Mê Tông Chi Quốc

Chương 61: Hồi thứ ba: đào thoát khỏi núi dã nhân






Tư Mã Khôi cắn rách đầu lưỡi buộc mình phải tỉnh táo, anh gắng sức áp chế cảm giác tuyệt vọng đang lan khắp cơ thể, chăm chú quan sát động tĩnh trên mặt nước. phát hiện thấy dưới đáy hồ sâu, dường như trôi nổi vật gì đó giống loài cá vược.



Đó là loài cá hai mắt bị thoái hóa gần như mù hẳn, sống dựa vào hợp chất ở vùng nước sâu, thân hình to có nhỏ có, con nhỏ có khi chỉ bé bằng con giun, con to thậm chí có thể nuốt chửng một người sống, chúng bị mùi máu tanh thu hút nổi trên mặt nước. Tư Mã Khôi cầm giáo mỏ vịt đâm xuyên táo mấy con vứt lên nền xuồng. Thế là mọi người lại có máu cá để phân biệt phương hướng. Không biết chiếc xuồng đã bơi được bao xa trong đêm tối, chỉ biết người nào người nấy đều mệt mỏi rã rời, lưng vai đau nhừ, đói hoa cả mắt. Đột nhiên, màn sương mù phía trước mỏng đi đáng kể, phía xa xa lộ một dải màu trắng ngoằn ngoèo, mảnh như sợi chỉ, dường như đó là một vệt ánh sáng vô cùng yếu ớt, lay động giữa khe núi thâm u, đối lập hoàn toàn với bóng tối vô bờ bến đang bao trùm bốn phía xung quanh. Cái lạnh do cảm giác đè nén tạo ra thực sự khiến người ta tê buốt tận xương tủy.



Mọi người nhìn thấy phía trước dập dềnh ẩn hiện một vạch kẻ màu trắng, dường như là đốm bụi ánh sáng, thì biết có lẽ họ đã thoát khỏi vũng mù nhiễu loạn phương hướng. Lúc này, từ cõi chết trở về, trái tim bốn người dường như nóng bừng cả lên, nhưng khi còn chưa kịp định thần nhìn rõ, thì nghe thấy tiếng nước chảy xiết ầm ầm vang dội, chiếc xuồng không nghe theo điều khiển, xoay tròn trên mặt nước và không ngừng trôi về phía trước.



Sau cơn giông tố, mấy chục dòng nước ngầm phun trào mãnh liệt trong lòng núi sâu. Mỗi dòng nước cuồn cuộn như một con bạch long khổng lồ treo mình trên vách núi cheo nứt vỡ, thế nước rung chuyển dữ dội. Dòng ngân hà giữa không trung tuôn ra từ khe núi, bị rừng rậm nguyên sinh um tùm che phủ, trông hùng dũng như rồng cuộn, nghe vang rền như sấm dậy, tiếng thác đổ vọng lại giữa bầu không gian nơi thâm cốc gầm gào không dứt.



Hội Tư Mã Khôi đều không thể ngờ, chỉ cách một quãng ngắn mà thế nước lại khác biệt đến thế, cửa thoát là một thác nước khổng lồ, nhất thời chẳng ai kịp trở tay. Chiếc xuồng chưa kịp giảm tốc độ, thì đã bị dòng nước xiết cuốn phăng về phía trước, thuận thế lao mình từ trên cao xuống khe sâu phía dưới. Tư Mã Khôi cảm thấy cơ thể bay ra khỏi xuồng, trong tích tắc thời gian trời đất quay cuồng, cũng chẳng rõ đầu hay đít chúc xuống dưới, càng không dám quan sát sự hùng vĩ thần bí của quần thể dòng thác. Anh không thể xác định dưới chân thác là nước sâu hay đá nhọn, chỉ biết cố gắng bảo vệ mạng sống trước đôi cánh đang dang rộng của tử thần, hai khuỷu tay khép lại, hai chân thu trước ngực, tay ôm gióng chân, trán gục chấm gối, toàn thân co tròn thành một khối, nhào theo đà rơi.




Dưới chân thác toàn là những phiến đá trắng cứng đanh, nhưng do bị dòng nước xâm thực đục đẽo lâu ngày, khiến những phiến đá đó đều trở nên rỗng ruột. Vì bề mặt bên trên của đá đã mất đi lực đỡ từ dưới, cộng thêm nó không ngừng bị sụt lún trong suốt bao nhiêu năm qua, nên những phiến đá bị võng xuống thành một khe núi lõm sâu hình bán nguyệt. Dòng nước từ độ cao cách biệt hơn năm trăm mét đổ như bay xuống dưới, thật chẳng khác nào vạn mã phi nước đại, phát ra những âm thanh ầm ầm đến chấn động tâm kinh.



