Mê Thần Ký

Chương 10




Tháng đầu hè, mặt trời tại sao Tất[1]. Dế mèn kêu vang, giun ló khỏi đất, cây qua lâu sinh trưởng, cây cải đắng ra hoa.

[1] Một ngôi sao trong Nhị thập bát tú.

Tháng này, vạn vật đang sinh sôi mạnh mẽ, không được huỷ hoại chúng, không động tới việc đất đai, không huy động đông đảo dân chúng, không chặt phá cây lớn.

Năm Tân Mão, mười sáu tháng Tư.

Tam Hoà tiêu cục.

Thẩm Thái đang ngồi trong một đại sảnh rộng rãi khí thế, một mình thưởng thức bữa sáng. Tổng quản Thẩm Quân khom lưng, cẩn thận tỉ mỉ đứng hầu một bên, nhìn chủ nhân bằng một ánh mắt cung kính tới độ gần như nịnh nọt.

Các món của bữa sáng tuy không bằng phân nửa bữa tối nhưng cũng cầu kỳ tương đương. Một đĩa thịt gà hầm, một đĩa chân giò, một đĩa măng thu với nấm đông, một đĩa rau trộn… tất cả đều do đầu bếp chính của Thuận Sinh đường là Ban sư phó dậy sớm đích thân làm rồi cung cung kính kính đặt trong một cái hộp, sai người cưỡi ngựa đưa tới. Ngày nào cũng một lần như thế, đã kiên trì trọn năm năm. Nếu Thẩm tổng tiêu đầu có chuyện ra ngoài hộ tiêu, bữa sáng vẫn đều đặn gửi thế không sai sót nhưng là để cho nhị thiếu gia của Thẩm gia là Thẩm Thính Thiền hưởng dụng.

Thẩm Thái thân cao chín thước, tiếng như chuông lớn, dưới cặp lông mày rậm là đôi mắt ưng sắc bén như dao. Đôi mày của ông tà thường nhíu lại, lúc đột nhiên giãn ra thì lại giống một cặp dơi trong đêm u ám, tăng them mấy phần hung hãn trên khuôn mặt uy nghiêm của ông ta. Tất cả mọi người trong tiêu cục đều đã quen với tính khí động tí là nổi trận lôi đình của ông ta, đều biết tuy lão gia tính tình nóng nảy nhưng làm việc cực kỳ bài bản chừng mực, quy củ đâu ra đấy. Chỉ cần trước mặt ông ta, anh cứ thật thà có gì nói nấy thì thường cũng sẽ không đến nỗi chọc giận ông ta.

Đối diện con phố là một khoảng đất rộng lát đá. Ngày xưa, chỉ cần là lúc Tam Hoà tiêu cục bắt đầu lên đường vận tiêu thì tất cả hàng hoá đều sẽ xuất phát từ chỗ này. Mọi người có lẽ không còn nhớ lắm, hai mươi năm trước, bởi đại đương gia Thiết Diệc Hoàn một đêm thảm sát Thanh Long sơn trang, “Ngũ cục liên minh” danh chấn giang hồ chỉ trong chớp mắt đã tan rã. Theo sau đó năm đại tiêu cục liên tục gặp vận rủi: Trường Thanh tiêu cục bị người ta cướp mất; Hồng Phong tiêu cục phá sản; Chấn Võ tiêu cục nội bộ lủng củng; cho dù là công phu cứng cỏi nhất, làm ăn thận trọng nhất là Thu gia ở Hoài Nam cũng bị kẻ thù đâm đơn cáo trạng mà sụp đổ, mấy vị tiêu đầu phải vào ngồi đại lao. Duy nhất còn lại thu gom tàn cục chỉ còn tiêu cục thực lực yếu nhất trong ngũ gia, trước nay chỉ làm những vụ đường ngắn là Tam Hoà tiêu cục.

Trải qua một phen hùng tâm hừng hực chỉnh đốn, tàn cục đã biến thành “đại cục”.

Việc làm ăn tưởng chừng không gượng lại nổi dần dần được khôi phục, đơn hàng của phú hào đất Giang Nam và quan nha ở kinh thành hết vụ này tới vụ khác. Tam Hoà tiêu cục một nhà bao hết ưu việt hơn cục diện hồi năm nhà chia lợi, người nhiều kẻ ít, lòng người không phục. Sáu con trai, một con gái nhà họ Thẩm được người ta xưng là “Lục hổ nhất tiên”, từ nhỏ đã bái danh sư học võ, đến nay người nào người nấy đều là nhân vật vang dội trong võ lâm. Huống chi Thẩm gia vốn đã là võ lâm thế gia, phụ thân của Thẩm lão gia là Thẩm Bích Sơn năm xưa danh vang giang hồ, hiệu là “Thiết Tiêu tiên sinh”. Còn các truyền thuyết về Thẩm Thái, trong sử cũ của võ lâm cũng đã đủ tập thành một cuốn riêng. Hiện nay, trong sáu đứa con trai, con trưởng đã qua đời. Năm người kia, ngoài lão nhị Thẩm Thính Thiền cùng với phụ thân ở lại trấn thủ tổng đường, bốn người khác Thẩm Không Thiền, Thẩm Khô Thiền, Thẩm Tĩnh Thiền, Thẩm Thông Thiền phân ra thủ ở đông, nam, tây, bắc bốn phân đường, quản lý việc làm ăn ở các địa phương trên cả nước của Tam Hoà trang. Năm đứa con trai đồng tâm hiệp lực, làm ăn ngày một phát đạt, kể cả có lấy Ngũ cục liên minh năm xưa ra so bì thì cũng khó mà bằng được.

