Linh Dị Âm Dương

Chương 41: 41: Bia Trấn Hồn





Ánh trăng xuyên qua cửa sổ, nhuộm một lớp sáng bàng bạc vào căn phòng.
Cố Cửu quấn mình như cái kén tằm, tựa đầu vào vai Thiệu Dật.

Tiểu Đệ thì ghé vào bên gối của cậu nằm ngủ, hơi thở đều đều.
Bỗng đâu một trận gió lạnh quét qua làm nhiệt độ trong phòng lập tức hạ thấp xuống thấy rõ.
Tiểu Đệ thoạt nhìn có vẻ ngủ say ấy vậy mà lại ngóc đầu lên nhanh như chớp, nó nhìn vào khoảng không trước mặt, meo một tiếng.
Cố Cửu và Thiệu Dật nghe động cũng lục tục tỉnh dậy.
Bùi Dữ xuất hiện từ thinh không đã ngồi bên bàn từ bao giờ, ung dung thưởng thức trà Cố Cửu chuẩn bị sẵn cho hắn trước khi đi ngủ.

Thấy hai người đã tỉnh, Bùi Dữ cười nói: “Các con vẫn cảnh giác như vậy.”
“Sư cha.”
Cố Cửu khoác quần áo bước xuống giường, gần đây cậu không được ngủ thẳng giấc, khó khăn lắm mới được ngủ có chăn ấm nệm êm, bây giờ trông có vẻ hành động nhanh nhẹn thế thôi chứ thật ra hoàn toàn là theo bản năng mà làm, đầu óc vẫn còn mê li lắm.

Thiệu Dật thì đã tỉnh hẳn rồi, dù sao thì hắn cũng hơn Cố Cửu vài năm kinh nghiệm màn trời chiếu đất.

Bùi Dữ vẫn trẻ tuổi tuấn tú như xưa, chỉ có điều khuôn mặt hắn trắng bệch, nhìn là biết ngay không phải người sống.

Hắn buông chén trà, hỏi thẳng: “Các con tìm ta có việc gì?”
Bùi Dữ là âm sai, thân mang công vụ nên có thể bị gọi đi câu hồn bất cứ lúc nào, lần nào lên gặp cũng phải tranh thủ thời gian, không ở lâu được nên không dài dòng làm gì.
Cố Cửu đưa lá bùa có viết bát tự của Triệu Bản cho Bùi Dữ xem.
“Bọn con cần tìm một con quỷ, định hỏi mượn Tỏa Hồn Liên của sư cha một chút.”
Bùi Dữ cầm lấy bát tự xem qua một lượt rồi nhìn về phía Thiệu Dật: “Sao vậy? Các con gọi không được à?”
Thiệu Dật gật đầu: “Có điều bất thường.”
Bùi Dữ không nói lời nào, nâng tay lên, lập tức một sợi dây xích màu đen xuất hiện trong tay hắn.

Bùi Dữ dán lá bùa vào Tỏa Hồn Liên, ngay sau đó, chữ trên lá bùa như gặp nước nóng bị bốc hơi vậy, từ từ biến mất cho đến khi chỉ còn lại một lá bùa trống.
“Ngũ lôi sứ giả, ngũ đinh đô ty, Huyền Không Đại Thánh, phích lịch oanh oanh, triều thiên Ngũ Nhạc, trấn định Càn Khôn, nếu có không từ, bắt hồn quy phục.

Cấp tốc nghe lệnh!”
Theo từng tiếng niệm của Bùi Dữ, dây xích màu đen vốn đang rũ trên đất đột nhiên động đậy, kêu leng keng rồi uốn uốn lượn lượn trườn đi như một con rắn.

Khẩu lệnh vừa dứt, Tỏa Hồn Liên liền phóng lên cao, lơ lửng giữa không trung.

Tiếp đó, nó bay quanh phòng một vòng rồi mới xuyên qua cửa vụt đi, biến mất vào màn đêm.

Tỏa Hồn Liên có thể đi ngàn dặm trong chớp mắt, chỉ một lúc sau nó đã quay lại, thế nhưng đầu bên kia lại trống rỗng.
“Vẫn không câu được?” Cố Cửu ngạc nhiên kêu lên.
Bùi Dữ nhíu mày, giơ tay thu Tỏa Hồn Liên về, sờ lên nó, vuốt ve tỉ mỉ như đang thăm dò, sau đó hắn nói: “Nó dính phải sinh khí.