Sau khi bốn người bị rơi xuống nước, do sự tác động của xung lực, người nào cũng không tránh khỏi uống no bụng nước. Nhưng sau đó chưa kịp chạm tới đáy, thì họ đã bị lực nổi mạnh khiếp người của dòng nước kéo ngược trở lên, ngước mắt nhìn chỉ thấy rất nhiều dòng thác vắt mình nằm giữa các vách núi cao đang trút đổ từ giữa không trung xuống. Thế nước mạnh mẽ, khiến bọt nước trắng xóa bắn tung tóe khắp nơi, hơi nước tạo thành quầng sương mù mịt bao phủ khắp khu vực xung quanh, hai bên vách núi mọc um tùm những cây cổ thụ tán lá rợp trời, những phiến đá to nhỏ với đủ hình thù quái dị nằm rải rác giữa các lối đi, rễ cây và dây leo kết bện chằng chịt, thảm thực vật rậm rạp che phủ gần như hoàn toàn diện tích mặt nước.



Mọi người vừa thoát khỏi lưỡi hái của thần chết, vội giãy đạp trèo lên những chiếc rễ cây nổi dưới đáy hồ, lần bò vào bờ, sau khi nôn liền ra mấy ngụm nước, mới cảm thấy đầu óc dần đần trở lại bình thường. Tư Mã Khôi thở gấp trong giây lát, chợt thấy Hải ngọng đi lại khó khăn, liền gọi Tuyệt đến xem vết thương thế nào.



Nơi núi cao rừng sâu này không bị cơn bão nhiệt đới Buddha ảnh hưởng nghiêm trọng lắm. Lúc này mưa lớn đã bắt đầu ngưng hạt, ngẩng đầu lên chỉ thấy trời xanh mây trắng, ánh nắng chan hòa. Tuyệt mở lớp băng cuốn quanh vết thương của Hải ngọng, thấy miệng vết thương chảy ra vệt máu đen, cô liền bất giác cau mày lo lắng, nếulà vỡ nội tạng thì phải tiến hành phẫu thuật ngay mới kịp, bằng không sẽ không thể nào cầm máu được.



Hải ngọng chỉ cần chưa chết thì không bao giờ chịu để miệng nghỉ ngơi, nhưng lúc này anh cũng lờ mờ cảm thấy không ổn. Trong lúc đèn gần cạn dầu, toàn thân cảm thấy lạnh giá như rơi xuống động băng, anh cứng miệng phều phào chửi rủa mấy tiếng: “Mả bà nó, sao cái núi quỷ tha ma bắt này lại lạnh teo teo thế nhỉ? Thực ra, loại linh dược hiệu nghiệm nhất bây giờ là mau đi tìm cho tôi một bát cháo nóng…”. Nói xong, anh cúi xuống nhìn vết thương của mình, nhưng dường như trông nó còn nghiêm trọng hơn dự liệu rất nhiều, trong lòng không khỏi giật thót mình. Hải ngọng gắng gượng hỏi Tuyệt: “Sao hả? Liệu tôi có qua nổi hôm nay không?”



Tuyệt cúi đầu không đáp, Tư Mã Khôi đành phải trả lời thay: “Có lẽ nó không đến nỗi… tệ như cậu thấy đâu.”



Hải ngọng lắc đầu bảo: “Cậu không cần cho tớ uống thuốc an thần làm gì, tớ có mù đâu cơ chứ, miệng vết thương chảy ra toàn máu đen, đấy là máu chảy ra từ ruột. Mẹ cha nhà nó! Sao số mình đen đủi như cứt chó thế này nhỉ, xem ra ông trời bắt phải chết trong rừng sâu núi thẳm rôi, vùi thân dưới ba thước đất, khéo ngay cả mảnh ván mỏng che mặt cũng chẳng tìm ra, chứ nói gì đến bia mộ. Đây là cái số mệnh gì thế không biết?”



Tư Mã Khôi nghiến răng nói: “Chúng ta khó khăn lắm mới thoát ra được bên ngoài, cậu đừng có mà, mẹ nó chứ, lải nhải mấy lời nhụt chí ấy nữa, dẫu có phải vác, tớ cũng sẽ vác cậu trở về”. Tư Mã Khôi muốn mau chóng tìm lối chạy về hướng bắc, liền hỏi Ngọc Phi Yen còn muốn tiếp tục đồng hành cùng mọi người nữa hay không? Bây giờ đã thoát khỏi khe sâu, rốt cục con đường hai bên khác biệt, chi bằng cứ chia tay nhau ở đây thì hơn.