Giống như ngày thường, lúc dùng bữa sáng, Thẩm Thái thích mở rộng cửa lớn, ngắm nhìn khung cảnh tất bật ngoài cửa. Tiếng lộc cộc bánh xe lăn lúc xe tiêu bắt đầu lên đường, tiếng roi ngựa của phu xe, tiếng ồn ồn ào ào đều là món nhắm cho ông ta uống rượu. Trăm tiêu sư của Tam Hoà trang có một nửa là đồ đệ tự tay huấn luyện của Thẩm Thái, một nửa là các nhân vật lợi hại của các tiêu cục khác được ông ta dùng tiền bạc moi ra. Những tinh binh cường tướng này, từ ngày đầu tiên nhập môn đã biết lương bổng của mình chí ít cũng phải gấp đôi đồng nghiệp bên ngoài, cho nên luôn giữ lập trường ổn định. Lợi nhuận hoa hồng chia lúc cuối năm cũng khá là khả quan. Bởi vậy bọn họ làm việc cực kỳ ra sức, trước mặt tổng tiêu đầu cũng vô cùng cung kính.

Thẩm Thái bất giác sờ sờ thanh Long lân bảo đao đặt cạnh tay, hài lòng thoả mãn nhìn bóng người bận rộn trước mặt.

“Lão gia, sáng sớm nay có nhận được thư của mặt tây, nói là chuyến hàng quý của Long thất gia đã bình an tới nơi rồi”, Thẩm Quân ghé vào tai lão, thấp giọng bẩm báo.

“Ừm. Nghe bảo Thông Thiền có vụ làm ăn muốn đi quan ngoại?”

“Đã đi từ sớm rồi. Hôm trước gửi thư nói Hải Thiên bang ở quan ngoại không nể mặt cho lắm, lục thiếu gia đã gửi lễ vật trọng hậu tới năm trăm lượng mà người ta vẫn không chịu nhường đường.”

“Hử?”, Thẩm Thái buông đũa xuống.

“Cho nên thuộc hạ đã lập tức gửi bồ câu đưa thu cho Đinh chưởng môn, để ông ta tự mình ra mặt.”

“Được đấy. Thể diện của Đinh tiên sinh, Hải Thiên bang không thể không nể mặt.”

“Hôm qua nhận được hồi âm nói coi như là thuyết phục được rồi. Xin lão gia người cứ yên tâm.”

Thẩm Thái gật đầu, mọi thứ đều rất thuận lợi. Năm tháng tuy không tha người, nhưng ông ta xem như đã có được mấy đứa con trai có tài và một quản gia lão luyện.

Việc giao cho bọn họ làm, giờ đã hoàn toàn có thể yên tâm rồi.

Thậm chí ông ta còn đang nghĩ, có phải đã đến lúc bản thân treo đao quy ẩn rồi không. Tuy một đời này, vì thành công, vì tiêu cục, ông ta đã phải trả cái giá đáng sợ, nhưng ông ta vẫn là nhi tử của Thẩm Thiết Tiêu.

Toàn bộ nhân khẩu trong nhà Thiết Tiêu nằm trong tay ông ta cũng coi như là gió nhẹ khó lay, phồn vinh hưng vượng.

Đúng vào lúc ấy, ông ta chợt thấy một con ngựa khoẻ kéo một cỗ xe lớn buông rèm đen từ từ đi vào trong đại đường.

Không ai dám ngăn cỗ xe ấy.

Con ngựa này tên là Xích Điểu, là ngựa tốt của nòi ngựa Đại Uyển, năm xưa từng là thú cưỡi của Thẩm Thái, rồi lại được ông ta dùng làm quà sinh nhật tặng cho con trai thứ năm là Thẩm Tĩnh Thiền.

Người trong trang đều biết ngũ thiếu gia yêu ngựa, hắn đỏ mắt vì con Xích Điểu đã lâu, lúc được phụ thân tặng cho thì mừng ra mặt, yêu hơn cả mạng sống của mình.

Mỗi khi ra khỏi cửa, ngũ thiếu gia trước giờ chưa từng rời Xích Điểu, đương nhiên càng không có chuyện để nó làm việc kéo xe nặng. Cho nên, đột nhiên Xích Điểu xuất hiện như thế này ở cửa lớn Tam Hoà tiêu cục, quả thật có chút quái dị.

Con ngựa màu nâu đi tới cửa thì dừng lại.

Tim Thẩm Thái chợt thót lên, “vút” một tiếng đứng phắt dậy, vỗ vào mặt bàn một cái, Long lân đại đao vụt bay vào tay, sau đó sải bước đi ra bên ngoài, lấy cán đao nhẹ nhàng vén rèm xe.

Hành tẩu trên giang hồ bao nhiêu năm, bằng hữu của ông ta nhiều không đếm xuể, địch nhân đồng dạng cũng nhiều chẳng kể xiết, bởi thế nên hành sự cực kỳ cẩn thận. Cỗ xe kỳ dị như thế, bên trong không biết chứa cái gì.

Trong xe là một cỗ quan tài nằm im phăng phắc.

Cùng đó truyền lại còn có một thứ mùi đáng sợ.

“Lão gia, cẩn thận có điều gian trá!”, Thẩm Quân vô thanh vô tức đi theo tới, khe khẽ nhắc nhở một câu.

Khuôn mặt Thẩm Thái đã có chút tái xanh, trầm ngâm một lúc, đột nhiên hỏi: “Đã bảo lâu rồi ngươi chưa nghe tin tức gì về ngũ thiếu gia?”

“Mùng Năm tháng này, ngũ thiếu gia đưa phu nhân về thăm người thân có đi ngang qua tổng đường, người không phải còn gặp thiếu gia một lần đó sao?”

