Mê Tông Chi Quốc

Chương 106: Hồi bốn: vòng tuần hoàn chết






Lúc này, khi chiếc Hải Âu C47 bắt đầu xuất hiện tình trạng nghiêng ngả rung lắc dữ dội, Tư Mã Khôi biết tình hình không ổn, thời gian giống như một dòng sông trôi êm đềm nhưng chỉ cần ào ra khỏi bờ, dòng nước sẽ lập tức trở thành những con sóng dữ điên cuồng gào thét ùa về biển khơi, chẳng ai dự đoán được bên trong dòng nước ngầm hung dữ kia sẽ tồn tại thứ gì, thời gian trong chiếc hộp cũng đã trôi chảy đến điểm tận cùng, mọi người sẽ theo chiếc Hải Âu bị mất tích năm 1949 từ hắc động rơi thẳng xuống sa mạc Lopnor và trở thành một phần của sự kiện tai nạn hàng không năm đó.



Hải ngọng chửi rủa: “Mẹ kiếp! Cả đời tổng cộng ngồi có hai lần máy bay thì cả hai đều bị rơi.”



Tư Mã Khôi cảm thấy thân máy bay nghiêng mạnh, nhưng quay đầu nhìn các hành khách đang ngồi sau khoang, thấy các tử thi vẫn không hề có phản ứng gì, xem ra không phải chiếc hộp biến mất mà là chiếc hộp đang trôi dần vào hắc động.



Lúc này nắp thùng gỗ trong khoang bị tuột xuống, bay thẳng vào Tư Mã Khôi, anh giơ tay đỡ, vô tình nhìn thấy mặt dưới cái nắp có khắc chìm hình vẽ các vì sao, nên nghĩ: “Có lẽ vật này không phải đồ cổ mà là một loại thiên thạch dùng để thờ cúng rồi.”



Thắng Hương Lân đứng ngay cạnh cũng nhìn rõ mồn một, cô từng căn cứ vào thuyết suy đoán chiếc hộp thời gian của Tesla, để suy đoán bốn kết quả mà đội khảo cổ có thể phải đối mặt tiếp theo. Thứ nhất là tìm được cách thoát thân từ chỗ Triệu Lão Biệt, thứ hai là trở thành kẻ tử nạn trong chiếc Hải Âu C47, thứ ba là bị động tối nuốt chửng hoàn toàn sau khi chiếc hộp tan biến, thứ tư là dựa vào năng lực chính mình, tìm thấy lối thoát trong chiếc hộp.



Nhưng giờ đây nghĩ lại, thấy trong đó còn đề cập đến nguyên tắc phản biện. Theo thuyết suy đoán của Tesla, thì một người tuyệt đối không thể gặp một phiên bản khác của chính mình. Bởi vậy hai kết quả đầu khả năng không thể trở thành hiện thực. Là những sự kiện tương đối độc lập, bị vặn vào nhau trong chiếc hộp, nhưng mỗi sự kiện đều có chất lượng và trọng lực riêng của nó, ví dụ Triệu Lão Biệt còn sống, vĩnh viễn không thể xuất hiện trong mọi tọa độ thời gian của đội khảo cổ, lão căn bản không hề nắm trước được cách thoát ra khỏi chiếc hộp, nhưng bản thân lão lại là một lối ra, cũng chính vì việc lão sống sót thoát ra ngoài là kết quả sớm đã tồn tại từ trước, cho nên tất cả logic và nguyên nhân phức tạp đều được hình thành trên nền kết quả này.