Ngọc Phi Yến giận dữ mắng Tư Mã Khôi: “Cái đồ chết bầm, sao lúc nào anh cũng muốn xua tôi đi thế hả? Bây giờ chúng ta đều sức cùng lực kiệt, hai chân chẳng lê nổi thân, trên mình cũng không còn vũ khí, điện đàm, thuốc men, thức ăn, bản đồ gì cả. Trong hoàn cảnh lương cạn đạn kiệt, liệu ai có thể tự mình ra khỏi núi Dã Nhân được hả? Có điều, cho dù phải bỏ mạng trong rừng sâu, bị dã thú gặm trơ xương, thì cũng vẫn còn hơn bị nhốt sống dưới huyệt động dưới lòng đất chẳng bao giờ nhìn thấy mặt trời.”



Đúng lúc mọi người đang bàn bạc, thì mé chếch mỏm núi phía trái sơn khe, một đàn chim đột nhiên xáo xác bay loạn xạ, Tư Mã Khôi xuất thân từ giang hồ, tai thính mắt tinh, anh biết rừng sâu không có người, vậy mà chim lại bay hoảng loạn, chắc chắn phía xa đã xảy ra sự cố bất thường gì đó. Anh vội ngẩng đầu nghe ngóng, thì phát hiện thấy trên núi có vài bóng người hòa lẫn với đám cây rừng um tùm thành một màu, số lượng đông đúc có lẽ không dưới trăm người, tất cả đều mặc quân phục và trang bị vũ khí đầy đủ, chỉ có điều vì họ ở cách một khoảng hơi xa, nên tạm thời vẫn chưa thể biết rõ rốt cục là quân đội phe nào.




Tư Mã Khôi phát giác tình hình có biến, liền vội vàng ra hiệu cho Ngọc Phi Yến và Tuyệt, ba người khênh Hải ngọng nấp mình vào sau một lùm cây rậm. Nhưng nhóm người Miến Điện dường như đã nhìn thấy có người trong khe núi, một loạt đạn bắn ra từ khẩu súng hạng nặng lập tức bay tới tấp như mưa sa, thân cây to bằng cổ tay không thể đỡ được luồng đạn, liền bị tróc mất một mảnh lớn, bọn họ lại từ trên cao bắn dội xuống, triển khai đội hình bao vây, nhóm quân xuyên qua rừng rậm nhanh chóng áp sát lại gần.Hội Tư Mã Khôi bị hỏa lực dày đặc áp chế đến nỗi không thể ngẩng đầu lên, chỉ cần hơi nhổm người dậy lập tức sẽ bị đạn nã lỗ chỗ như tổ ong. Thấy tiếng súng và tiếng hò hét càng lúc càng tới gần, mọi người đều ngầm than khô: “Đúng là mẹ kiếp, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Trong núi Dã Nhân mọc đâu ra lắm quân đội thế không biết?”



Lúc này, Tư Mã Khôi đã nghe rõ tiếng hò hét của đội quân vũ trang và nhận diện được phương thức nã bắn cũng như loại vũ khí, anh cảm thấy có vẻ quen tai, không giống với đội quân của chính phủ hay thổ phỉ, trong lòng bất giác reo lên: “Đám người này chẳng phải quân bang Wa thì là gì?” – Anh ra hiệu cho Ngọc Phi Yến và Tuyệt không được bắn trả, rồi nấp sau thân cây hét lớn: “Méo duây pao pua! Méo duây pao pua!”



Trong tiếng Miến Điện, câu đó có nghĩa là “Người anh em thân thiết”, nói đơn giản thì nó ám chỉ “người mình cả mà”. Dường như tất cả người Trung Quốc vượt biên gia nhập quân đội Cộng sản Miến Điện năm đó đều học câu tiếng Miến này đầu tiên.



Nhóm vũ trang đang khép vòng vây, nghe tiếng hô của Tư Mã Khôi, quả nhiên lục tục ngừng bắn. Thấy đối phương tạm dừng hỏa lực, Tư Mã Khôi liền giơ cao hai tay biểu thị mình không có vũ khí, sau đó mới chậm rãi bước ra khỏi lùm cây đi đến trước mặt họ.



