang nói nửa chừng thì đột nhiên không tiếp tục nữa, cứ dán mắt vào chén trà không trong tay mà ngẩn người, Đan Ly biết kiếm linh lại đi rồi.

Ông ta cũng không thúc giục, chỉ nhặt quân cờ, tự bày thế cờ với mình.

Một hồi lâu sau, Thịnh Linh Uyên mới nói một câu không đầu không đuôi: “Phu tử, thi thoảng gặp ngày nắng đẹp, ta sẽ có ảo tưởng buồn cười rằng hi vọng được như thế mãi, không gió không mưa, cũng không có bốn mùa nóng lạnh.”

Đan Ly gật đầu nói: “Mệt mỏi vì nhân thế lâu, hiếm khi gặp chuyện vui, thỉnh thoảng sa vào cũng chưa hẳn là không thể.”

Người thừa kế trẻ tuổi của nhân tộc sửng sốt.

Ngay sau đó lại nghe thấy quân cờ chạm nhẹ vào bàn cờ gỗ, Đan Ly nói tiếp: “Nhưng nếu vì vậy mà trời thu mát mẻ không chuẩn bị áo bông, xuân đến không chuẩn bị vải đay, thì sẽ khiến người ta chê cười.”

Thịnh Linh Uyên thời niên thiếu không phục, ngụy biện: “Nhưng rèn luyện sao cho thân thể được tới mức hàn thử bất xâm, chẳng phải là có thể bất kể gió táp mưa sa, coi bốn mùa như thường sao?”

Đan Ly cho hai tay vào trong tay áo, ngồi ngay ngắn. Chiếc mặt nạ quái dị khiến ông ta giống như một tà thần không buồn không vui.

“Điện hạ,” ông ta bình tĩnh nói, “đối với dân chúng yếu đuối phiêu bạt khắp nơi, mấy trận gió tuyết đã đủ để trí mạng. Còn cao thủ, tuy rằng hàn thử bất xâm, nhưng vẫn phải tránh gió rền chớp giật. Ai cũng có kiếp nạn nhấp nhô mình không qua được, thứ không thay đổi, chỉ có sự vô thường[1] mà thôi.”

Thịnh Linh Uyên thất thần hồi lâu. Có lẽ là thông qua tầm nhìn cộng cảm, thấy kiếm linh đi xa rồi, hắn mới không kìm được mà hỏi: “Phu tử, Đông Xuyên có rất nhiều truyền thuyết nói về tình cảm đến chết vẫn không thay đổi, thầy có tin không?”

“Phàm là chuyện có thể truyền cho đời sau, thì ắt phải có căn cứ nguyên mẫu, có gì mà không tin?” Đan Ly hơi giễu cợt, lại cười nói, “Nhưng điện hạ à, tuổi thọ của vu nhân không quá trăm năm, không khác mấy với nhân tộc, bất quá là thoáng chốc so với đất trời. Hạng kiến càng giun dế, lấy sinh mệnh của mình để đo độ lâu dài, ngài không cảm thấy nực cười à? Tuy đến chết vẫn không thay đổi, nhưng nếu bất tử thì sao? Nếu ngài đồng thọ với Xích Uyên, ngài cũng có thể không thay đổi đến khi trời tàn đất tận à?”

Khi ấy, Thịnh Linh Uyên không hiểu ẩn ý trong câu này của ông ta, cũng không biết tuổi thọ của mình không chỉ trăm năm, chỉ nghe ra tầng hàm ý: tuổi thọ của nhân tộc chỉ kéo dài trăm năm, kiếm linh phải mất ngàn năm mới trưởng thành, số mệnh đã định là không chung đường. Hắn hết sức nản lòng, vì thế cố dằn tình cảm thiếu niên xuống, nói với vài phần giận dỗi: “Cũng chưa hẳn, dù sao ta và phu tử đều chưa sống nhiều năm như vậy.”

Đan Ly nghe xong lại sửng sốt. Tiếp đó, ông ta dường như nở nụ cười: “Cũng phải.”

Nói đoạn, ông ta bốc một nắm quân cờ, thả vào giỏ tre: “Điện hạ, chi bằng thần đánh cược với ngài một ván nhé?”

