Liêu Trai Chí Dị

Chương 107: Thiên cung




( Thiên cung)

Quách sinh, người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều tà có bà già mang đến cho một ly rượu. Sinh hỏi duyên cớ, bà già cười bảo: “Không phải hỏi, uống đi, sẽ thấy cảnh tuyệt vời”. Nói rồi đi, Sinh nâng chén khẽ nhấp, thấy hương thơm tỏa khắp. uống vào rồi, say lịm đi không biết gì nữa.

Tỉnh ra Quách thấy mình nằm với một người. Sờ soạng thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, thì ra là con gái. Hỏi không nói, chẳng cần biết sấp tẻ. Quách cứ làm tới luôn. Xong rồi, lấy tay sờ mó xung quanh thấy bức vách toàn đá, không khí âm ấm hơi đất như ở trong mộ vậy. Hoàng quá, Quách nghi là quỷ bẫy. Thủ thỉ với cô gái là thần gì, cô gái đáp:

- Ta không phải là thần mà là tiên. Đây là động phủ. Ta với anh vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Vào qua một lần cừa nữa, nơi có ánh sáng lọt vào có thể đại tiểu tiện được.

Dặn rồi cô gái trờ dậy, đóng cửa đi mất. lâu sau, bụng Quách đã đói, một cô gái mang bánh bao canh vịt cho ăn. Xung quanh vẫn cứ đen như mực, không biết sớm tối. Chỉ khi cô gái vào ngủ mới đoán là đêm. Quách bực dọc bảo:

- Ngày không ánh nắng mặt trời, đêm không tia đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu. Cứ thứ này, nàng Hằng Nga có khác gì mụ La Sát, thiên đường không phân biệt với địa ngục.

Cô gái cười an ủi:

- Vì anh là người trần tục hay bép xép cho nên ta không muống lộ mặt. Vả lại ăn nằm trong bóng tối, méo tròn đẹp xấu cũng có thể phân biệt, hà tất phải đèn đuốc làm gì?

Ở mấy ngày buồn quá, Quách đòi về. Cô gái bảo:

- Đêm mai cùng chàng lên thiên cung rồi sẽ chia tay.

Hôm sau cô tiểu hoàn xách đèn lồng vào bảo:

- Nương tử đợi chàng lâu rồi.

Quách đi theo, trong ánh sao vằng vặc, thấy vô số lầu gác. Qua mấy khúc hành lang chạm vẽ thì đến một nơi: trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng tựa như ban ngày. Bước vào thấy một mỹ nhân tuổi trạc hai mươi, ngồi quay hướng nam, trang sức cự kỳ hoa lệ, đầu đính minh châu, áo gấm hoa mắt, quần sa bóng lộn, đúng là người trời. Quách bối rối, người như mụ đi, bất giác quì xuống. Mỹ nhân sai nữ tì đỡ dậy, dìu vào ghế. Lát sau các món sơn hào hải vị bày la liệt. Mỹ nhân rót rượu mời:

- Nâng ly rượu này để tiễn chàng về.

Quách gập mình thưa thốt:

- Trước đây giáp mặt mà không biết người tiên, thực lấy làm xấu hổ. Xin cho chuộc lỗi, được làm kẻ bầy tôi suốt đời không hai lòng.

Mỹ nhân đưa mắt nhìn tì nữ cười mủm mỉm, sai thu tiệc soạn giường.

Trong nội thất cũng thướt tha trướng gấm,, chăn gối nức hương. Mỹ nhân bảo Quách ngồi vào giường. Trong lúc uống nàng nhắc mấy lần:

- Chàng xa nhà lâu, nay về cũng được.

Đã hết canh một, Quách vẫn chưa ngõ lời từ biệt. mỹ nhân gọi nữ tỳ xách lồng đèn đưa tiễn. Quách nín thít giả vờ say rượu nằm lăn ra giường, lay gọi không dậy. Nàng sai các tì nữ cởi quần áo. Một cô gí vào chỗ kín của Quách giỡn:

- Anh chàng mặt mũi có vẻ ôn nhã mà cái của này lại chẳng “văn vẻ” tí nào!

Họ đưa Quách vào trong giường khúc khích đi ra. Mỹ nhân cũng lên giường. Quách trở mình. Nàng hỏi:

- Say à?

- Tiểu sinh có say đâu! Chỉ mới thấy người tiên, thần hồn đã nghiêng ngửa.

Mỹ nhân dặn:

- Đây là thiên cung, gần sáng phải ra. Vào trong động phủ nếu hiềm không vừa ý, chi bằng sớm từ biệt.

Quách gạ khéo:

- Nay có người ban đêm nhặt được đóa hoa đẹp, chỉ cầm cánh ngửi hương mà không thấy sắc màu thì tình cảnh ấy làm sao chịu được?

Nàng cười lấy đủ đèn đến, sáng trưng.

