Mỗi Đêm Một Câu Chuyện Kinh Dị

Chương 54: Rắn nhà




Rắn là một trong những đồ đằng quan trọng của người cổ đại, về sau biến đổi thành thần, 《 Lí Trường Cát Ca Thi Tự 》của Đỗ Mục thời Đường có "Ngưu quỷ xà thần chưa đủ làm nên những ảo tưởng vô lý ấy mà". Ngô Chấn Phương nhà Thanh 《 Lĩnh Nam Tạp Kí 》viết: "Triều Châu có rắn thần, chúng nó giống mũ miện phía nam, kính trọng gọi rằng du thiên đại đế, trong bàn thờ đều là rắn vậy. Muốn thấy, miếu tự tất từ đó mà ra, quanh quẩn giữa vạc mâm, hoặc treo ngược trên xà nhà, hoặc lấy gậy trúc đón, uốn lượn tiêm kết, không sợ người đổi thành không thích người, dài chừng ba thước, xanh ngắt đáng yêu . . . . . . . Phàm kẻ tế thần, rắn thường bò đến nhà" Người Nghi Hưng Giang Tô chia rắn thành rắn nhà và rắn đồng, phân biệt gọi là "Lý Man" và "Ngoại Man". Gọi là rắn nhà, chỉ một loại rắn không độc sống ở trong nhà, thường cuộn quanh xà nhà, mái hiên, mép tường, luống ngói, gác xép, tổng cộng khoảng ba thước. Mọi người cho rằng rắn nhà sẽ là người giám hộ, nhà có rắn nhà, gạo trong bồ gạo sẽ tự động đầy lên.

Cũng có người thường nói, nếu trong nhà phát hiện rắn, kỵ nhất là giết nó. Cho rằng nếu giết chết rắn hoặc rắn không bị đánh chết, rắn sẽ dùng hành động trả thù, gây bất lợi cho gia môn. Do đó nếu phát hiện rắn trong nhà, hãy bắt nó vào trong lọ hoặc móc trên cán dài, sau đó đưa vào sơn cốc, đồng thời xin chúng trốn vào sơn động, đừng trở lại nhà người ta nữa.

Truyền thuyết các địa phương vô cùng giống nhau, nhưng có một điểm chung, rắn nhà không phải vật tầm thường.

Các cụ già thường nói, rắn nhà như phúc tụ tài. Rắn nhà đi, thì nhà bại, rắn nhà ở, thì nhà hưng.

Thậm chí, cư nhiên có truyền thuyết nếu trong nhà mình tận mắt nhìn thấy rắn nhà từ nhà cổ rời đi, đại hung.

Bình thường nhà cửa nông thôn trên mấy mươi năm phần lớn có rắn nhà, hơn nữa đều rất lớn. Tất cả mọi người có thói quen ước định mà thành, chỉ cần nhìn thấy rắn nhà từ trong nhà chạy ra, cần phải quay đầu đi, không thể để tâm tồn tà niệm, không thể để miệng nói ra uế ngôn ô ngữ, sau đó dâng hương lễ bái, để đáp tạ tình nhiều năm qua bảo vệ nhà.

Đương nhiên, có quy tắc tất nhiên có người phá hư quy tắc, đạo lý này vĩnh viễn không thay đổi.

Cuối tuần thuận theo lời dặn của cha, trở về nhà chuyển một vài thứ về, bởi vì đã lâu không về quê, một cụ già nghe nói tôi là con trai của cha, cứng rắn muốn kéo tôi đến nhà ông ấy ăn cơm, miễn cưỡng không được, không thể làm gì khác hơn là đi theo ông ấy. Song nhà ông ấy quả thật không tồi, cho dù so sánh với biệt thự của người thành phố cũng không kém cỏi chút nào, không chỉ trang nhã rộng rãi, mà bởi phong cách của nó còn cổ xưa thần bí, quả nhiên, cũ cũng có chỗ tốt của cũ hơn nữa tôi ở trên những giá gỗ trong phòng nhìn thấy rất nhiều dược phẩm và bộ sách đặt ngay ngắn, tôi âm thầm phỏng đoán chẳng lẽ ông cụ bán thuốc?

"Trong thôn trước năm 50 vốn có gia đình họ Triệu, thôn này họ Tử Triệu chiếm đa số, một số người thời trước khả năng đều là thân thích, đáng tiếc một gia tộc phát triển vô cùng sung túc, sau bốn đời cư nhiên lại thành người dưng nước lã.