Thịnh Linh Uyên nhìn ông ta, vẻ hơi ù ù cạc cạc: “Ôi, ta chỉ thuận miệng nói chuyện phiếm, phu tử nghiêm túc thế làm…”

Đan Ly nói: “Ta thường nói với điện hạ, dẫu là dương mưu hay quỷ đạo, đều không thể lo hết mọi mặt. Bởi vì thế sự vô thường, thứ phàm tục chúng ta kiến thức nông cạn, há dám quy kết thị phi? Thứ hôm nay được coi là chuẩn mực, dăm ba chục năm, hoặc dăm ba trăm năm nữa sẽ thành trò cười mà ngay cả hạng người tầm thường nhất cũng không buồn nhếch môi. Phải để lại một đường, cho ông trời phán xét đúng sai. Đã tin sự vô thường, lại khăng khăng rằng cái mình tin là đúng, thế chẳng phải tự mâu thuẫn à?”

Thịnh Linh Uyên: “…”

Người này đang nói cái khỉ gì vậy?

Thịnh Linh Uyên mới mười sáu tuổi khi ấy chẳng hiểu ra sao. Vốn chỉ là không kìm được nỗi lòng, thổ lộ một chút tâm sự tuổi thiếu niên với bậc cha chú mà mình tin tưởng, không ngờ người kia đầu tiên là nói một tràng trào phúng khó hiểu, sau đó bắt đầu tụng kinh kiểu ông nói gà bà nói vịt cho hắn với tấm mặt nạ “sống thế là đủ”, hệt như một lão hòa thượng khắc từ gỗ du.

Người trẻ tuổi ai mà chẳng vậy, ba hồn bảy vía đều bị tâm sự của mình chiếm hết, phàm là điều mình tạm thời chưa hiểu được, thì đều cho rằng người khác không hiểu mình. Khi đó, Thịnh Linh Uyên cảm thấy mình ăn no rửng mỡ mới đi nói chuyện gió trăng với loại người có tiếng là không hiểu chuyện tình cảm như Đan Ly.

Mãi đến ba ngàn năm sau, hắn bỗng nhiên quay đầu lại, mới hiểu được, buổi chiều ngày thu yên bình ấy, những lời Đan Ly nói với hắn cách một bàn cờ có ý tứ sâu xa nhường nào.

Thịnh Linh Uyên ngẩng đầu lên, thân hình Đan Ly đối diện bàn cờ tàn trở nên mơ hồ, giống người, lại giống như đã biến trở về thành tượng thần chu tước bằng gỗ bằng bùn. Mà lòng bàn tay hắn giờ đây cũng đã chai sần, không còn là dáng dấp mười sáu tuổi ấy nữa.

Ở nơi không biết là đâu này, cách một bàn cờ cũ, nhân hoàng sau khi thoái vị ba ngàn năm và tượng thần chu tước đã tan thành mây khói đối diện với nhau.

Thời gian đều trở nên xấu hổ theo.

Lần cuối hai người gặp mặt là ở trước ao máu, đã đến nông nỗi không đội trời chung. Cho nên khi Thịnh Linh Uyên lại trông thấy tấm mặt nạ quen thuộc này, hắn nhất thời không nói rõ được cảm giác của mình là gì.

Ngôn ngữ cơ thể của Đan Ly thay đổi, ông ta không mang dáng vẻ nhìn xuống từ trên cao của người dẫn đường lẫn người thầy như trong ký ức của Thịnh Linh Uyên nữa, mà cung kính khom lưng chào Thịnh Linh Uyên, rồi nói: “Bệ hạ, xa cách đã lâu, có muốn đánh một ván cờ với thần không?”

Thịnh Linh Uyên xua tay, cười nói: “Kỳ nghệ không giỏi, thôi.”

Đan Ly không cố ép, tự mình bốc một nắm quân cờ, tiện tay bày ra bàn cờ.