Vừa sang canh tư, mỹ nhân đã gọi nữ tì mang đèn lồng, ôm áo, đưa Quách vào động ngủ. ở đây các đồ trang sức màu hồng tinh xảo, nơi ngủ thì nệm da, thảm lông dày dặn. Quách cởi giày ôm chăn, ả nữ tì còn bần thần quanh quẩn chưa đi. Quách để ý nhìn kỹ thất phong tươi tốt, liền cợt nhả:

- Có phải cô bảo tôi cái của ấy không “văn vẻ” phải không?

Ả cười, lấy chân đá cái gối nói:

- Thôi anh cứ nằm đờ ra đi cho được việc, đừng lắm lời nữa.

Nhìn đôi giày của ả có đính ngọc châu long lanh, to như hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo ả vào, ả ngã vào lòng Quách, rồi ôm lấy nhau, hú hí rên rỉ mãi. Quách hỏi:

- Bao nhiêu tuổi rồi?

Đáp:

- Mười bảy.

- Xử nữ đã biết thế nào là tình chưa?

- Em không còn là xử nữ, song hoang vắng đã ba năm nay rồi.

Quách hỏi dò họ tên, tông tích tiên nữ bấy lâu chung đụng, ả nữ tì dọa:

- Chớ hỏi! Không phải là tiên nữ trên thượng giới thì cũng là dị nhân ở trần gian. Nhược bằng muốn biết tỉ mỉ chuyện đó thì e rằng không có đất mà chôn.

Thấy nói thế, Quách không dám hỏi thêm.

Đêm sau nữa nữ nhân lại mang đèn tới, cùng nhau ăn ngủ liền liền như vậy. Một tối, nàng bảo:

- Những ước được cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay phải quét dọn thiên cung, cho nên không thể ăn nằm với nhau được nữa. Xin cùng chuốc chén từ biệt.

Quách khóc, xin một vật gì làm kỷ niệm ái ân. Cô gái không cho, chỉ tặng một cân vàng, trăm hạt ngọc châu.

Hết canh ba, Quách bỗng say lịm, tỉnh dậy thấy tứ chi bị trói rất chặt, chân không thể duỗi, đầu không thể thò ra, hết sức giãy giụa thì lăn xuống chân giường. Quách lấy tay sờ đoán thì biết mình bị nhét vào trong túi chăn gấm, ngoài nịt chặt dây. Ngồi dậy đắn đo suy gẫm, thoáng thấy cái giường mới biết đây là nhà mình.

Tính đến bây giờ, Quách biệt tích đã ba tháng, người nhà đều cho là anh ta đã chết. Giải thoát được rồi, lúc đầu Quách chưa dám ngỏ chuyện cùng ai, chỉ sợ bị tiên trừng phạt. Song mối ngờ vực vẫn day dứt trong lòng, dần dà anh ta thuật lại với bạn. Không ai biết duyên cớ ra sao. Cái chăn bọc anh ta vẫn gấp để đầu giường mùi hương sực nức, giở ra xem kỹ thì đó là loại vải Hồ Châu tẩm hương liệu, liền trân trọng giấu đi. Sau có một quý quan biết chuyện ấy, hỏi căn hỏi vặn đến điều rồi cười mà bảo:

- Đó là ngón chơi của Giả hậu (1) bắt đĩ đực về đấy. Tiên nào lại như thế. Tuy nhiên phải hết sức giữ kín chuyện, lộ ra là chết cả họ. Có người thầy bói thường ra vào các nhà quyền quý, nói rằng hình dạng các lầu gác như Quách kể đúng là dinh Nghiêm Đông (2) rồi không sai.

Quách nghe thấy vậy, vô cùng sợ hãi, vội đưa cả gia đình đi nơi khác, ít lâu sau Nghiêm bị giết mới dám mon men trở về.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

(1) Giả hậu: hoàng hậu của Tấn Huệ Đến, là người vô cùng dâm đãng, thường sai các mụ hầu ra ngoài tìm kiếm các trai tơ khỏe đẹp mang vào trong cung cấm để thỏa mãn lòng dục.

(2) Nghiêm Đông là tên hiệu của Nghiêm Thế Phan, con Nghiêm Tung đời Minh. Nhà này ỷ thế làm quan to người quyền thế, cho nên nhà cửa vô cùng xa hoa, đời sống hết sức phóng đãng, dâm dật.

--- ------ BỔ SUNG THÊM --- ------

Giấc Mộng Đắc Chí

(Vương Tử An)

Vương Tử An, danh sĩ đất Đông Xương, trầy trật hoài trong sự lều chõng Khoa ấy, vào trường thi hương xong rồi, Vương rất mực tin tưởng. Gần đến ngày treo bảng xướng danh, uống rượu say mèm về nằm ở buồng trong.

Bỗng có người đến bẩm:

- Ngựa đã tới!

Vương chồm dậy bảo:

- Thưởng cho người báo mười nghìn!

Người nhà biết là say, nói theo đà để cho Vương yên:

- Xin ngủ cho! Thưởng rồi.

Vương nằm ngủ yên.