Có vẻ như con quỷ này bị người giam giữ rồi, sinh khí trong trận pháp ngăn Tỏa Hồn Liên lại nên mới không câu được hồn về.”
Tỏa Hồn Liên chỉ câu hồn người chết, có sinh khí tức là còn sự sống nên nó chẳng làm gì được.

Lần này ngay đến Tỏa Hồn Liên cũng không có tác dụng, Bùi Dữ đành lực bất tòng tâm, không giúp được gì hơn.
Bùi Dữ tạm biệt đi mất rồi, Cố Cửu và Thiệu Dật cũng không ngủ lại được nữa, thế là thức luôn ngồi vẽ bùa, sẵn tiện cùng nhau bàn bạc về chuyện của Triệu Bản.

Việc đã đến nước này, rất có thể y đã bị người còn sống hãm hại.

Kẻ đó hoặc là thuật sĩ muốn dùng hồn phách để luyện loại pháp thuật ác độc, hoặc cũng có thể là kẻ thù lúc y còn sống.
Tuy nhiên, giả thuyết sau có vẻ không hợp lý lắm, bởi vì Trương Ngọc Đường đã khẳng định Triệu Bản là một người hiền lành khiêm tốn, lúc còn sống ai ai cũng quý mến, cho dù có xích mích hay hiểu lầm đi chăng nữa thì cũng không đến nỗi người đã chết rồi mà vẫn chịu không buông tha.
Hai người vẽ được mấy chục lá bùa thì có tiếng gà gáy.

Trời vừa hửng sáng, Trương Ngọc Đường đã chạy qua tìm gặp hai sư huynh đệ với khuôn mặt đầy vẻ mỏi mệt.

Hắn nói đêm qua lại mơ thấy Triệu Bản, trông y rất đau khổ, miệng vẫn luôn mấp máy muốn nói điều gì đó nhưng không thốt lên thành tiếng được.
Cố Cửu hỏi Trương Ngọc Đường: “Quần áo Triệu Bản mặc lúc còn sống có còn?”
Trương Ngọc Đường vội nói: “Còn, còn.

Sau khi A Bản đi tôi có dặn để lại một ít quần áo không được đốt, bây giờ còn cất trong phòng riêng của huynh ấy.

Để tôi cho người đi lấy ngay.”
Trương Ngọc Đường sai người đi lấy vài bộ quần áo của Triệu Bản tới, thế nhưng bọn họ đợi hồi lâu mà chẳng thấy tăm tích quần áo đâu.

Đến khi Trường Ngọc Đường mất kiên nhẫn, đang định gọi thêm người qua đó xem sao thì mới thấy người hầu được sai đi lật đật trở lại, hai tay trống trơn.
Trương Ngọc Đường nhíu mày hỏi: “Quần áo đâu?”
Người hầu nọ đưa tay quẹt mồ hôi trán, thưa: “Bẩm lão gia, trong phòng của Triệu công tử không có quần áo.”
“Sao lại thế được?” Trương Ngọc Đường kinh ngạc.

“Mấy bộ quần áo đó là do ta chính tay xếp lại rồi cất vào kia mà.


Hòm xiểng đã tìm cả chưa?”
Người hầu đáp: “Đã tìm hết rồi lão gia.

Thật sự không có.”
Cố Cửu thấy vậy bèn hỏi: “Trương lão gia, sau khi ngài cất đồ vào có từng ghé qua kiểm tra lần nào không?”
Trương Ngọc Đường hổ thẹn đáp: “Mấy năm đầu tôi thường xuyên đi xem xét, nhưng sau đó A Oanh cứ gặp tai nạn liên tục, rồi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, việc làm ăn trong nhà càng ngày càng bận rộn nên không còn nhiều thời gian…” Công việc bận rộn, đương nhiên cũng quên bẵng đi.
Trương Ngọc Đường lại gọi người hầu đang đứng kia: “Ngươi đi hỏi phu nhân xem có phải nàng lấy đồ đi rồi không?”
Người hầu vâng lời chạy thêm một chuyến nữa, một lát sau đã trở về báo quả nhiên là phu nhân lấy.