Thịnh Linh Uyên cụp mắt, thản nhiên nói: “Phu tử, năm đó ông dạy ta ‘thế sự vô thường, không lo hết được mọi mặt’, phải để lại một đường cho ông trời phán xét đúng sai. Ông thẳng tay phá hủy Đông Xuyên, diệt cao sơn nhân, khiến ảnh tộc mai danh ẩn tích, đập gãy thân kiếm của Đồng, cuối cùng ép ta nhảy xuống Xích Uyên… giờ ông giải thích thế nào về cục diện hiện nay?”

Tiếng Tuyên Cơ vang lên trong không khí, hắn nói xen vào: “Tấm gương tiêu cực.”

Hắn như lại trở về ngày bé, luôn làm bạn bên cạnh Thịnh Linh Uyên, không ai nhìn thấy hắn. Nhưng nếu Linh Uyên nói chuyện với ai quá lâu, hắn sẽ mất vui vì cảm thấy bị xem nhẹ, sau đó bắt đầu chen ngang ngắt lời, gây sự chú ý.

Tình cảnh này quá quen thuộc, Thịnh Linh Uyên và Đan Ly đều nở nụ cười.

Tuyên Cơ lại nói với Thịnh Linh Uyên: “Cười cái gì? Ngươi và mẹ ngươi cũng là tấm gương tiêu cực, bà ta còn ngạo mạn hơn ngươi. Xem mấy việc giở gió bà ta làm đi.”

Vị công chúa điện hạ của yêu tộc này thậm chí còn chẳng để lại lấy một cái tên, bởi vì cả đời, bà ta đều nấp sau nhiều tầng màn che, lén lén lút lút, tháo tường đông vá tường tây chơi trò cân bằng.

Bà ta thèm muốn Xích Uyên, lại không dám khiêu chiến mẫu tộc chu tước của mình, vì thế dụ dỗ Bình Đế phát binh trước.

Sau đó muốn giết yêu vương báo thù, nhưng Át chủ bài trong tay mình mất hết, thế là dùng đến tượng thần chu tước Đan Ly.

Bà ta đương nhiên không chịu để tượng thần chu tước sống thay mình, dùng xong Đan Ly còn qua cầu rút ván, rải “lời tiên đoán”, dụ Trần Hoàng hậu sinh ra thiên ma, ngồi chờ nhân hoàng lớn lên rồi đấu với Đan Ly lưỡng bại câu thương.

Ba ngàn năm sau, bà ta vẫn dùng cùng một chiêu ấy, tạo một ảnh yêu vương xông pha chiến đấu cho mình, trước hết khuấy tung Cục Dị khống đến trời long đất lở, tiếp đó nhốt Thịnh Linh Uyên lại, diệt trừ thủ hỏa nhân. Khi mọi sự đã chuẩn bị sẵn sàng, bà ta mới chịu lau lớp phấn nhòa, khoan thai bước ra, ngư ông đắc lợi.

Tiếc thay, suốt cả một đời, bà ta như thể đều đang chứng thực câu “không lo hết được mọi mặt” của Đan Ly, vận khí dường như luôn không tốt.

Yêu vương vốn ngoan ngoãn phục tùng lại chè chén quá độ sau lưng bà ta, chó nhà phản chủ.

Mạnh Hạ dẫu sao cũng là ảnh nhân, chủng tộc ảnh nhân này vốn dĩ không ổn lắm, có thể đều hơi cố chấp. Đan Ly bị nhân hoàng hành ác như thế mà còn trở tay đào một cái hố, sau khi chết bốn năm vẫn có thể chôn bà ta ở Xích Uyên, khiến bà ta thất bại trong gang tấc.

Sau khi Xích Uyên bị phong ấn hoàn toàn, linh khí và ma khí ở nhân gian đều trở nên thưa thớt, đám yêu ma quỷ quái cũng đều thành đèn không dầu, đành phải im thin thít, hạ màn trong ảm đạm, để lại một thủ hỏa nhân “Độc Cô Cầu Bại”… và một đám con cháu không biết chuyện, ai cũng sống như một người bình thường.