Thắng Hương Lân nghĩ đến đây, lập tức nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng, phải mau chóng rời khỏi khoang máy bay, sau đó nghĩ cách tìm kiếm lối ra, nhưng cho dù có tìm thấy lối ra trong chiếc hộp, thì sau đó bị nó dẫn đến nơi nào, chúng ta căn bản cũng không thể xác đinh trước được. Có điều, Triệu Lão Biệt khả năng đã nhờ khối thiên thạch mà lão tiện tay cuỗm được trước đó, nên mới may mắn thoát chết rời khỏi đây. Đội khảo cổ ngay từ đầu đã sơ suất bỏ qua tác dụng của thiên thạch sắt, người sắt đứng sừng sững trong biển cát cả vạn tỉ năm, ngoại trừ tác dụng dẫn đường trong vực sâu tăm tối, thì nó còn là tọa độ cố định, bất biến vĩnh hằng duy nhất trong sóng triều thời gian, nếu trở về khối thiên thạch sắt sẽ không bị hắc động nuốt chửng.




Tư Mã Khôi ngẫm thấy không sai, lúc này tình thế vô cùng cấp bách, anh không nghĩ ngợi gì nữa, bèn kéo Hải ngọng đang ngã sóng soài trên sàn máy bay đứng dậy, đeo mặt nạ phòng độc, theo đường cũ rút lui về khe nứt trên thân máy bay, rồi bò ra ngoài cánh. Lúc này sương đen dày đặc đã bắt đầu tản mát, nhưng soi đèn quặng ra tứ phía xung quanh, mọi người đều cảm thấy ớn lạnh tận đáy lòng.



Tốc độ vật lý của chiếc Hải Âu C47 đang tò từ tiệm cận trạng thái đứng yên trong chiếc hộp, nhưng điều đó chỉ là tương đối khi xét trên hệ quy chiếu với tốc độ của hội Tư Mã Khôi mà thôi, còn trên thực tế nó vẫn đang tiếp tục vận hành, giờ lại chịu sự ảnh hưởng của dòng nhiễu động khí, cánh máy bay dần dần rời khỏi vị trí cũ. Trong không gian u tối mịt mùng, cả hội không nhìn thấy khối thiên thạch sắt nằm ở đâu nữa, bốn phía chỉ là vực sâu không đáy, bây giờ ai dám xả thân nhảy xuống dưới?



Ba người đang bó tay bất lực, đột nhiên chợt thấy trong bóng tối, nơi phần đuôi máy bay, thấp thoáng một chùm sáng yếu ớt, nhờ nhờ trắng. Tư Mã Khôi thầm nghĩ chắc đó là ánh đèn quặng của đội trưởng Lưu Giang Hà, lúc này không thể hô hoán hét gọi, anh đành dùng đèn quặng phát tín hiệu liên lạc.



Đội trưởng Lưu Giang Hà ngồi đợi mãi trong huyệt động không thấy mọi người về, trong lòng không khỏi phát hoảng. Lúc này đang thò người xuống quan sát, thấy phía dưới có ánh đèn quặng nhấp nháy, anh chàng bèn khua đèn mấy vòng tròn, biết đó là tín hiệu cấp cứu, anh chàng lập tức tìm dây thừng có móc câu tiếp ứng.



Ba người bắt được sợi dây thừng gắn móc câu, bò về huyệt động trên nóc thiên thạch sắt. Cả hội còn chưa kịp đứng vững, thì nghe phía xa có tiếng sấm đánh ùng ùng, liền sau đó sét rọi sáng lòa cả vực sâu, chiếc Hải Âu C47 đã hoàn toàn biến mất. Bóng tối mênh mông bỗng nứt toác vài đường khe, từ đó xuất hiện một dải đỏ thẫm thâm u, bên trong có hàng trăm con mắt chi chít lạnh băng và quái dị. Phía sau vòng tuần hoàn chết, dường như có tồn tại một sức mạnh kinh dị nào đó thật khó tưởng tượng, nó lẩn trong hắc động, bóp méo thời gian, khiến người ta hồn xiêu phách lạc, không dám nhìn vào.



Mọi người dựng ngược lông tóc, ba hồn bảy vía lơ lửng chín tầng mây. Không ai xác định được thứ mình vừa nhìn rốt cục là gì, chỉ có điều trong khoảnh khắc đó, dường như bị ai đó dùng búa sắt đập một nhát chí mạng vào giữa ngực, cảm giác tựa hồ ngộp thở vì tuyệt vọng, lại tựa hồ như sự khiếp sợ sâu sắc đối với bóng tối và những điều chưa biết trong tiềm thức con người.