“Nó cưỡi chính là con ngựa này?”

“Đương nhiên.”

Ánh đao loé lên, nắp quan tài bay ra.

Trong quan tài là một nam nhân hoàn toàn loã thể, đã chết rất lâu, toàn thân trên dưới có một màu trắng đến phát sợ.

Nói là màu trắng, chi bằng bảo màu tro.

Đôi mắt người chết trợn tròn, trên mặt còn có vẻ kinh ngạc, dường như hoàn toàn không có chút phòng bị với số kiếp ập tới, đang trong khoảnh khắc kinh ngạc ngắn ngủi thì tính mạng đã mau chóng kết thúc. Thây chết đã lâu, cơ thịt giãn ra, đường nét trên mặt lại có thêm mấy phần kỳ dị.

Ngực hắn có một cái lỗ, nội tạng bên trong có thể thấy không sót thứ gì.

“Tĩnh Thiền!”

Hai mắt Thẩm Thái như muốn rách ra, xé tim nát ruột thét lên một tiếng, khiến cho mái ngói cả con phố “lọc cọc” rung lên.

Kế đó, lão nắm chặt hai tay, không nói năng gì, nhưng thân thể không ngừng run lên.

Các tiêu sư đang tất bật bỗng ngây ra bởi tiếng thét bi thảm đó, ồ ạt dừng việc đang làm, thần sắc nặng nề nhìn về phía vị lão nhân trước nay bình tĩnh vững vàng kia.

“Phổi của thiếu gia hình như không thấy đâu nữa…”, Thẩm Quân nhìn một lượt, tinh mắt phát hiện ra điều ấy, dè dặt định bổ sung một câu, chữ “phổi” mới ra tới miệng thì đã lại tọt trở lại bụng.

Vào lúc này, tất cả những chuyện lặt vặt đều đã thành dư thừa.

“Là hắn! Nhất định là hắn!”, đôi mắt Thẩm Thái toé lửa, giận dữ quát một tiếng: “Người đâu! Lấy ngựa cho ta!”.

“Lão gia, xin nén đau thương, tuỳ cơ ứng biến…”

Thẩm Thái đi được mấy bước, đột nhiên quay đầu, kéo áo Thẩm Quân lôi lại, nghiến răng nghiến lợi nói: “Ngươi đi thông báo cho Viên nhị gia. Bảo hắn, bất luận tốn bao nhiêu tiền, đào ba thước đất cũng phải tìm cho ra tung tích của Quách Khuynh Trúc!”.



Chàng nằm trong một con góc của con phố lớn, đã ngủ được già nửa canh giờ.

Đó là một con phố đông đúc ồn ào, tiếng người huyên náo cứ lùng bùng trong giấc mộng của chàng. Dưới ánh nắng bụi bay khắp nơi, người đi đường vội vã, chen vai nối gót. Chàng ngủ chẳng được yên giấc, mấy lần giãy giụa định thức dậy nhưng mí mắt nặng như sắt, cố sức thế nào cũng không mở ra nổi. Đang lúc nửa tỉnh nửa mê, có người đưa chân huých chàng một cái: “Này, việc làm ăn của cậu tới rồi kìa”.

Cái chân ấy cuối cùng cũng đạp chàng ra khỏi cơn mộng mị. Chàng từ từ ngồi dậy, nhận ra trong mũ đặt bên cạnh có vài đồng xu.

Chàng nhíu mày, hỏi người vừa đạp mình: “Tiền này là của huynh à?”.

“Lão đệ, bộ dạng nhếch nhác của cậu sao lại không khiến người qua đường hảo tâm bố thí cơ chứ?”

“A, ra là vậy”, chàng nhặt hết mấy đồng xu ấy ra, đưa cho người nọ: “Vất vả rồi, cho một cái màn thầu”.

Người kia thở dài một tiếng, lấy từ trong lồng hấp ra một cái màn thầu nóng hôi hổi, nhận tiền rồi đưa cho chàng.

“Không cần trả lại”, người ngủ ngày nói.

“Tính kỹ ra cậu còn nợ ta một xu đấy, còn ra vẻ rộng lượng”, tay bán màn thầu “phì” một tiếng, đôi mắt nhỏ lườm chàng nhưng ánh mắt vẫn rất ôn hoà, trong ôn hoà còn có chút cười đùa.

Chàng cũng chẳng rõ người bán màn thầu này sao lại như thế. Vừa mới tới tiểu trấn dường như đã đặc biệt chiếu cố chàng.

Nhồm nhoàm ăn xong màn thầu, xem như chàng đã có chút sức lực, liền nhặt cây trượng dưới đất lên, ngồi xuống băng ghế. Lập tức có một trung niên hán tử mặt như trái mướp đắng chào hỏi chàng.

Trên cái bàn gấp toàn bụi là bụi, chàng rút trong người ra một chiếc khăn tay, lau cẩn thận một lượt, rồi lại rửa tay sạch sẽ ở vại nước bên cạnh, xong xuôi mới thong thả hỏi: “Lão ca có chỗ nào không thoải mái?”

“Xin hỏi… tiên sinh chuyên chữa loại bệnh gì?”

“Bệnh gì cũng chữa.”

Thế cũng bằng như bệnh gì cũng không chữa được, người có khuôn mặt mướp đắng kia nghĩ thầm.

“Tôi… tôi hiện không có tiền, xin hỏi, một giỏ lạc có được không?”

“Cái gì cũng được”, lang trung trẻ tuổi vô tư lự chỉ vào gối đặt tay bắt mạch bên cạnh: “Ngồi xuống, để tay vào đây, ta xem mạch cho”.