“Phu nhân nói mấy bộ đồ đó đều là vải tốt cả, để trong tủ cũng bị mối mọt làm hư mà thôi, cho nên phu nhân mới lấy ra đem phát cho mấy người làm trong nhà.

Phu nhân nói nếu lão gia cần cứ tìm mấy người đó hỏi, có thể vẫn còn.”
Trương Ngọc Đường quay lại nhìn Cố Cửu có ý hỏi.

Cố Cửu lắc đầu: “Đã lẫn sinh khí của người sống vào, vô dụng thôi.” Thật ra Cố Cửu vốn không nói hết, Triệu Bản đã qua đời hơn mười năm, chút hơi tàn còn sót lại trên quần áo vốn đã không nhiều nhặn gì, bây giờ đồ còn bị đưa cho người khác mặc thì chắc chắn sinh khí thuộc về Triệu Bản đã sớm không còn.

Cố Cửu muốn xem quần áo chẳng qua là vì thử chút vận may, có còn hơn không mà thôi.
Thiệu Dật nói: “Vật khác cũng được, miễn là từng qua tay Triệu Bản.”
Nghe vậy, Trương Ngọc Đường im lặng một lúc rồi bỗng nhiên biến sắc, vẻ mặt buồn giận đan xen, vô cùng thiểu não.
“Chẳng lẽ không còn gì sao?”
Cố Cửu lấy làm lạ hỏi.

Trương Ngọc Đường và Triệu Bản là huynh đệ lớn lên cùng nhau, chắc hẳn phải có nhiều quà tặng và đồ đạc trao đổi qua lại chứ.
Trương Ngọc Đường chán chường nói: “Không còn nữa rồi, hoặc là thất lạc, hoặc là bị hư hỏng.

Hình như…hình như đồ A Bản từng tặng tôi không còn lại gì cả.”
Đột nhiên phát hiện ra chuyện này, Trương Ngọc Đường bỗng cảm thấy hoảng hốt, cứ như ngoài gian phòng trống hoác và tấm bài vị trên bàn thờ kia thì chẳng còn dấu vết gì chứng minh Triệu Bản từng sống cả đời ở nơi này cả, cứ như y chưa từng tồn tại.”
Cố Cửu nhìn Trương Ngọc Đường buồn bã thê lương, hơi chần chừ mở lời: “Thật ra vẫn còn một cách nữa, nhưng chỉ sợ ngài không đồng ý.”
Trương Ngọc Đường mừng rỡ ngẩng phắt lên: “Cách gì?”
“Đào mồ khai quan.”

Đối với tình huống như Triệu Bản gặp phải lần này, có thể lấy đồ vật người đó từng gắn bó lúc sinh thời môi giới để làm phép chiêu hồn, cứu người ra khỏi nơi họ đang bị giam cầm, khả năng thành công sẽ lớn hơn.


Nhưng ngặt nỗi bây giờ đồ đạc của Triệu Bản đã mất sạch, không còn lại gì, vậy thì chỉ còn cách dùng chính xương cốt của y để làm môi giới mà thôi.

Tuy nhiên đối với người xưa, nếu không phải gặp chuyện bất khả kháng thì tuyệt đối không được động chạm đến nơi của người đã khuất, nếu không sẽ bị xem là việc vô cùng bất kính.

Từ ngày hôm qua Cố Cửu và Thiệu Dật đã đoán được chỉ có cách đào mồ là khả thi nhất, nhưng hai người cũng biết rất khó để thuyết phục Trương Ngọc Đường đồng ý, vì vậy bọn họ mới tận dụng quan hệ mời sư cha lên thử một phen.

Kết quả thế nào thì mọi người đều rõ.
Quả nhiên vừa nghe Cố Cửu nói ra bốn chữ đào mồ khai quan, Trương Ngọc Đường đã nhảy dựng lên, lắc đầu nguầy nguậy, tỏ ý không chịu.
Cố Cửu thấy vậy bèn khuyên nhủ: “Chúng ta đã thử hết cách rồi mà vẫn không ăn thua, đây đã là cách cuối cùng rồi.