Trải qua thời khắc đó, màn bụi giống như lốc tố dần dần tan biến theo mây khói, bốn phía lại trở về trạng thái tĩnh lặng, nhưng kim la bàn vẫn không quay về thời điểm 12 giờ 30 phút, nó vẫn tiếp diễn thời gian trong chiếc hộp và không ngừng trôi chảy. Không thể xác định tọa độ thời gian có phục hồi như cũ hay không, càng không biết vận mệnh của đội khảo cổ ngày sau có lún vào một vòng tuần hoàn chết khác lớn hơn hay không.



Bây giờ, suy tưởng lại những sự việc trước đây, mọi người đều cảm thấy u mê mê, như vừa trải qua một cơn mơ, không thể tin mình mới trải qua một đoạn thời gian căn bản không hề tồn tại, rồi gặp gỡ Triệu Lão Biệt – kẻ đáng ra đã chết cách đây nhiều năm, nhưng tất cả rõ ràng không phải ảo giác do hội chứng địa áp gây ra.



Bốn người thầm hoang mang trong lòng, đợi khi định thần hơn một chút, họ mới bò từ trên đỉnh đầu người sắt xuống biển cát, thấy tứ phía vẫn đen mù mịt không hề thay đổi. Tư Mã Khôi lại leo lên người sắt còn lại để tiến hành thăm dò, nhưng cũng không có phát hiện nào khác. Lúc quay trở lại, thấy ba người đang kiểm tra lại tư trang, dự tính nếu dựa vào lượng lương thực và nguồn pin hiện tại thi chỉ đủ duy trì thêm vài ngày nữa.



Tư Mã Khôi nói với đội trưởng Lưu Giang Hà: “Ban nãy may mà nhờ chú em tiếp ứng kịp thời, nếu không cả lũ bọn anh đã đi đời rồi còn gì. Anh ghi cho chú một công đấy!”



Hải ngọng nói: “Xem ra đồng chí đội trưởng của chúng ta cũng khá đáng tin đấy nhỉ! Đúng là đồng chí đã vượt qua thử thách. Anh dự đoán sau này trở về, chí ít chú mày cũng phải giật được cái huân chương hạng nhất, thông báo biểu dương trước toàn quân chỉ là chuyện vặt vãnh, còn huân chương anh hùng chiến đấu vẻ vang thì chú mày đừng kỳ vọng làm gì, bởi vì thứ đó không phải vinh dự dành cho người sống đâu.”



Đội trưởng Lưu Giang Hà cực kỳ xem trọng chuyện lập công trong quân ngũ, các anh em trong nông trường du mục đều đã lập công, điều đó có nghĩa là họ có cơ hội được đề bạt, từ tiểu đội trưởng trở lên thì mới coi là cán bộ, nếu được đề bạt thì có thể sẽ ở lại mãi mãi trong quân đội, chuyện tìm vợ nhờ thế cũng dễ dàng hơn nhiều. Đây chính là điều mà bao người ngày ước đêm mong, nhưng bây giờ nghe hội Tư Mã Khôi nói vậy, tuy rằng đúng là có tương lai thật, nhưng anh không dám tham vọng mình sống sót chui khỏi lòng đất mà trở về với quê hương bản quán. Không chỉ vậy, anh còn cảm nhận sâu sắc nỗi sợ hãi và sự nghi hoặc; khi nãy chỉ còn lại một mình trong động tối, anh sợ đến nỗi hai bắp chân cứ run lên bần bật, nói theo cách của đại đội trưởng Mục thì đúng là chết tiệt, xem ra ý chí cách mạng của mình vẫn chưa đủ kiên định.