Lát sau có người vào bẩm:

- Ngài đỗ tiến sĩ rồi!

Vương nói rằng mình chưa về Kinh thi Hội làm sao đỗ tiến sĩ? Người ấy nói:

- Ngài quên rồi ư? Đã qua tam trường rồi.

Vương mừng quá, trỗi dậy gọi:

- Thưởng người báo mười nghìn!

Người nhà lại nói gạt:

- Xin cứ ngủ đi! Đã thưởng rồi.

Không lâu, một người vội vã vào bẩm:

- Ngài được bổ vào viện Hàn Lâm, ông trưởng ban cũng đã đến.

Nhìn ra, quả có hai người, áo mũ chỉnh tề đang sụp lạy dưới giường. Vương gọi dọn rượu khoản đãi. Người nhà lại nói lừa cho ngủ và cứ cười mãi sao ông ta say quá thể như thế.

Vương lại nghĩ không thể không đi ra ngoài cho vẻ vang làng xóm, liền cất tiếng gọi to trưởng ban. Gọi đến hơn chục lần, không thấy ai thưa. Người nhà cười mà bảo:

- Xin tạm nằm đợi một chút, đã sai người đi tìm ông ta rồi.

Rồi trưởng ban tới thật. Vương đập giường giậm chận mắng:

- Đồ rùa!

Trưởng ban nổi giận cãi lại:

- Thực là đồ vô lại! Tôi chỉ muốn đùa ông một chút mà ông mắng thật à?

Vương tức lắm vùng dậy tát cho ông ta một cái làm rơi cả mụ xuống đất. Vương cũng ngã theo. Bà vợ đỡ dậy bảo:

- Trời ơi! Sao mà say thế này?

Vương lẩm bẩm:

- Tên trưởng ban ăn hại, tôi phải trị nó. Say đâu mà say!

Bà vợ cười:

- Trong nhà chỉ có bà lão giúp việc, ngày thổi cơm, đêm đốt lò cho ông, làm gì có trưởng ban, trưởng biếc gì? Thôi, đến khi ông rạc xương ra.

Con cái trong nhà đều cười phá.

Cơn say của Vương rồi cũng dần phai đi. Vương như vừa tỉnh mộng mới biết những việc xảy ra vừa qua đều là ảo cả. Song ông ta vẫn nhớ việc trưởng ban rơi mũ. Tìm ở sau cửa thì thấy một cái núm dải mũ to như cái chén. Mọi người đều lấy làm lạ.

Vương tự cười rằng:

- Xưa thì người bị quỷ trêu cợt, còn nay ta bị hồ báng bổ sỉ nhục.

LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ

Tú tài của trường thi có bảy cái “giống như”:

* Lúc mới vào trường, chân trắng vác chõng giống như ăn mày.

* Lúc gọi tên, quan thét lệ mắng giống như tù nhân.

* Lúc về nhà trọ, hốc vách rút đầu, buồng buồng thò cẳng, giống như ong lạnh cuối thu.

* Lúc ra khỏi trường thi, tâm thần thản thốt, trời đất đổi màu giống như chim ốm rời lồng.

* Lúc đợi yết bảng thì cây cỏ đều kinh, mộng tưởng cũng ảo. Nếu đỗ ư, thì khoảnh khắc đã này lầu này gác! Nếu trượt ư, thì nháy mắt xương cốt mục ra. Lúc ấy thôi đứng ngồi không yên giống như con khỉ bị bắt.

* Lúc xướng danh không có tên thì tinh thần đổ sụp người chết lặng đi giống như con nhặng nhả bả,có ai trêu đùa cũng thây kệ.

*Sau đó bất đắc chí mắng quan trường mù, bút mực không thiêng. Mọi vật dụng học hành đều đem đốt. Đốt không hết thì đập vỡ. Đập không hết thì đem ném xuống nướcbẩn. Từ đó xõa tóc vào núi tu tiên, úp mặt vào vách đá. Nếu có người thương tình bảo sẽ tiến cử, nhất định giơ dao dọa đuổi. Rồi thánh ngày qua mau, cơn uất hận tạm lắng, tài cũng dần mòn đi, chẳng khác gì con chim cưu vỡ trứng, thôi thì đành lại cõng rác làm tổ, ôm ấp trứng mà thôi.

Tình cảnh đến như vậy, người trong cuộc khóc thương tưởng chết mà người ngoài cuộc đứng nhìn chỉ thấy thật là đáng cười.

Tấc lòng Vương Tử An ngổn ngang muôn nỗi, chắc rằng quỷ, hồ cười trộm đã lâu mới nhân bị say mà đùa trêu như thế. Con người trên giường tỉnh rượu, há không phá lên mà tự cười mình sao? Thử xem cái ý vị khoa bảng đắc chí chẳng qua trong một lát, các ông nên danh nên giá chỉ trong đôi ba lát. Thế mà mới trong một sớm Vương Tử An đã được nếm hết. Cái ơn của hồ đáng là ơn bậc thầy vậy.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch