Mê Tông Chi Quốc

Chương 101: Hồi tám: kalabulan






Tư Mã Khôi ngẩn người trong chốc lát, rồi chợt hiểu ra: “Người sắt tồn tại giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, đứng sừng sững ở đây không biết mấy vạn tỉ năm. Nếu nói: ‘thời gian trôi nhanh, như bóng câu(1) lướt qua cửa sổ’ thì cũng không đủ hình dung cho sự trôi chảy của thời gian ở đây. Nó là tọa độ cố định của tạo hóa, đúng là vừa có thể dùng để giúp tàu thuyền định vị phương hướng dưới vực sâu u tối này.”



[1] Bóng câu: có thể hiểu là bóng của con ngựa. Ví thời gian trôi đi nhanh như ngựa phi.



Hải ngọng bội phần thán phục nói với Thắng Hương Lân: “Hình như đúng là thế thật, có điều ngay cả chuyên gia khảo cổ lỗi lạc như tôi đây mà còn không nhìn ra đầu cua tai nheo gì cả, làm sao cô lại phát hiện được nhỉ?” Thắng Hương Lân nói: “Từ hơn hai ngàn năm trước, liên quân Hy Lạp viễn chinh Ba Tư từng xây một ngọn hải đăng khổng lồ màu trắng bên bờ sông Nin. Tôi thấy tượng người sắt này từ xưa đã đứng sừng sững trong nước to sóng dữ, rất giống với ngọn hải đăng. Ngoại trừ điều đó ra, nó còn có thể có tác dụng gì được nữa chứ? Bởi vậy tôi mới suy đoán đây là hoa tiêu cổ, mà cổ nhân hàng ngàn năm trước đã để lại dưới lòng đất.”



Tư Mã Khôi nói: “Nếu người sắt quả thật là tọa độ định hướng đường biển, thì cực vực dưới lòng đất không biết còn sâu bao nhiêu nữa. Pin và lương thực chúng ta mang theo chỉ có hạn, bắt đầu từ bây giờ phải dùng tiết kiệm hơn mới được, ngoài ra còn phải suy xét cẩn thận kế hoạch hành động cho các bước tiếp theo.”




Mọi người lập tức chụm đầu thảo luận: thiên thạch sắt chìm lún hàng vạn mét dưới lòng đất, rất có khả năng có công dụng làm hoa tiêu; trong lòng nó còn tồn tại những ký hiệu cổ xưa không thể giải mã; những ký tự đó có thể xác định thuộc về long ấn triều Hạ. Nhưng con đường dẫn xuống vực sâu này rốt cục có khoảng cách bao xa? Cột mốc tiếp theo liệu có phải một mảnh vụn nữa của thiên thạch sắt hay không? Tất cả những điều đó đều không có cách nào biết được. Trước mắt, chỉ có thể suy đoán nơi sâu nhất dưới cực vực ẩn giấu cội gốc của Diệt Hỏa quốc, nếu lần theo phương hướng của tọa độ chỉ hướng tiến sâu vào biển cát, sẽ đến được khu vực chưa biết đó. Nơi ấy mới thực sự là chìa khóa then chốt, giải đáp mọi ẩn số vùi chôn bấy lâu.



Hội Tư Mã Khôi đều mắc hội chứng địa áp, lại bị cách ly tuyệt đối với thế giới bên ngoài, hoàn cảnh cô lập không ai chi viện, mà khoang giảm áp trong trạm thám trắc trung tâm lại chưa thể phục hồi. Nên bây giờ có trở lại mặt đất, họ cũng chắc chắn không thoát khỏi lưỡi hái tử thần, huống hồ lúc này vẫn chưa giải quyết triệt để mối họa lớn trong lòng là Nấm mồ xanh, chỉ e sau này mãi mãi không thể sống những ngày yên ổn. Giờ đây, chỉ có một cách duy nhất là quên đi nguy hiểm và tiếp tục hành động mà thôi. Tư Mã Khôi phân tích tình hình xong, bèn nói với ba người còn lại: “Xem ra cục diện chúng ta đang phải đối mặt hiện nay cực kỳ bất lợi, dường như bất kể thế nào cũng không thoát khỏi tiếng gọi của thần chết, trừ khi các cậu coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, khẳng khái tiến lên phía trước.”



Mọi người không có ý kiến gì, tất cả đều quyết tâm cao độ, sẵn sàng đi đến tận cùng, cùng lắm thì cách mạng triệt để chứ mấy, chết ở đâu mà chẳng là chết.



Thắng Hương Lân nhắc Tư Mã Khôi: “Đội khảo sát liên hợp Liên Trung thâm nhập cực vực năm 1958, chắc cũng ở dưới này, nhưng suốt dọc đường chúng ta không hề phát hiện thấy tung tích của họ; đợi chút nữa phải tiến hành lục soát lòng tượng người sắt còn lại, đồng thời còn phải nghĩ cách xác định xem người xưa rốt cục đã dùng cách gì để định hướng đường. Bởi vì ngọn hải đăng mà người Hy Lạp cổ xây dựng, sử dụng rất nhiều dầu cá voi để thắp sáng bên trong. Dầu cá voi tương đương với cao của con ly, chỉ cần bén lửa là có thể thắp sáng suốt ngày đêm không nghỉ. Sau đó họ lại lắp thêm cái gương đồng để phản chiếu ánh sáng, nên cho dù giữa đêm khuya trăng khuất sao mờ, thì ánh sáng chói lòa của nó vẫn có thể khiến không gian xung quanh sáng bừng như giữa ban ngày. Nó có khả năng giúp tàu thuyền ở cách xa khoảng 65 ngàn mét xác định phương hướng



Trong khi đó, người sắt khổng lồ trong biển cát tuy rằng hai hốc mắt trống rỗng, nhưng bên trong lại không hề có vết tích của dầu hỏa.



Tư Mã Khôi nói: “Theo tôi biết, nếu không dùng ánh lửa chiếu sáng, thì vẫn còn hai cách khác, thứ nhất là sử dụng thạch quặng tự phát sáng, thứ hai là lợi dụng kim từ. Ánh sáng dường như không đáng tin cậy lắm trong vực sâu như hắc động này, bởi vậy tôi cho rằng khả năng thứ hai có vẻ phù hợp hơn. Chúng ta có thể nhờ viên xà từ chỉ hướng, để xác định vị trí và góc độ”.



Thắng Hương Lân nói: “Nhưng không có bản đồ đường biển, căn bản không rõ các tọa độ dẫn đường khác ở chỗ nào…”, cô trầm tư suy ngẫm giây lát, bỗng nhiên hiểu ra: “Phương hướng mà nó vĩnh viễn hướng về, khả năng chính là vị trí còn lại của điểm tọa độ. Hai người sắt trong lòng đất đứng sóng đôi, có lẽ lần lượt chỉ về hai cực khác nhau.”



Tư Mã Khôi gật đầu: “Hướng mà đầu rắn chỉ là nơi có mạch sắt. Sau khi chúng ta xác định được phương hướng đại thể, trước hết phải đi ngược hướng đầu rắn chỉ, đợi sau khi vượt qua điểm giữa hai cực, xà từ tự nhiên sẽ chuyển hướng. Đến lúc đó, ta chỉ cần thuận theo hướng đầu rắn chỉ mà tiếp tục tiến về phía trước, thì sẽ đến điểm tọa độ dẫn đường tiếp theo. Nếu phương pháp suy đoán này không có gì sai sót, thì thật khó tưởng tượng người cổ đại hàng ngàn năm trước, làm sao mò mẫm ra được cách này. Xem ra góc độ không gian và định vị dưới lòng đất, đúng là chuẩn xác đến mức không ngờ”.



Tuy tọa độ dẫn đường trong biển cát mênh mông chia thành hai cực đông tây, nhưng căn cứ vào biểu đồ phản hồi từ phương pháp viễn thám điện trường của Liên Xô, thì cực đông nam của không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ mới là bộ phận chủ yếu, nó sâu hút khó lường. Mọi người quyết định mạo hiểm đánh canh bạc số phận, tiếp tục đi về hướng này.




Tư Mã Khôi nhìn đồng hồ, nửa tiếng nữa là đến 12 giờ 30 phút, nếu đúng như dự đoán, thì chỉ chút nữa thôi dưới lòng đất sẽ xuất hiện sương đen, thế mà bây giờ vẫn còn chưa biết điểm tọa độ dẫn đường tiếp theo gần xa thế nào, nếu liều lĩnh xông vào e sẽ gặp phải điều bất trắc. Tương truyền, thiên thạch có chứa loại vật chất đặc biệt, có thể chống sấm sét, chi bằng chúng ta cứ ở đây nghỉ ngơi vài tiếng, đợi qua nạn sương đen sẽ tiếp tục suy xét xem bước tiếp theo nên hành động thế nào.