Hải ngọng nói: “Đừng quên sức mạnh vô cùng vô tận của tấm gương, chỉ cần sau này chú mày chịu khó học hỏi anh nhiều hơn một tí là được. Anh Hải ngọng từ xưa đến nay rất chú trọng nuôi dưỡng phẩm chất anh hùng cá nhân, thế nào gọi là anh hùng hảo hán hả? Anh hùng hảo hán là phải một bữa ăn tám cái màn thầu, rồi mang về nhà ăn thêm hai cân thịt bò nữa…”



Tư Mã Khôi nói: “Vớ vẩn! Để tôi nói cho các cậu nghe anh hùng là cái gì, anh hùng chính là thà chịu thịt nát xương tan, cũng không được thỏa hiệp với cái thế giới thối như đống cứt chó này.”




Đội trưởng Lưu Giang Hà nghe hai vị đàn anh đàm luận cao kiến, chỉ biết đờ ra như con chim gỗ, ngẩn tò te không chêm vào đựợc câu nào.



Thắng Hương Lân nói với ba người: “Ba người tụi anh châu đầu lại mà không bàn luận được chuyện gì có ý nghĩa hơn sao?”



Tư Mã Khôi thầm nghĩ, từ khi đội khảo cổ bắt đầu bước chân vào Đại Sa Bản, mỗi ngày đều trải qua như thể ngày tận thế, bây giờ đã đi đến nước này, thì cũng đành gắng cố sức xoay vần đến cùng mà thôi, bởi vì vòng tuần hoàn chết trong chiếc hộp đã trở thành quá khứ, nó giống như nút thắt không thể tháo gỡ trong số mệnh, giờ đây thứ còn lưu lại ở hiện thực chỉ còn kết quả, bất kể anh có cam tâm tình nguyện hay không, thì vẫn phải chấp nhận kết quả xuất hiện trong vòng tuần hoàn chết.



Kết quả này chính là: đội khảo cổ đã vô tinh tiết lộ một phần bí mật có liên quan đến sóng điện u linh, chiếc tàu hỏa trên không Douglas rơi xuống sa mạc Lopnor vào năm 1949, Triệu Lão Biệt bất ngờ đánh cắp được tin tinh báo và thứ gì đó trong khoang máy bay, rồi câu kết với đội thám hiểm Pháp thâm nhập cực vực Lopnor, sau cùng bỏ mạng dưới Hắc Môn do chịu ảnh hưởng của hội chứng địa áp. Mãi tới những năm gần đây, người ta mới dần dần nhận thức được căn bệnh này, còn trước những năm 50, thế giới hoàn toàn chưa có khái niệm gì về nó. Bởi vì các huyệt động dưới lòng đất trước đây cùng lắm chỉ sâu mấy trăm mét, còn lâu mới đạt đến độ sâu vuợt quá phụ tải của địa áp, lúc đó phạm vi thăm dò dưới lòng đất của con người còn vô cùng có hạn. Khi Triệu Lão Biệt câu kết với người Pháp tìm kiếm báu vật trong sa mạc Lopnor, lão căn bản không hề hay biết trên thế giới lại tồn tại một hiện tượng chí mạng đến thế, bởi vậy mới không đề phòng gì.



Nhưng từ kết quả này lại nảy sinh ra hàng loạt ẩn số mới, cơ bản đều quy về ba manh mối chủ yếu: thứ nhất là, Triệu Lão Biệt đã chết ở sa mạc Tân Cương vào giữa những năm Dân quốc, vậy thì vì sao lão ta lại hiện thân lần nữa ở Trường Sa, Hồ Nam vào thời gian sau giải phóng? Cùng một người sao lại chết những hai lần? Vả lại, lúc Triệu Lão Biệt chạy thoát khỏi chiếc hộp thời gian, rõ ràng lão đã tiện tay cuỗm đi cổ vật gì đó trong khoang máy bay C47, rồi cuối cùng lão vẫn chưa nói cho đội khảo cổ một chuyện tôi quan trọng: tất cả những điều này có liên quan đến Nấm mồ xanh hay không? Và Triệu Lão Biệt đã tiết lộ tin tình báo sóng điện u linh cho Nấm mồ xanh như thế nào?