Toán người xuất hiện ở mé chếch mỏm núi quả thực là quân đội bang Wa, những người này đều là dân binh dân tộc Wa sống tập trung ở biên giới Miến Trung, bất kể già trẻ gái trai, người nào da cũng đen thùi lùi, lại rất dũng cảm thiện chiến. Tuy bọn họn không biết chữ, nhưng đại bộ phận đều biết nói thồ ngữ dân tộc Wa và khẩu ngữ Vân Nam. Quân đội bang Wa là một lực lượng vũ trang địa phương rất có uy thế, thủ lĩnh của họ từng tiếp kiến lãnh đạo tối cao Trung Hoa thời kỳ đầu Cách mạng Văn hóa, thậm chí còn tự nhận mình là hồng vệ binh bang Wa của Mao Chủ tịch, mấy năm trước cũng từng tham gia phối hợp tác chiến với quân đội Cộng sản Miến Điện.Lúc đầu, thủ lĩnh quân đội bang Wa bị quân chính phủ bắt làm tù binh ở Lashio, khi chuẩn bị áp giải mang đi xử tử cũng là vừa lúc quân đội Cộng sản giành thăng lợi trong cuộc phản công chọc thủng sào huyệt kiên cô của địch, bộ đội kéo quân vào tận Lashio, kịp thời giải cứu vị thủ lĩnh thoát khỏi họng súng của quân chính phủ. Bởi vậy hai bên đã dùng máu để gắn kết tình bạn vững bền, mỗi lần gặp nhau đều có thể gọi nhau bằng cái tên “Méo duây pao pua”.



Tư Mã Khôi còn nhớ quân bang Wa đều cư trú ở dải biên giới Miến Trung, nơi đó cách núi Dã Nhân một đoạn khá xa, sao họ lại xuất hiện giữa rừng rậm nguyên sinh cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài vậy nhỉ? Trong khi đó, toán quân bang Wa cũng cảm thấy khó hiểu về sự gặp gỡ bất ngờ với những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm ở nơi rừng hoang heo hút này, nhưng đôi bên cùng là “méo duây pao pua” thì chắc chắn không thể nào sai được.



Người cầm đầu toán quân Wa thấy tình hình của Hải ngọng có vẻ nguy cấp, liền ra lệnh cho bác sĩ quân y trong đoàn băng bó lại vết thương cho hội Tư Mã Khôi. Khi vào núi tác chiến, họ đều chuẩn bị đầy đủ các loại thuốc men dược phẩm cấp cứu và các dụng cụ phẫu thuật, có điều ông bác sĩ quân y trong đoàn cũng chỉ là ông lang vườn người bản địa, tay nghề không được cao siêu cho lắm. May mà y thuật của Tuyệt rất điêu luyện, cô lập tức dựng bệnh viện dã chiến đon giản để trị thương. Sau khi truyền máu xong, thì cái mạng của Hải ngọng cuối cùng cũng tạm thời được giữ lại.



Sau đó, hai bên liền kể cho nhau nghe đầu đuôi câu chuyện của mình. Thì ra vùng này thuộc về địa phận sườn đông nam của núi Dã Nhân, đội quân bang Wa ở sườn bắc phát hiện có vài thành phần vũ trang lai lịch bất minh, bọn người này tiến hành hoạt động trinh sát trong núi Dã Nhân lúc thời tiết khắc nghiệt, người bang Wa lại cho rằng quân chính phủ phái quân bao vây, thế là họ liền điều một đoàn quân đi theo đường vòng tiến vào núi, chuẩn bị mai phục đánh quân địch.



Hội Tư Mã Khôi trao đổi tin tình báo với người cầm đầu toán quân bang Wa, tiết lộ cho họ biết: gần đây các phần tử vũ trang và máy bay hoạt động ở vùng núi có khả năng đều là thuộc hạ của Nấm mồ xanh, mục đích của bọn chúng là truy lùng tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh mất tích mấy chụcnăm về trước ở núi Dã Nhân. Xem dấu tích để lại thì có vẻ bọn chúng sẽ không gây ra bất kỳ uy hiếp gì đối với quân đội bang Wa đang chiếm cứ vùng phía bắc, trong khi đó quân đội chính phủ đang tập kết ở phía nam dãy núi cũng không có động thái muốn tiến ra bắc. Tư Mã Khôi nói bốn người các anh đều là thành viên đội du kích Cộng sản Miến Điện bị đánh tan rã, nhiệm vụ lần này của cả nhóm là phải về Bắc Kinh gấp để hồi báo trực tiếp rất nhiều tin tức tình báo quân sự quan trọng cho Mao Chủ tịch.