Song gia đình họ Triệu này ở trong thôn vẫn có chút địa vị, nhà cụ ông là chưởng quản gia phả trong thôn, cũng xem như đức cao vọng trọng, hơn nữa mặc dù nhà có dư tiền của, lại đối với thôn dân nghèo khổ rất tốt, cho nên uy vọng của ông ở thôn rất cao. Ba con trai của ông cũng vô cùng ưu tú. Triệu Đại thuở nhỏ học võ thuật, mấy mươi năm qua cũng có chút thành tựu, trong làng ngoài ngõ đều biết Triệu gia có một đứa con trai lớn giữ nhà hộ viện như vậy, khi đó trong thôn, có thể đánh được người vẫn là rất có địa vị.

Triệu Nhị và Triệu Đại là anh em ruột, song tính cách khác nhau rất lớn, Triệu Nhị điềm đạm nho nhã, cấp hai học đến phân nửa, được thôn giao cho làm chức kế toán.

Về phần Triệu Tam, tuổi rất trẻ, lúc ấy đang chuẩn bị thi đại học, thành tích coi như không tồi, hơn nữa bản thân chăm chỉ, tựa hồ rất có hy vọng.

Người nhà này nhìn qua tựa hồ rất vui vẻ, nhưng cũng chỉ để cho người ngoài nhìn thế mà thôi."

Ông cụ kể chuyện xưa này gọi là bác Triệu, tôi cũng gọi theo những người xung quanh, kỳ thật hơn hai mươi năm qua tôi cũng chỉ lần đầu gặp ông ấy thôi. Bác Triệu ở trong thôn địa vị rất cao, bởi vì thứ nhất ấn theo vai vế ông ở trong thôn tương đối già, hơn nữa nghe giọng điệu của ông dường như có quan hệ thân thích với ông cụ Triệu đã mất kia. Thứ hai làm người ngay thẳng công bằng, rất nhiều chuyện đều dựa vào ông để cân nhắc quyết định, song tôi cũng là nghe thôn dân họ nói vậy thôi. Tóc bác Triệu đã rụng hết, mặc dù đã gần bảy mươi tuổi, nhưng nhìn qua tinh thần không tồi, hai mắt luôn mở lớn, tròng trắng kiểu đậu hũ lồi lên, nhìn nghiêng rất giống mắt ếch, đương nhiên, tôi không dám nói ra. Da thịt màu đồng cổ mặc dù xuất hiện vết rạn khô nứt, song ngón tay ông rất nhỏ dài, mặc dù đốt ngón thô to, nhưng dị thường linh hoạt, thân thể bác Triệu vô cùng khỏe mạnh, ngẫm lại trong thành thị cư nhiên còn có người phơi nắng tia tử ngoại, tiêu tiền tìm tội, còn không bằng về thôn quê ở vài ngày, vài tuần cũng chưa hẳn là chuyện không tốt.

Ông dùng bàn tay lớn như quạt hương bồ chùi đôi môi đầy mỡ, đem một cánh gà đã gặm hết ném ra ngoài, thần bí cúi đầu nói.

"Gia đình ông cụ Triệu trước mặt người ngoài rất đoàn kết, kỳ thật thường xuyên cãi nhau."

"Ồ? Vì sao thế?" Tôi hiếu kỳ hỏi han.

"Nguyên nhân kỳ thật cũng rất đơn giản, bởi vì thời trẻ ông cụ Triệu phạm phải một việc ngu ngốc, sự tình này người biết không nhiều lắm, người biết bí mật này phần lớn đều kính trọng ông, cũng chưa từng công khai ở thôn. Cư nhiên cùng một người hầu nhỏ mới tới trong nhà mèo mỡ với nhau, sự tình bại lộ, sợ lộ ra ngoài bẽ mặt, cho nên giếm xuống, để cô gái kia ở lại nhà, mặc dù vợ của cụ ông rất không vui, nhưng không còn cách nào, có điều cô gái này lúc sinh đẻ băng huyết rồi chết, người Triệu gia cũng bí mật xử lý thi thể. Sự tình này người biết càng ít, người Triệu gia nói với bên ngoài cô gái đã ôm tiền chạy trốn, kết quả ngược lại Triệu gia thành người bị hại. Cô gái này là người bên ngoài, ở trong thôn vô thân vô cố, đứa bé được sinh ra trước khi cô ta chết chính là Triệu Tam. Người Triệu gia cảm thấy tâm mang tội lỗi, vì vậy đối xử với đứa bé này cực kỳ tốt, nhất là cụ ông, bình thường càng thêm thương yêu, thứ nhất là đứa út, thứ hai Triệu Tam thực sự so với hai anh trai thông minh hơn nhiều.