Thứ hai là, kẻ cầm đầu tổ chức ngầm mấy tháng trước đã lấy được sóng điện u linh trong mật thất ở thành Nhện Vàng, nắm được bí mật về thông đạo, thông đạo này cũng xác định là có thật trên đời. Vậy thì Nấm mồ xanh chắc chắn sẽ đi tìm miếu thần, không biết giờ này hắn đã thực hiện đến đâu rồi; ngoài ra, thân phận thực sự của kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh và cả kết cấu, quy mô của tổ chức này đều được giấu kín như bưng.



Những nghi vấn đó cho đến lúc này vẫn chưa thể giải đáp, giờ đây đội khảo cổ vào sâu trong lòng đất, cũng chỉ biết dựa vào tấm biển chỉ đường cổ xưa, tiếp tục tiến vào nơi tận cùng của biển cát, tìm ra những sự thật mà họ chưa biết. Tung tích đội khảo sát liên hợp Liên Trung biến mất năm 1958, cội gốc của long ấn triều Hạ và cổ quốc Diệt Hỏa, cỗ tàu ngầm Z-615 bị mất tích của Liên Xô, tất cả dường như đều liên quan đến nó. Có thể nói, những ẩn số không thể giải thích như những tán lá đan cài chằng chịt vào nhau, còn ngôi miếu thần ở gần tâm Trái Đất mới là gốc cây đúng nghĩa, chỉ cần đội khảo cổ nhổ được gốc cây ấy, thì toàn bộ ẩn số sẽ tự khắc được giải đáp, bởi vậy chúng ta phải loại bỏ mọi suy nghĩ không liên quan, đặt trọng tâm hành động và điểm nhìn vào tuyến đường thứ ba này.



Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi phân tích, thấy tư duy của anh rất sáng suốt, mạch lạc, sách lược cũng tương đối hợp lý, nhưng nếu đi vào hành động cụ thể thì vô cùng gian nan, có quá nhiều nhân tố không thể xác định. Vì đội khảo cổ chỉ biết ngôi miếu thần nằm ở khu vực chưa biết gần tâm Trái Đất, còn cực vực chỉ là không động nằm ở giữa lớp vỏ và lớp phủ, mà cả đội vẫn chưa thể xác định điểm tận cùng của biển cát thực sự có ngôi miếu thần hay không. Nghe Triệu Lão Biệt nói thì trong miếu thần có lẽ còn tồn tại thứ gì đó vô cùng đáng sợ, nhưng rốt cục nó là thứ gì, thì e rằng chỉ một mình kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh mới biết chân tướng.



Ngoài ra, mọi vết tích trong cực vực dưới lòng Trái Đất đều thể hiện rõ là lòng đất che giấu cội gốc của cổ quốc Diệt Hỏa, đó là nền văn minh cổ đại sinh tồn ở nơi sâu trong hang đất, bắt đầu xuất hiện vào thời kỳ ba triều đại Hạ Thương Chu, sau đó di chuyển dần xuống dưới, từ lưu vực sông Hoàng Hà. Những ghi chép lịch sử về nó hoàn toàn để trắng. Dấu tích long ấn triều Hạ kỳ lạ, cổ xưa từ hơn ngàn năm trước đã không còn ai biết đến, nghe nói ở An Huy có một tấm bia mà Văn vương dùng để trấn thần sông, mặt bia vẫn còn sót lại long ấn triều Hạ. Đồng chí Quách Mạt Nhược(1) phải mất khoảng thời gian ba năm mới đọc được ba từ trong đó, mà còn không biết đồng chí ấy có đọc chính xác hay không. Sự tồn tại của miếu thần chắc chắn liên quan đến cổ quốc nằm dưới lòng đất này.



(1) Quách Mạt Nhược: (1892 – 1978) là nhà văn, nhà biên kịch, nhà thơ, nhà sử học, nhà nghiên cứu ngôn ngữ cổ, chuyên gia thư pháp, học giả, nhà hoạt động xã hội lỗi lạc, người mở đầu cho phong trào thơ mới của Trung Quốc.