Khó khăn lắm mới đợi được đến khi phong ấn Xích Uyên trở nên lỏng lẻo, quần ma rục rịch, nhưng bà ta đã không biết thế giới bên ngoài. Bà ta thức tỉnh lần nữa, lại mất trăm năm tính toán, sắp đặt, vốn tưởng rằng chiếm hết “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, không ngờ lại bị một đám phàm nhân… và cái đám được gọi là “khả năng đặc biệt” chẳng hơn phàm nhân là mấy phá rối, khiến mọi việc đều không thuận lợi.

Tuyên Cơ nói: “Dù sao ba mươi sáu phong ấn đều đã không còn, ta sắp bỏ gánh rồi.”

“Năm ấy quả thật không thể không dập Xích Uyên. Mấy chục năm hỗn chiến, máu chiến của các tộc vẫn suy giảm, thù hận còn đó, tộc chu tước canh giữ Xích Uyên đã tiêu vong, không dập lửa Xích Uyên thì không thể xử lý.” Đan Ly nói, “Nhưng… Xích Uyên từ xưa ẩn chứa địa hỏa, thiết nghĩ, trên đời có thần thì ắt có ma, có ánh sáng thì ắt có bóng đen, có lẽ mạnh mẽ trấn áp thì trái với thiên mệnh, bởi vậy năm ấy, khi bệ hạ nhảy xuống Xích Uyên, vô tình thế nào lại tái tạo thân kiếm cho ngươi. Cái ‘dài lâu’ mà thần tưởng tượng không thể trở thành sự thực. Đến nay, các tộc thống nhất, phong ấn Xích Uyên vỡ hết, vô hình trung cũng là thiên mệnh sửa sai chăng… Thần sai rồi.”

Trong thoáng chốc ấy, Tuyên Cơ và Thịnh Linh Uyên đều im lặng.

Đúng sai thì có ý nghĩa gì đâu?

Người chết không thể sống lại, quá khứ đều đã thành lịch sử.

Một hồi lâu sau, Tuyên Cơ mới nói: “Xin lỗi mà có tác dụng, thì cần cảnh sát làm gì? Thôi, dù sao ông cũng chết rồi… Cơ mà đây là đâu? Ảo giác của ai à? Quả nhiên chỉ trong mơ mới thấy Đan Ly xin lỗi.”

Đan Ly không để bụng chuyện hắn nói năng lỗ mãng, nói với Thịnh Linh Uyên: “Bệ hạ, ngài còn nhớ ván cược thần nói với ngài trước bàn cờ này năm ấy chứ?”

Ván cược năm ấy, Đan Ly không nói ra miệng, Thịnh Linh Uyên mười sáu tuổi không hiểu, nhân hoàng ba ngàn năm sau thì không cần nghe đã đoán được.

Thịnh Linh Uyên chậm rãi ngước lên, chạm vào ánh mắt sau mặt nạ của Đan Ly: “Thảo nào năm ấy, ông mặc cho Mạnh Hạ giấu vạc đồng thau và di hài thiên linh đi.”

Tuyên Cơ lập tức cảnh giác: “Ơ này, khoan đã, cược gì cơ? Hai ngươi lại giấu ta làm gì  đấy?”

Thịnh Linh Uyên: “Nếu ông ta thắng, thì ta hồn phi phách tán. Nếu ta thắng…”

Tuyên Cơ không đợi hắn nói xong đã nổi giận: “Thịnh Linh Uyên! Ta đã nói thế nào? Ta biết ngay mà, ta đã sớm nói với Lão Vương rằng ngươi chính là một tên cặn bã sểnh ra một cái là ra ngoài cá cược! Ngươi…”

Thịnh Linh Uyên giơ tay lên, tựa như đang xoa dịu người vô hình nào đó trong hư không.

“Nếu ta thắng,” hắn nói, “tộc trưởng tộc chu tước phải trao cả thân thể lẫn trái tim mình cho ta.”

“Uỳnh” một tiếng, trên núi Bích Tuyền, đạn tự hành bắn lên mặt tượng thần nữ, nhưng pho tượng ấy không chút sứt mẻ. Âm trầm tế văn đã hoàn toàn nuốt chửng di hài chu tước, công chúa yêu tộc cười phá lên: “Muộn rồi!”

[1] Khái niệm trong Phật giáo, chỉ sự không chắc chắn, hay thay đổi, không trường tồn.