“Được”, người nọ gù lưng ngồi xuống, đưa đôi mắt hoài nghi đánh giá người ngồi đối diện, phát hiện chàng đầu tóc rối bù, áo tơi bẩn thỉu nhưng những chỗ khác thì rất sạch sẽ. Nhất là bàn tay đặt trên cổ tay hắn, sáng bóng như ngọc, mềm mại thanh mảnh, cứ như yếu ớt vô lực vậy. Vừa đặt lên mạch lại như có luồng nội lực cực mạnh tựa hồ điện chớp ập sang hắn nhưng chỉ thoáng chốc đã biến mất không thấy tăm hơi.

“Sống lưng đã đau nhiều ngày rồi?”

“Sao ngươi biết?”

“Mắt phải cũng đau. Lúc hắt hơi, có phải cảm thấy tim như bị thừng cuốn chặt, đau không chịu nổi?”

“Quá thần kỳ, quả đúng là thế”, tay mặt như mướp đắng kia nhướng lông mày, kinh ngạc thốt lên.

“Có mấy lão bà?”

“Người nghèo… thì còn có thể có mấy đây? Nuôi được một đã là không tệ rồi”, người nọ ngượng ngùng cười.

“Muốn có con cũng không được vội như thế, rõ chưa?”, lang trung hừ một tiếng, kê cho hắn một đơn thuốc. “Đây là Quy lộc tứ tiên cao, trong tiệm thuốc nào cũng có, mỗi lần uống một miếng, uống liền ba tháng”.

“Xin hỏi ngài, cao này không đắt lắm chứ?”

“Toàn bộ cộng vào đại khái khoảng năm lượng bạc.”

“Tôi nghe nói… Diêu tiên sinh y thuật tuy cao nhưng y đức còn cao hơn, liệu có thể… trước mượn tiên sinh chút bạc chăng?”, tay mặt mướp đắng này không vòng vo, trực tiếp hỏi luôn.

“Tiền ta cũng không có, nếu ngươi thực sự thiếu tiền, vậy thì đem giỏ lạc này về là được.”

“Vậy… phải tạ lỗi với ngài rồi”, trên mặt hắn tuy là làm bộ áy náy, tựa như còn đang từ chối một chút nhưng tay thì không do dự cầm lấy giỏ lạc.

“Không cần khách khí”, lang trung trẻ tuổi nói.

Người kia cầm lấy đơn thuốc, cứ thế xách giỏ lạc đi thẳng.

Người bán màn thầu không nhịn được thở dài một tiếng, nói: “Lão đệ chẳng phải quá thật thà rồi sao? Kẻ đó vừa tới là ta đã biết hắn nhất định không chịu trả tiền, ngươi lại cứ để hắn lừa mình”.

“Dù sao thì đệ cũng không ăn lạc”, lang trung nhạt giọng nói.

“Hôm qua chính mắt thấy ngươi thu được mười mấy lượng bạc, lão ca ta còn đang đợi ngươi mời uống một chén, chẳng ngờ mới tới chiều, lão đại nương đó bảo cái gì mà bán thân cùng khổ, không trả nổi tiền khám, lão đệ liền tặng hết chẳng chừa đồng nào, làm chính mình nghèo đến mức tới cái bánh nướng cũng không mua được. Lần sau liều liệu để lại cho mình một ít, nhớ chưa? Vừa rồi nếu không phải ta cho ngươi một cái màn thầu, ngươi lại chẳng chết đói đầu phố sao?”

“Nhưng cái màn thầu đó là đệ mua mà”, lang trung thờ ơ nói: “Với lại món tiền tiếp theo của đệ tới rồi”.

Cuối cùng lần này, chàng cũng gặp được một người thật thà, thật thà tới khám bệnh, thật thà trả tiền, chàng thu được hai cắc bạc nho nhỏ liền đưa mẩu to hơn cho người bán màn thầu: “Đa tạ huynh giúp đệ trông cái sạp này lâu thế”.

Người bán màn thầu nhếch mép cười, đưa bạc lên miệng cắn cắn, nói: “Tiểu tử ngươi coi nhẹ đồng tiền thế, nhất định không phải con nhà nghèo”.

Lang trung trẻ tuổi bật cười, không đáp lời.

… Đây là ngày thứ ba kể từ khi Tử Hân tới tiểu trấn xa lạ này, sau khi khám xong cho khoảng mười mấy bệnh nhân, tiền trong túi không phải càng lúc càng đầy mà là mỗi lúc một vơi. Tuy đã có cái màn thầu nhét vào bụng nhưng sau khi bận rộn thì lại cảm thấy đói, thế là lại nhờ người bán hàng bên cạnh trông sạp giúp mình, bản thân thì tới quán bên kia đường ăn cơm. Lúc quay lại đã thấy hai người đứng đợi trước sạp. Người đầu tiên cũng chẳng có bệnh tật gì nặng cho lắm, chàng rất nhanh chóng kê đơn thuốc. Người thứ hai là một vị cô nương mình vận y sam màu bích nhạt. Mái tóc dài đen bóng buông xoã, đôi mi hơi cong, mắt nhìn xuống, yên lặng đứng trước mặt chàng.

Chàng nhìn cô gái một lúc rồi hỏi như thường lệ: “Cô nương thấy không khoẻ ở đâu?”

“Tôi… đầu tôi đau lắm.”

“Đưa tay qua đây, ta xem mạch cho cô”, chàng nói ngắn gọn.

Cô gái đặt tay phải lên gối xem mạch, Tử Hân khẽ đặt ba ngón tay lên tay cô, rồi nói ngay: “Không xem được mạch tượng. Có phải ban đêm cô ngủ không tốt?”.

“Ừm, hai đêm rồi tôi thức trắng không chợp mắt được, làm thế nào cũng không ngủ nổi.”

“Vậy ta kê cho cô một đơn thuốc để đêm nay cô ngủ sớm một chút là được”, nói xong chàng cất bút.

“Đừng kê đơn!”, cô gái đột nhiên nói: “Đêm nay tôi không muốn ngủ”.

Chàng đặt bút xuống, nhíu mày nhìn cô gái, hỏi: “Sao lại thế?”.

“Ngày mai tôi phải xuất giá rồi.”

“Là vì thế nên không ngủ được?”

“Ừm”, cô gái gật đầu mạnh: “Huynh có cách nào không?”.

“Chắc là vì cô không biết nhiều lắm về người mình sắp lấy cho nên mới có chút lo lắng.”

“Người tôi sắp lấy, tôi đã quen biết từ nhỏ rồi.”

“Vậy là cô không thích hắn?”

“… Không hẳn. Huynh ấy gia thế rất tốt, con người cũng không tệ, tướng mạo không tồi, đối với tôi trước giờ rất tốt, giống như… giống như một vị ca ca ấy.”

“Vậy cô còn gì phải lo lắng nữa?”

“Vốn tôi cũng chẳng có gì lo lắng cả, có điều đến mấy ngày cuối, tôi lại thấy do dự. Hôm qua tôi ngơ ngẩn đi loanh quanh trên phố, đi vào một tiệm vải, mơ mơ hồ hồ mua một tấm. Về tới nhà rồi mới đột nhiên nghĩ ra, loại vải Thanh Hoa ấy thường dùng làm túi hành lý.”

“Không phải là cô nương muốn đào hôn đấy chứ?”

“Đúng thế, đến cả việc nên đem theo đồ nữ trang gì trốn đến đâu tôi đều nghĩ kỹ cả rồi. Giờ chỉ còn thiếu mỗi quyết tâm thôi. Huynh nói xem, cuối cùng tôi nên trốn hay là không nên trốn?”, cô gái vươn người qua bàn, mở to mắt, nhỏ giọng hỏi.

“Đấy là chuyện của cô, nên cô tự mình quyết định thì hơn.”

“Lời này đương nhiên không sai. Nhưng mà… nếu là do tôi tự quyết định lấy, sau này nếu có hối hận tôi sẽ phải tự oán trách bản thân, sẽ thành ra nửa cuộc đời còn lại không được thoải mái. Nếu như tìm một người hoàn toàn xa lạ giúp tôi quyết định, lúc hối hận tôi sẽ có thể đổ hết cho người đó. Tôi sẽ nghĩ ‘Do hắn! Toàn bộ là do một câu ấy của hắn đã huỷ hoại nửa cuộc đời hạnh phúc của ta!’… Như thế tôi sẽ tự cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều”, cô gái thật thà nói đâu ra đấy.

Tử Hân há hốc mồm cứng đờ lưỡi nhìn cô ta, hồi lâu sau mới từ từ nói: “Vậy thì, trong lòng cô, rốt cuộc là muốn trốn hay là không muốn trốn?”.

“Muốn trốn”, cô gái dứt khoát nói.

“Thế thì cô trốn đi”, nói xong câu này, chàng không quên bồi thêm một câu: “Phí khám của cô là năm mươi đồng. Đúng rồi, chớ có quên tên của tôi là Diêu Nhân, sau này lúc hận tôi, cứ việc mắng chửi nhé, tôi không bận tâm đâu”.

“Cảm ơn huynh, đây là năm lượng bạc, không cần trả lại”, cô gái yêu kiều nở nụ cười, quay người lên một cỗ xe ngựa rồi cứ thế rời đi.



Đi lại trên giang hồ, lời nói việc làm của Tử Hân đều tuân theo một nguyên tắc kỳ dị, đó chính là: Không định quen biết bất cứ người xa lạ nào.

Mỗi khi đến một địa phương, tự nhiên chàng sẽ phải qua lại với các hạng người nơi đó.

Có những người sẽ có một đoạn giao tình ngắn ngủi tạm thời với chàng, người từng giúp chàng, chàng cũng sẽ mời họ tới quán cơm ăn uống một bữa. Nhưng chỉ cần khoác hành trang chuẩn bị tiếp tục lên đường, chỉ cần thân thể rời khỏi cái địa giới đó, trong đầu chàng sẽ kết thúc mọi mối quan hệ của bản thân với vùng đất cũ, xoá sạch những người xa lạ kia ra khỏi ký ức.

Trong sáu năm, những con người xa lạ như những đợt Thủy triều đến rồi đi trước mắt chàng, không lưu lại một chút dấu vết nào. Người xa lạ duy nhất khiến Tử Hân ghi nhớ và không muốn quên chỉ có một.

Trúc Ân.

Trúc Ân đã bầu bạn với chàng đi qua không biết bao nhiêu lúc cô quạnh.

Chàng cũng đã quen cái sự đến đi không tung tích của Trúc Ân.

Hai người đều duy trì tình bạn bình đạm ấy, không phiền hà lẫn nhau, chỉ khi tình cờ gặp gỡ, họ mới trò chuyện mà thôi.

Đối với tình bằng hữu như thế, Tử Hân rất hài lòng.

Chàng biết bản thân qua lại với người khác luôn thiếu đi lòng nhẫn nại.



Uống qua loa một bát trà hoa, rồi xem bệnh cho vài người, trời đã ngả hoàng hôn. Tính toán lộ trình, nơi tiếp theo là phủ Gia Định, cũng là một chốn phồn hoa, chỉ là cách nơi đây rất xa, kể cả có đi ngay ban đêm thì hết đêm cũng chưa chắc tới nơi. Có điều, dọc đường hẳn có không ít thôn, trấn có thể cho ngựa nghỉ. Nghĩ đến đây chàng liền thu gom mọi thứ, cầm roi lên đường.

Chưa đi được nửa canh giờ, đột nhiên có người cưỡi ngựa đuổi theo phía sau, chỉ nghe có tiếng người gọi xa xa: “Này! Đại ca cưỡi ngựa ở phía trước! Đợi tôi với”.

Tử Hân quay đầu lại, đang đến chính là cô gái buổi chiều vừa gặp, bèn dừng ngựa, có chút kinh ngạc nhìn cô gái.

Cô gái mặc một bộ áo vải thô màu tro tối, đội chiếc nón to đùng, khuôn mặt thon nhỏ ẩn trong đó, khiến cho khó phân biệt được là nam hay nữ. Chàng thấy trên lưng ngựa có một bọc hành trang bằng vải Thanh Hoa, liền hỏi: “Là cô?”.

“Là muội! Thật khéo! Huynh đi đâu vậy?”

“Phủ Gia Định.”

“Muội cũng đi Gia Định. Chúng ta cùng đường, thật là tốt!”, giọng cô gái nếu không nói là hưng phấn thì cũng là khoái chí.

“Sao lại phải chọn giờ này mà ra ngoài? Trời sắp tối đến nơi rồi”, chàng hỏi.

“Đi cùng với huynh, không sợ”, nàng cười.

“Tôi nói muốn đi cùng cô lúc nào?”, chàng lạnh lùng hừ một tiếng.

“Đi đêm là một chuyện nguy hiểm, nếu chúng ta đi cùng với nhau, muội có thể bảo vệ huynh”, nàng ngẩng đầu rõ cao, hiển nhiên là rất tự hào: “Muội biết một chút võ công, đây là vũ khí của muội”.

Đánh “soạt” một tiếng, nàng rút trong người ra một cái rìu nhỏ sắc lẹm. Lại “véo” một tiếng nữa, nàng rút từ sau lưng ra một cây đoản đao sáng loáng.

Chàng không khỏi mềm đi, nói: “Thất kính rồi”.



Con đường quan đạo phủ cát mịn còn hoang vu hơn rất nhiều so với tưởng tượng của chàng.

Sau khi mặt trời lặn, mọi thứ ven đường đều biến thành màu xám, phía chân núi chợt xuất hiện một bình nguyên rộng lớn. Dưới ánh hoàng hôn còn sót lại, mây bay qua eo núi, ôm lấy đàn chim đang lướt trên nền trời xanh nhạt. Con đường uốn lượn trên nền đất xám men qua mấy ao hồ khô cạn phân nửa, cứ thế quanh co tiến về phía trước.

Bất kể đi tới chốn nào, Tử Hân cũng cảm nhận được một vài cảnh vật tựa như từng quen biết, dường như một thời khắc nào đó trong cuộc đời mình, chàng đã từng đi qua nơi đây.

Đương nhiên, vào mùa khác, đúng là chàng đã đi qua vô số nơi có địa hình giống như ở đây. Ở những thôn làng cách nhau nghìn dặm, chàng vẫn có thể nhanh chóng nhận ra một vài tập tục tương tự nhau.

Trên đường ngao du, thứ cảm giác ấy không khỏi khiến người ta chán nản. Cứ thế, đường đi được càng nhiều, lại càng phát hiện thế giới tuy lớn nhưng đó đây đều giống nhau: Cùng một dạng ngõ hoang thôn cũ, cùng một kiểu thành quách đường xá, cùng một dáng đền với miếu, dần dần, phong cảnh này chồng chéo lên phong cảnh khác, chính chàng cũng đã hoàn toàn hồ đồ bởi những ấn tượng chồng chéo của mình, không thể không tìm tòi con đường mới để tan những hồi ức đã dần trở nên trơ lì.

Trong cái thế giới từ năm chàng mười sáu tuổi tới nay, thứ duy nhất cực ít chồng chéo trong ký ức chàng chỉ có một loại: Con người.

Chàng không muốn có mối quan hệ cố định với bất cứ người xa lạ nào, càng không thích bị cuốn vào bất kỳ mối quan hệ nào.

Nhưng sự xuất hiện của nàng đã phá đi thông lệ ấy.

Cô gái yểu điệu nhỏ nhắn ngồi trên lưng ngựa, chẳng nói chẳng rằng nhưng thái độ rất kiên quyết, bám theo sau lưng chàng.

Trước giờ chàng đều không chủ động nói chuyện.

Còn nàng lại luôn mồm luôn miệng, không có chuyện thì tìm chuyện để nói, nàng thường khiến chàng cảm thấy bực mình.

Hoàng hôn không được bao lâu, bọn họ đi qua một con đê. Cô gái đột nhiên giục ngựa đi tới bên cạnh chàng, chỉ vào con sông lấp lánh ánh bạc xa xa hân hoan reo lên: “Này, huynh xem! Ở kia có một con sông!”.

Nơi đấy đương nhiên là có sông. Có cái gì kỳ lạ ở đây?

Chàng trợn tròn mắt nhìn nàng khó hiểu.

“Trên sông có vịt”, nàng lắp bắp nói.

“Đấy là ngan”, chàng chỉnh lại.

“Vịt!”

Nàng ưỡn ngực ngẩng đầu, vươn cổ hết cỡ, bắt chước dáng vẻ con ngan, muốn tranh luận với chàng. Tử Hân điềm nhiên vung roi thúc ngựa đi về phía trước, không buồn để ý đến nàng nữa.