Thắng Hương Lân thậm chí còn có dự cảm không lành, trong khoảnh khắc chiếc hộp biến mất, đội khảo cổ dường như nhìn thấy một sinh vật đáng sợ mọc hàng trăm ngàn con mắt dưới vực sâu. Nó ẩn mình trong hắc động giữa các khe nứt thời gian, chẳng rõ nó có liên quan đến miếu thần không? Trong khi đó, bốn thành viên may mắn sống sót lúc này thì có hai thành viên khảo cổ với lai lịch không rõ ràng, lại không có thẻ công tác, một anh đội trưởng liên lạc thông tin không dây và một cô kỹ sư trắc họa địa chất, mà thiếu hẳn chuyên gia khảo cổ đích thực; nên nếu dựa vào năng lực và trang thiết bị hiện giờ thì cho dù có sống sót được đến lúc tìm thấy miếu thần trong lòng đất, chắc cũng không thể giải được những điều kì bí ẩn chứa bên trong.



Tư Mã Khôi thấy lời Thắng Hương Lân nói có lý, những sự việc không thể biết và cũng khó lòng đoán định đó đúng là khiến đội khảo cổ cảm thấy đuối sức. Nhưng trước khi Tư Mã Khôi theo giáo sư Nông địa cầu tham gia đội khảo cổ, anh từng là thành viên cốt cán của sư đoàn đặc vụ quân đội Cộng sản Miến Điện, nếu nói là đam mê với lịch sử hay nhiệt huyết với công tác khảo cổ, thì tất cả đều chỉ là tự gạt mình dối người, nhưng nếu luận về kinh nghiệm quân sự như giết người, phá nổ, thì anh lại vô cùng thông thuộc. Bởi vậy, anh không hề bận tâm đến việc có thể giải mã được ẩn số ngôi miếu thần dưới lòng đất hay không, cùng lắm là liều mạng hủy luôn bí mật trong ngôi miếu thần cho rồi.



Hải ngọng liên miệng khen diệu kế, cứ để con chồn tinh Nấm mồ xanh mừng hụt một phen, chỉ nghĩ đến đây cũng đã cảm thấy hả lòng hả dạ.



Thắng Hương Lân đoán: tổ tông hoặc sư phụ truyền nghề cho Tư Mã Khôi chắc cũng không phải hạng lương thiện, nếu không thì làm sao anh ta lại biết ngón tuyệt kỹ lục lâm như bọ cạp leo tường. Đó là những thủ đoạn mà chỉ bọn sơn tặc trên núi, thủy tặc ngoài hải đảo, hay bọn phóng hỏa giết người, cướp thành vây trại mới giỏi mà thôi; hơn nữa, anh lại có thói quen sử dụng phương thức cực đoan để giải quyết vấn đề. Nhưng bây giờ đúng là cũng chẳng còn đối sách gì khác, đành nghe theo lời Tư Mã Khôi mà hành sự vậy, nên nếu không thể giải mã được bí mật trong miếu thần, thì sẽ hủy hoại nó một cách triệt để tóm lại là cố gắng đi trước Nấm mồ xanh một bước, hy vọng mọi chuyện đến lúc này vẫn chưa quá muộn.




Có điều Thẳng Hương Lân vẫn dặn dò Tư Mã Khôi: “Nếu giáo sư dưới suối vàng mà biết, chắc chắn bác ấy sẽ không đồng ý đâu, bởi vậy chỉ trường hợp vạn bất đắc dĩ chúng ta mới hành động theo kế hoạch này thôi đấy!”



Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý, vì nếu nói anh hoàn toàn không muốn biết bí mật của miếu thần thì cũng là dối lòng. Gần đây Tư Mã Khôi cứ ngẫm đi nghĩ lại mãi một vấn đề, rốt cục phải bí mật kinh người đến dường nào mới đáng để tổ chức ngầm – được sự hỗ trợ của thế lực chiến tranh lạnh phương Tây, không tiếc mọi giá thăm dò chân tướng ẩn giấu bên trong? Anh trầm ngâm suy tưởng mãi mà vẫn không tìm ra lời giải, nên bất giác tự hỏi lòng: “Vì sao vách ngoài của ngôi miếu lại có màu xanh sẫm, phải chăng… nó là bưu điện?”



Hải ngọng nghe Tư Mã Khôi nói vậy, chợt bừng hiểu ra: “Ơ, có lý đấy, sao tớ không nghĩ ra nhỉ?”



Thắng Hương Lân nói: “Thế mà các anh cũng nghĩ ra được, đừng có ngồi đó đoán bừa! Khí áp dưới lòng đất càng xuống sâu càng thấp, tôi thấy mây khí tượng sắp gây ra lốc tố đến nơi rồi đấy!”



Vết thương cũ trên vai Tư Mã Khôi lại bắt đầu ngâm ngẩm đau, biết khả năng lòng đất lại tụ tập mây khí tượng, anh giục mọi người mau khởi hành.



Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà phát hiện ra máy phát sóng ngắn dường như có phản ứng, chắc là trong lúc sắp xếp lại tư trang, anh chàng vô tình chạm phải nút khởi động, có điều việc máy bắt được tín hiệu dưới lòng đất thì hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của mọi người.



Tư Mã Khôi thấy vậy hỏi: “Khi Che Guevara (2) tham gia Cách mạng thế giới ở châu Phi, cũng là lúc đồng chí ấy dùng máy phát sóng ngắn do Liên Xô chế tạo để liên lạc với bác Fidel ở mãi Cuba xa xôi. Nghe nói chỉ trong một giây, nó có thể tải mật mã Morse (3) lượn bảy vòng rưỡi quanh Trái Đất, nhưng nó cũng rất dễ bị nhiễu sóng bởi các nhân tố địa lý và khí tượng. Chẳng lẽ độ sâu dường này dưới lòng đất, mà vẫn có thể bắt được tín hiệu điện sóng từ thế giới bên ngoài sao?”



(2) Che Guevara: tên đầy đủ là Emesto Guevara de la Sema (1928 – 1967) sinh ra ở Argentina. Ông là nhà cách mạng theo Chủ nghĩa Mác-Lê nin vĩ đại, đồng thời ông còn là bác sĩ quân y, nhà văn, nhà lý luận, chỉ huy quân sự nổi tiếng. Ông là nhân vật hạt nhân của Cách mạng Cu ba và là nhà chinh trị quốc tế, là biểu tượng của sự đấu tranh, của tình nhân ái chống lại áp bức và nghèo đói trên toàn thế giới.



(3) Mã Morse (Moóc-xơ): là một loại mã hóa ký tự dùng để truyền các thông tin điện báo. Mã Morsedùng một chuỗi đã được chuẩn hóa, gồm các phần tử dài và ngắn để biểu diễn các chữ cái, chữ số, dấu chấm, và các kí tự đặc biệt của một thông điệp.



Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà báo cáo: “Thủ trưởng, tôi thấy nó không phải thông tin điện báo có nội dung, mà chỉ là một tín hiệu định vị nào đó, đang ở cách đội khảo cổ chúng ta không xa lắm.” – Anh chàng vốn vụng về khoản diễn đạt, nên đành dẫn đường cho mọi người đi về phía trước.



Hội Tư Mã Khôi đều muốn biết rốt cục có chuyện gì xảy ra, bèn theo chân anh chàng đội trưởng đi về hướng Tây Nam, bốn bề chỉ thấy mênh mông cát vàng, cảnh vật vắng vẻ cô tịch khác thường. Tín hiệu định vị thần bí với lai lịch bất minh kia, có lẽ bị vùi lấp dưới tầng cát, cứ cách mấy phút nó lại xuất hiện một lần, điểm khởi nguồn chắc chỉ nằm đâu đó dưới chân mà thôi.