Suốt dọc đường, mọi người liên tục chạy thục mạng, giờ đây vừa mệt lại vừa đói, nên lấy lương khô ra chia cho nhau ăn. Chẳng bao lâu bên tai họ đã nghe tiếng sấm xa ì ùng vọng tới, thoáng chốc gió dữ bắt đầu vần vũ, cột sương bụi tựa làn khói đen cuồn cuộn cuốn theo luồng gió, cường phong và tro bụi mật độ dày đặc hòa quyện vào nhau, bao trùm bủa vây khắp không gian, giống như màn sương buông, vách ngoài của thiên thạch sắt không ngừng phát ra những âm thanh cọ sát sàn sạt.



Tư Mã Khôi lúc đầu còn lo bên trên động trống toang hoác, sương đen sẽ bay ùa vào trong, nhưng quan sát một hồi anh thấy tình hình rất lạ, và càng tin chắc rằng: khối thiên thạch sắt cổ xưa đứng sừng sững trong biển cát, ngoại trừ có thể dùng để dẫn đường cho tàu thuyền ra thì còn là nơi ẩn trú cho con người trốn tránh vật chất hắc ám. Còn tro bụi tàn lưu sau đại kiếp giữa thiên địa, rốt cục là thứ gì, thì đến giờ vẫn hoàn toàn nằm ngoài phạm vi nhận thức của anh.



Tư Mã Khôi lại phát hiện từ sau khi sương đen xuất hiện, kim đồng hồ không hề dừng lại ở thời điểm 12 giờ 30 phút, anh bất giác thở phào một cái, bởi vì chiếc Ilyushin-12 bay qua bầu trời sa mạc Kumtag vào năm 1963 cũng xảy ra sự cố vào đúng thời gian này. Cuối cùng anh cũng yên tâm bảo ba người còn lại dành thời gian chợp mắt một lát.



Đội trưởng Lưu Giang Hà luôn cảm thấy căng thẳng bất an trong không gian quá khép kín. Đám sương đen xuất hiện dưới lòng đất làm anh chàng lại nhớ đến kalabulan đáng sợ nhất trong sa mạc. Đầu anh chàng túa đầm đìa mồ hôi lạnh, thì làm sao mà chợp mắt nổi, anh chàng tự nguyện thay Tư Mã Khôi gác ca đầu tiên.



Hải ngọng thắc mắc hỏi dò: “Kalabulan là cái gì vậy?”, Thắng Hương Lân giải thích: đó chính là thời khắc sau khi cơn bão đi qua. Anh vẫn cảm thấy vẫn rất khó hiểu: “Bão ở đây làm sao ghê gớm bằng bão nhiệt đới ở Miến Điện, nhưng thứ mà đội du kích Cộng sản Miến Điện bọn tôi sợ nhất không phải lốc tố mà là muỗi. Trước đây ở Quảng Đông có một câu ngạn ngữ thế này: “muỗi Quảng Châu, nhặng Huệ Châu”. Nhưng gộp cả hai thứ đó lại, vẫn không nhiều bằng muỗi trong rừng rậm Miến Điến. Vùng núi Bắc Miến có những loại cây, gốc to thù lù như những u thai, nếu không để ý mà giẫm phải, làm nó nát toét ra, thì bên trong toàn bọn bọ gậy, gặp gió một cái là mọc cánh biến thành muỗi, ngửi thấy hơi người là lập tức bám riết lấy đốt cho bằng được. Những kẻ lỡ sa chân vào tình cảnh đó, khó mà giữ nổi mạng sống.”



Thắng Hương Lân nghe Hải ngọng kể lại những cảnh ngộ giật gân như vậy, bèn nhớ lại lúc bắt rắn trắng trong biển cát, Tư Mã Khôi và Hải ngọng tự nhận mình từng được học bản lĩnh bắt rắn lão luyện, cô bèn hỏi Tư Mã Khôi: “Trong rừng rậm Miến Điện thật ra có xà vương không vậy?”



Tư Mã Khôi nói: “Chuyện này tôi vốn cũng định hỏi, nhưng sư phụ truyền thụ kỹ nghệ bắt rắn cho tôi không may tử nạn đột ngột quá, vì thế nên đến bây giờ tôi vẫn không biết đáp án. Lúc đó, quân Cộng sản Miến Điện vừa mới bị tan rã, chúng tôi phải tản đi khắp nơi, chạy đến tận lãnh thổ Campuchia. Khi ấy tôi, Hải ngọng và cả cao thủ bắt rắn trong đội du kích kia nữa, nhìn thấy phía tây có khu rừng rậm bí ẩn, bèn chui vào bắt rắn, định lấy xương rắn chế thành thuốc trị thương. Sau khi vào núi, bọn tôi vẫn như mọi lần nằm rạp trên cây nghe ngóng động tĩnh, chẳng ngờ khi còn chưa kịp đợi bọn rắn đến, thì từ trên trời tự dưng xuất hiện một thằng cha. Tôi chỉ nghe thấy ầm một tiếng thật lớn, cảm giác sắp có chuyện xảy ra, nhưng vẫn chưa kịp phân biệt đó là âm thanh gì thì trên trời hiện ra một chiếc máy bay chiến đấu F4 cánh gấp hình thù quái dị của bọn Mỹ.