Thủ lĩnh toán quân bang Wa nghe Tư Mã Khôi nói có đầu có cuối, vả lại cũng vô tình trùng khớp với một vài thông tin lính trinh sát thu thập được, nên liền tin là thật. Ông chỉ để một vài người ở lại trong núi tiếp tục theo dõi tình hình quân địch, số còn lại đều rút cả về căn cứ.



Toán quân bang Wa từ biên giới Miến Lào lui về phía bắc, đoạn đường khá xa lại vất vả nên không tránh khỏi việc vượt núi băng rừng ngày đi đêm nghỉ, suốt mấy ngày liền ròng rã mới đến được vùng biên giới Miến Trung. Hội Tư Mã Khôi nghỉ ngơi mấy ngày ở căn cứ địa bang Wa, vết thương trên người La Đại Hải được điều dưỡng nên cũng dần dần có chuyển biến tốt.



Bầu trời lúc này có chút u ám, cái bóng nguy nga sừng sững của ngọn núi tuyết Gao Li Gong bị tầng mây đen nặng trĩu bao phủ. Những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm tuy đã đào thoát thành công khỏi núi Dã Nhân, nhưng trên mình mỗi người đều mang vết bỏng do chất độc màu da cam đốt cháy, hậu họa của nó để lại thật khôn lường, họ sẽ phải đón nhận kết cục gì trong tương lai. Chẳng cần nghĩ, trong lòng ai nấy cũng thầm biết rõ, bởi vậy mọi người bàn bạc xem sau này sẽ đi đâu về đâu, mỗi người đều có dự định riêng.



Ở bang Wa đang thiêu một bác sĩ chuyên môn đúng nghĩa, người bản địa thấy y thuật của Tuyệt rất giỏi, hơn nữa tính tình cô hiền hòa, dễ gần, bèn xin cô ở lại giúp họ chữa bệnh. Tuyệt thấy ở đây có rất nhiều bệnh nhân không được điều trị hiệu quả, nên cô thật lòng không nhẫn tâm bỏ đi.



Hơn nữa, gia đình Tuyệt bị liệt vào hàng phần tử bất hảo, nếu cô trở về Trung Quốc, chắc chắn sẽ làm liên lụy đến cả nhà, bởi việc năm xưa bỏ trốn khỏi Vân Nam chạy sang Miến Điện. Vì vậy, cô quyết định ở lại bang Wa giúp người dân chữa bệnh trị thương.



Tư Mã Khôi cũng đồng tình với số mệnh mà cô lựa chọn cho mình. Anh xét thấy cứ điểm của bang Wa nằm giáp biên giới Miến Trung, nên quân đội chính phủ cũng không dám khinh suất mà khởi binh vây bắt. Ở đây nơi nào cũng là vùng núi hoang vắng, tất cả các trại đều chỉ có người dân tộc Wa thuần nhất sinh sống, người ngoài không dễ gì trà trộn vào được, Tuyệt chỉ cần mai danh ẩn tích, hóa trang thành nữ binh người Wa, cố gắng không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thì có lẽ ẩn trốn an toàn mấy năm ở đây cũng không có vấn đề gì. Thế là, anh không khuyên can cô nữa, chỉ dặn Tuyệt phải biết tự chăm sóc lấy mình, mọi việc đều cần thận trọng mới được.



Riêng Tư Mã Khôi, mong muốn quay lại cố hương vẫn luôn nung nấu trong đầu anh, vì đội du kích Miến Điện còn có một nhiệm vụ cuối cùng, đó là những người sốt sót phải gắng sức trở về tổ quốc, tìm cách báo tin cho những người thân của những đồng chí đã bỏ thân nằm lại nơi chiến trường đất khách. Giờ đây, nhiệm vụ quan trọng và cao cả đó được đặt lên vai Tư Mã Khôi.



Ngọc Phi Yến lại cho rằng: “Tuy tổ chức ngầm Nấm mồ xanh không hề có động tĩnh gì từ sau sự kiện núi Dã Nhân, như thể bọn chúng hoàn toàn bốc hơi theo mây khói vậy, nhưng trước khi chưa giải mã được mọi ẩn số bị chôn vùi dưới thành cổ Nhện Vàng, thì mọi người phải tuyệt đối cẩn thận, không thể yên tâm cho rằng mình đã bình an vô sự, nếu không sớm muộn gì tai họa cũng gõ cửa tìm đến, có trốn đến chân trời góc bể nào cũng không thể thoát khỏi sự truy sát của số mệnh. Để diệt trừ tận gốc hậu họa, chúng ta nên tìm cách quay trở lại thành Nhện Vàng, đoạt lấy đoạn sóng điện u hồn tồn tại ngàn năm trong mật thất mới được”.