Chẳng lẽ ngài nhẫn tâm để y tiếp tục bị tra tấn hành hạ sao?”
Trương Ngọc Đường nghe vậy liền ngây ra, vẻ mặt đầy đau xót, dường như suy nghĩ lung lắm.
Cố Cửu biết lời nói của mình đã có tác dụng bèn tiếp tục lấy tình lấy lý phân tích cho Trương Ngọc Đường nghe.

Bây giờ còn nói chi đến việc quấy nhiễu người chết nữa.

Triệu Bản gặp nạn đến mức phải báo mộng cầu cứu thì lấy đâu ra an bình? Nếu bây giờ hắn không đồng ý khai quan thì phải kéo dài thời gian để tìm cách khác, mà cứ lần lữa mãi thế này thì có khi Triệu Bản không chịu đựng nổi nữa hồn phi phách tán không chừng.
Trương Ngọc Đường vừa nghe được kết quả đáng sợ như vậy bèn không do dự thêm nữa, đồng ý ngay.

Muốn đào mồ khai quan thì phải chọn lúc dương khí mạnh nhất trong ngày để đề phòng âm khí quá nồng ảnh hưởng tới người sống.

Thời điểm dương khí mạnh nhất là chính ngọ, tức là buổi trưa canh ba, theo như cách tính ở thời hiện đại là 12 giờ.
Trương Ngọc Đường đồng ý tiến hành đào mồ nên dựa theo yêu cầu của Cố Cửu mà sửa soạn những thứ cần thiết.

Sau khi dặn dò công việc cho mấy người hầu xong, ba người ngồi ở đại sảnh chờ đợi, thỉnh thoảng lại có người hầu đưa vật dụng đến cho Thiệu Dật và Cố Cửu kiểm tra, nếu không ổn thì phải chuẩn bị một lần nữa.
Cứ bận rộn một hồi như vậy, chợt có một tên sai vặt đến mời Trương Ngọc Đường sang chỗ Trần Oanh, nói rằng phu nhân có chuyện quan trọng muốn nói.
Trương Ngọc Đường uể oải nói với người nọ: “Nói với phu nhân ta đang bận, có việc gì thì đợi tối hẵng nói.”
Người hầu vâng dạ lui ra, nhưng chỉ một chốc sau lại quay trở lại mời lần nữa.
Trương Ngọc Đường bực mình hết sức, không thèm giấu đi sự giận dữ, phải cố gắng lắm mới nhịn được không nổi xung lên.

Hắn chưa nghe hết lý do dông dài của người đến bẩm báo đã bực mình ngắt lời: “Quay về nói lại với phu nhân là nàng cứ lo cho sức khỏe mình trước đi, đừng để ý tới việc không phải của mình.

Ngươi đi đi, đừng có quay lại đây nữa.”
Người hầu thấy lão gia khó chịu thì không dám hó hé tiếng nào nữa, nơm nớp lo sợ lui ra.
Nào ngờ, Trương Ngọc Đường đã nói đến thế, cương quyết không qua gặp mà Trần Oanh lại bất chấp thân thể bạc nhược tìm đến tận nơi, bắt người hầu nâng cáng khiêng cô ta đến cho bằng được.
Nhìn thấy người phụ nữ trông như đã ngoài năm mươi, mái tóc hoa râm xơ xác gọi Trương Ngọc Đường là phu quân, Cố Cửu khó nén kinh ngạc.

Nếu không phải nghe Trương Ngọc Đường nói cha mẹ hắn đã qua đời từ lâu thì Cố Cửu còn tưởng bà thím này là mẹ của hắn ấy chứ.

Thân thể Trần Oanh rõ là đã bệ rạc, ngay cả lớp son phấn dày cui cũng không che nổi khuôn mặt trắng bệch nhăn nheo của cô ta.

Trần Oanh khó nhọc ngồi lên ghế, thở từng hơi nói với Trương Ngọc Đường: “Phu quân, thϊếp nghe nói…chàng nghe lời hai tên đạo sĩ…muốn quật mồ của Triệu đại ca sao?”
Trương Ngọc Đường tuy vẫn còn bực mình, nhưng nhìn thấy bộ dạng thê thảm này của cô ta cũng không đành lòng nói lời khó nghe.

Hắn nuốt nước bọt, nén giận, nhẹ giọng nói: “Đúng vậy.

A Bản cầu cứu ta, sao ta có thể nhắm mắt làm ngơ cho được.”
Trần Oanh lập tức nổi đóa lên, chỉ tay vào Cố Cửu và Thiệu Dật: “Chàng muốn Triệu đại ca chết rồi mà còn không được yên thân hay sao? Sao chàng có thể nghe theo lời của hai tên lừa đảo này mà đi làm chuyện thất đức như vậy chứ!”
Nghe thấy lời nói chói tai của Trần Oanh, nét mặt của Trương Ngọc Đường lập tức sa sầm xuống: “Hai vị đạo trưởng không phải là kẻ lừa đảo, bọn họ thật sự có bản lĩnh, ta đã tự mình trải nghiệm.”
Kẻ lừa đảo Cố Cửu mang vẻ mặt vô cùng vi diệu nhìn sang kẻ lừa đảo Thiệu Dật.
Trần Oanh vẫn kích động không thôi: “Thϊếp không đồng ý! Lúc còn sống Triệu đại ca đối đãi với thϊếp như em gái ruột.

Thϊếp vô cùng kính trọng huynh ấy, há lại có thể để các người đi quấy nhiễu người đã khuất như vậy!”
Cố Cửu và Thiệu Dật cùng im lặng, không thèm nói tiếng nào.

Tuy rằng Trần Oanh này làm ra vẻ vô cùng giận dữ, nhưng chỉ cần tinh ý là có thể nhìn ra sự lo lắng hoảng hốt của cô ta.

Bọn họ nghe Trương Ngọc Đường nói thê tử của hắn nhỏ hơn hắn một tuổi, nhưng bây giờ hắn ta còn phong độ ngời ngời mà thê tử lại thành ra cái bộ dáng này, cho dù có sinh non nhiều lần đi nữa thì người được cung phụng an nhàn quanh năm cũng sẽ không sa sút đến mức nhìn chẳng khác gì một bà thím như vậy, cộng thêm phản ứng thái quá đến lố bịch của cô ta càng làm người ta nghi ngờ có điều gì bất thường ở đây.
Cố Cửu không thèm đếm xỉa đến trò hề của Trần Oanh, dù sao có đào mồ hay không là do Trương Ngọc Đường quyết định, chỉ tiếc một điều là lớp phấn trên mặt cô ta quá dày nên không nhìn được tướng mạo mà thôi.

Trước khi Trần Oanh tới, Trương Ngọc Đường dù đồng ý nhưng vẫn còn chút băn khoăn, sau khi gặp Trần Oanh, Trương Ngọc Đường không còn nghĩ ngợi gì nữa.

Trần Oanh càng muốn ngăn trở, hắn càng muốn đào mồ lên xem rốt cuộc là chuyện thế nào.

Hắn tỏ vẻ việc này đã định, trời sập cũng không thay đổi được.
Trần Oanh vừa tức tối vừa lo sợ đến muốn ngất đi.

Trương Ngọc Đường không để ý đến cô ta nữa, phất tay sai người nâng cô ta về phòng nghỉ.
Những vật dụng Cố Cửu và Thiệu Dật yêu cầu chuẩn bị không khó tìm, sau khi tìm đủ hết thì ba người xuất phát ngay.

Mộ của Triệu Bản đặt ở một thôn nhỏ ngoài thành, đi xe ngựa một lát là tới.
Đến nơi, Triệu Bản và người làm dẫn đường cho hai người đến chỗ mộ phần.

Năm nào Trương Ngọc Đường cũng cho người dọn dẹp phát quang rồi đến cúng tế nên xung quanh mộ rất sạch sẽ thoáng đãng.
Thoạt đầu hai sư huynh đệ cũng không thấy điều gì bất thường, cho đến lúc bọn họ chia nhau tính toán tìm chỗ đào đất thích hợp thì bỗng nhiên phát hiện ra những phù văn được khắc sau lưng tấm bia đá.
Cố Cửu và Thiệu Dật biến sắc.
“Bia Trấn Hồn?”.