Nó bay thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa, dường như chà cả vào cành lá cây rừng, phát ra làn sóng âm đinh tai nhức óc; ai chưa từng trải qua thì vĩnh viễn không thể hình dung nổi âm thanh đó đáng sợ đến mức nào, ngay cả chim rừng cũng sợ đến mức ngã bổ nhào từ trên cây xuống. Đáng tiếc, ông anh Miến Điện giỏi bắt rẳn cũng chưa kịp chuẩn bị tinh thần để đối mặt với tình hình này, nên khi đang ngồi trốn trên cây giật minh lộn cổ xuống từ độ cao mười mấy mét, đầu bị đập nát bét như tương, chẳng đợi để bọn tôi cứu chữa gì đã rũ áo về với đất mẹ.”



Hải ngọng nhớ lại chuyện cũ, cũng bất giác hít hà cảm thán: “Lúc đó không có bản đồ cũng không có người dẫn đường, ai biết đội du kích lại đào tẩu đến tận đường mòn Hồ Chí Minh, nếu còn tiếp tục chạy về hướng tây có khi vào cả lãnh thổ Việt Nam cũng nên. Suốt dải đó toàn là khu vực trọng điểm ném bom của không quân Mỹ.” Mọi người nói chuyện một hồi, thì lần lượt đi nghỉ, để một mình đội trưởng Lưu Giang Hà gác trực. Không hiểu sao mấy ngày nay, hễ nhắm mắt môt cái là Tư Mã Khôi lại thấy hình ảnh những đồng đội đã chết chập chờn hiện về trước mặt.



Anh nằm chưa được bao lâu, đã bị đội trưởng Lưu Giang Hà lay dậy, thấy Thắng Hương Lân cũng ngồi dậy từ bao giờ, chỉ mỗi Hải ngọng là vẫn đang ngủ say tít, anh đang định hỏi hai người: “Tôi lại nói mơ gì à?” – thì thấy Thắng Hương Lân nhỏ giọng nói trước: “Có động!” – Nói xong cô đưa tay chỉ lên cửa động trên cao. Đội trưởng Lưu Giang Hà đứng bên cũng căng thẳng nắm chặt súng, hai mắt nhìn chằm chằm về hướng tiếng động phát ra trong bóng tối.



Tư Mã Khôi nghiêng tai nghe ngóng, xác định đúng là có sinh vật đang chầm chậm trườn bò, còn không ngừng phát ra tiếng thở nặng nhọc. Hiềm nỗi đèn các bua không chiếu sáng tới được cửa động, anh bèn hất mũi chân nhẹ nhàng đánh thức Hải ngọng, lấy tay ra dấu bảo cậu ta không được lên tiếng, đoạn ra hiệu nhắc mọi người sẵn sàng chuẩn bị vũ khí, nhưng không được manh động. Sau đó, anh lập tức bám vào vách tường sắt mò mẫm theo làn hơi thở phát ra. Tư Mã Khôi mau chóng rờ thấy cửa động, tuy không có ánh sáng, nhưng anh vẫn cảm nhận thấy sinh vật đó đang bò vào từ màn sương đen, dường như đó là con người.



Tư Mã Khôi cũng là tay cứng vía, anh thầm nghĩ: “Để ông xem rốt cục mày là đứa nào”. Anh nhẹ nhàng bám sát mặt tường, im lặng bất động, đợi khi nửa thân trước kẻ đó thò vào trong, thì thình lình tóm chặt lấy tay trái đối phương và quật mạnh xuống đất, chẳng ngờ đôi bên vừa trông thấy nhau đã đồng thời thất kinh.



Tư Mã Khôi hoảng hồn vì bàn tay trái của kẻ mới đến có những sáu ngón, còn đối phương khiếp sợ vì quá bất ngờ, hắn lạc giọng hỏi: “Các lão gia đây rốt cục là người hay ma thế?”



Tư Mã Khôi lạnh lùng cười đáp: “Bố mày đêm hôm trước đi qua nghĩa địa, dọa bọn ma sợ vãi đái lăn ra chết cả lũ đấy”.