Trời dần sẩm tối, con đường đã có chút nhìn không rõ. Trên không trung, vầng trăng sáng lạnh lẽo cô quạnh chiếu xuống. Sương đêm mang sắc xanh thẫm từ trong rừng tràn ra, chạm vào tay giá buốt.

Thi thoảng có mấy ngọn đèn lồng từ những cỗ xe ngựa chạy ngang qua, cho họ biết mình vẫn còn trên đường.

Hai người không nói năng gì, yên lặng mà đi gần một canh giờ vẫn chẳng thấy một thôn xóm nào, cô gái áo xám ngáp một cái, hỏi: “Huynh thường đi đêm một mình thế này sao?”.

Chàng gật đầu.

“Huynh tin là có ma không?”

Lắc đầu.

“Huynh có cảm thấy nơi đây hơi âm u không?”, nàng đi tới bên cạnh chàng, để ngựa của mình đi sát vào ngưa của chàng, dè dặt nhìn đông ngó tây.

“Cô sợ à?”, chàng hỏi.

“Nực cười! Có gì đáng sợ chứ?”, nàng nói.

“Cầm lấy!”, nàng đưa dây cương ngựa của mình cho chàng, nói: “Huynh dắt ngựa hộ muội, muội mệt rồi, muốn nằm nghỉ trên lưng ngựa một lát”.

Tử Hân còn đang định mở miệng, cô gái đã kéo nón, ôm lấy yên ngựa mà ngủ.

Chàng có chút ngạc nhiên, cảm thấy cô gái này thật không tưởng tượng nổi.

Giữa đêm khuya giơ tay không thấy rõ năm ngón thế này mà dám đưa cương ngựa của mình cho một người hoàn toàn xa lạ, bộ dạng lại còn có vẻ như rất yên tâm, thoải mái mà ngủ.

Hơn một canh giờ tiếp theo, nàng nằm bất động trên yên, rõ ràng là đã chìm vào mộng đẹp.

“Đi lại trên giang hồ, không tránh khỏi việc sẽ gặp phải các thể loại nữ nhân”, một giọng nói ôn hoà từ sau lưng chàng vang lên.

“Trúc huynh, lâu rồi không gặp”, không cần quay đầu lại, chàng đã biết chủ nhân của giọng nói đó là ai.

Quả nhiên, Trúc Ân cưỡi ngựa, thong dong tới trước mặt chàng.

“Tình cảm của nữ nhân giống như một giỏ trứng gà, nếu như nàng muốn tặng trứng gà cho đệ, đệ nhất định phải nuốt xuống, nếu không sẽ hỏng bét”, Trúc Ân cười nói.

Nghe thấy liên tưởng thú vị này, Tử Hân cũng thoải mái bật cười.

Lời của Trúc Ân tuy không ám chỉ rõ ràng nhưng chàng luôn có thể lĩnh hội sâu sắc.

“Rất nhiều nam nhân muốn ở cùng với nữ nhân, vốn cũng để được ăn trứng gà. Đệ phải biết, trong thế giới của nam nhân, trứng gà luôn luôn là quá ít…”

“Nói như vậy, nữ nhân gánh vác trách nhiệm cung cấp trứng gà cho nam nhân”, Tử Hân nói: “Cho nên, các nàng phải đảm bảo giỏ trứng của mình lúc nào cũng phải đầy trứng gà”.

“Đệ nói không sai, nữ nhân vốn dĩ là một cái kho tình cảm, sinh ra trứng gà, an ủi người khác. Nam nhân và trẻ nhỏ là khách hàng chủ yếu của bọn họ”, Trúc Ân lặng lẽ quay đầu lại, nhìn cô gái một cái, nói: “Cẩn thận nhé! Hiện giờ trong giỏ của đệ đã bị người khác đặt một quả trứng vào rồi”.

Nói xong, hắn thần bí cười một cái, nói: “Kha kha, lão đệ, ta có việc phải lên đường gấp, đi trước đây. Lần sau lại nói chuyện”, roi ngựa vung lên, thân người đã vút đi.

Tử Hân buồn rầu thở dài một cái, quay đầu lại nhìn, phát hiện cô gái nọ không biết đã tỉnh từ lúc nào, đang ngồi thẳng trên lưng ngựa, mở to mắt nhìn mình kinh ngạc.

Ánh trăng vừa ló khỏi tầng mây, trong sáng chiếu trên khuôn mặt nàng. Có lẽ vì ngủ quá say, mặt úp lên cái roi ngựa, nên trên mặt nàng vẫn hằn mấy vết hoa văn mờ mờ.

“Cô tỉnh rồi à?”, chàng lạnh nhạt hỏi.

“Ở đây còn có người nào khác sao?”, giọng nàng rất nhẹ nhưng giống như đang sợ hãi.

“Vừa rồi có một vị bằng hữu đi ngang qua, bọn ta có chuyện phiếm một lát, giờ hắn đi rồi, huống chi trên đường còn có không ít người”, chàng chỉ chỉ ven đường. Trên đường không biết từ bao giờ đã có thêm một đám người áo xám lặng lẽ không một tiếng động, hàng ngũ chỉnh tề vượt qua họ về phía trước.

“Có lẽ là người tránh nạn”, thấy khuôn mặt mơ hồ của nàng, chàng giải thích thêm một câu.

“Huynh… đang mộng du à?”, nàng trợn mắt nhìn vào mặt chàng kinh ngạc hỏi.

“Không hề.”

“Bằng hữu của huynh tên là gì?”

“Trúc Ân.”

Nàng đột nhiên cúi đầu, nói: “Xem kìa, chân huynh tuột khỏi bàn đạp rồi”.

Tử Hân đang định nói, cô gái đã nhảy xuống ngựa, đi tới cạnh chàng, đặt cái chân phải không có chút cảm giác của chàng vào bàn đạp. Thời khắc ấy, khuôn mặt chàng bỗng đỏ ửng, vội cúi người gạt tay nàng ra, nói: “Để tự ta”.

Nàng đẩy tay chàng ra, ngẩng đầu, cười rạng rỡ: “Muội giúp huynh, không được sao?”.

Xong xuôi, nàng nhảy lên ngựa, mềm giọng nói: “Chắc là huynh mệt rồi”, ánh mắt ôn hoà nhìn chàng, cầm lấy dây cương ngựa của chàng: “Muội dắt ngựa cho huynh, huynh ngả xuống yên ngựa nghỉ ngơi một lát đi. Đường còn dài lắm”.

“Tôi không mệt.”

“Thế thì muội lại ngủ tiếp đây.”

“Ngủ đi. Tỉnh dậy hẳn là tới nơi rồi”, chàng đưa mắt nhìn về phía trước, đám người vẫn đi trước mặt, chỉ cách không quá hai trượng.

Trong đêm mịt mùng, đầu của bọn họ trông mơ mơ hồ hồ, thân hình thì ngang bằng sổ thẳng mong manh như nhân vật trong hình vẽ. Chẳng có ai quay đầu, mọi người đi trong yên lặng.

Chàng thúc ngựa đi tới, muốn len vào đám người, xem xem rốt cuộc là chuyện gì, nhưng mỗi khi cảm thấy mình sắp lại gần họ, những người ấy lại đột nhiên bước mau hơn, bỏ lại chàng ở khoảng cách hơn một trượng.

Trời tảng sáng, chàng lay tỉnh cô gái, chỉ một toà thành lâu phía xa, nói: “Trước mặt chính là Gia Định”.

Nàng rút lược thong thả chải đầu: “Nhanh như thế đã tới rồi?”.

“Đã đến nơi rồi, vậy thì chúng ta ai đi đường nấy nhé”, Tử Hân đưa trả cương ngựa cho cô gái.

“Vậy huynh đi lối nào?”, nàng vừa vén tóc, vừa buộc lại nhìn sang chàng, cười hỏi.

“Trước tiên tìm khách điếm ngủ một chút.”

“Huynh thông thuộc Gia Định sao?”

“Trước có từng qua.”

Cô gái gật đầu: “Muội cũng tìm khách điếm nghỉ ngơi một lát trước đã”.

Chàng nói một câu tạm biệt rồi tách khỏi cô gái, thúc ngựa nhắm thẳng thành môn đi tới. Cô gái kia vẫn cứ bám theo, đi được một lát, chàng đành dừng ngựa hỏi:

“Sao cô cứ phải đi theo tôi?”

“Ai nói muội đi theo huynh? Đường này là do huynh mở chắc?”, nàng chống nạnh, trương ra bộ dạng hung dữ.

“Vậy được, chúng ta chia tay ở đây, xin cô đừng đi theo tôi nữa”, chàng lạnh lùng nói.

“Huynh cứ tự nhiên, đi cẩn thận”, nàng cong môi, nghiêng người làm tư thế mời.

Tử Hân vung roi thúc ngựa phóng về phía trước.

Đi qua cửa thành, trông thấy một khách điếm xa xa, đang định xuống ngựa, đưa tay sờ sờ phát hiện ra thiếu mất một thứ, khuôn mặt chàng lập tức giận tới tái xanh, quay đầu ngựa định chạy trở lại thì phát hiện cô gái kia không nhanh không chậm theo đến nơi, khẽ cười nói: “A Nhân! Thật khéo, lại gặp huynh rồi. Ài, khách điếm Thanh Nguyên, nghe cái tên xem cái mặt, thật là không tồi chút nào”.

Mặt chàng âm trầm, hồi lâu không nói, qua một lúc mới trầm giọng: “Trả trượng cho ta”.

Cô gái nhảy xuống ngựa, khoác hành lý của mình lên đầu trượng rồi vác lên vai, không để ý tới chàng, thẳng đường tiến vào khách điếm, thuê xong phòng, rửa xong mặt, thay xong y phục rồi mới cầm trượng ra ngoài cửa, thấy chàng vẫn ngồi yên trên lưng ngựa.

Tử Hân đầu đội mũ, mắt híp lại, đôi mày nhíu chặt, khuôn mặt trắng trẻo giờ có màu xanh pha tím, từng giọt, từng giọt mồ hôi lăn xuống từ trán, thần thái cực kỳ đáng sợ.

Thấy dáng vẻ mưa gió sắp nổi của chàng, cô gái sợ hãi, vội vàng nhét trả cây trượng vào tay chàng, mở to mắt lớn giọng nói: “Người ta chỉ muốn đùa huynh chút thôi, cần gì phải giận như thế này…”.

Trượng vừa vào tay, nàng nghe thấy các đốt ngón tay chàng kêu lách cách, hiển nhiên là cơn giận đã tới tột cùng nhưng lại giận tới mức không nói nên lời, bèn rụt cổ lại, giọng mềm đi: “Muội đã đặt xong phòng cho huynh rồi… Huynh còn không mau mau đi nghỉ ngơi”, nói tới mấy chữ cuối, giọng nàng không khỏi có chút âm u, không nói năng gì.

Nàng đang định nói tiếp, Tử Hân đột nhiên nghiêng người, kéo dây cương, con ngựa hý dài một tiếng, phóng vụt đi.

“Này! Huynh đợi muội với!”, nàng kêu lên.