Thời gian dài, hiển nhiên vợ trước của cụ ông trong lòng bất mãn, hơn nữa cụ ông về sau thân thể dần dần suy yếu, Triệu gia mặc dù bàn bạc nhiều, nhưng khá dư dả tiền bạc, nhất là tòa nhà cổ trong nhà." Bác Triệu nói đến đây, không nhịn được ngẩng đầu, nhìn xà ngang trong phòng ngẩn người.

Tôi có chút khó hiểu, nhưng không tiện đặt câu hỏi, dù sao cũng là vãn bối, lễ nghĩa tôi vẫn hiểu được. Một lúc lâu, ông mới mở miệng nói chuyện.

"Nông dân, cả đời đều mưu cầu một gia đình an khang hòa thuận, nhất là nhà cửa, nhà cổ của Triệu gia chính là căn nhà tốt nhất trong hơn mười phương viên, đông ấm hạ lạnh không cần nói, hơn nữa ai nhìn qua cũng đều nói là phong thủy tốt, vượng gia. Do đó mấy đứa con Triệu gia đều rất coi trọng căn nhà này. Đương nhiên, người trong thôn cũng thế. Trong đó hiển nhiên cũng kể cả ta." Bác Triệu nhẹ nhàng nhấp ngụm rượu nếp lâu năm, nheo mắt nở nụ cười, sau đó chép chép miệng, lộ vẻ cực kỳ hưởng thụ.

"Nhưng ngài mới đầu không phải nói đều đã là chuyện mấy mươi năm trước sao, tới cùng hiện người nhà đó sao rồi?" Tôi hỏi, bác Triệu đột nhiên sầm mặt.

"Người Triệu gia xảy ra chuyện, chết cũng đã chết, tán cũng đã tán, gia đình lớn như vậy, thoáng cái đã suy tàn." Ngữ khí ông có chút nặng nề, tựa hồ có chút phiền muộn.

"Nghe nói lúc lão tam Triệu gia sắp thi tốt nghiệp, trong nhà xảy ra việc lạ, lúc ấy người trong nhà không hề để ý, nhưng sau cùng lại phát sinh chuỗi sự kiện mới bắt đầu nhớ ra, trái lại làm người ta cực kỳ sợ hãi.

Tháng năm trong thôn đã cực kỳ nóng bức, khi đó còn chưa có quạt điện gì, càng miễn bàn tới điều hòa, tất cả mọi người thân trần phe phẩy quạt hương bồ ở cửa hóng mát. Chỉ có gia đình cụ ông Triệu gia không cần."

"Ồ? Vì sao?" Tôi đã tới đây, mùa hè quả thực nóng không chịu nổi, khó chịu muốn chết, nếu ngồi trong nhà, chưa đến mấy tiếng, tuyệt đối đem người ta như bánh bao mà chưng chín.

"Bởi vì nhà cổ của Triệu gia vô cùng kỳ lạ, tựa như một hầm băng vậy, vô luận bên ngoài nóng bao nhiêu, đi vào liền mát mẻ vô cùng, tâm thần khí sảng, hơn nữa người thân thể có chút không khỏe choáng đầu não nóng, chỉ cần ở trong nằm chốc lát, cũng không trị mà khỏi bệnh. Tới mùa đông, bên trong lại vô cùng ấm áp, lò lửa chậu than cũng không cần, mặc dù nhà đã gần trăm năm, do tổ phụ của ông cụ Triệu truyền xuống, trải qua ba đời, nhưng như trước vô cùng chắc chắn, mưa có to xối xả mấy trong nhà cũng không có chút dột nước nào, do đó vùng này, nhà cổ Triệu gia liền có tiếng tăm." Bác Triệu nói rất nhanh, nước bọt cũng bắn ra, nhìn ra được ông hiểu rất rõ nhà cổ Triệu gia.

"Nói lạc đề rồi, ta lại nói về ba anh em Triệu gia kia, lão đại là người luyện võ, đương nhiên cũng thích uống rượu, song tửu lượng của anh ta cực lớn, người bình thường thay phiên nhau uống anh ta cũng không say, vì vậy trong thôn không ai dám đấu rượu với anh ta, vóc người anh ta khôi ngô hơn nữa nhiệt tình hiếu khách, chẳng qua tính tình vô cùng nóng nảy, mở miệng vài câu bất hòa, đấm tay liền vung lên, ông cụ Triệu vì con trai ông ta mà lo lắng không ít, cũng may về sau lấy vợ cho lão đại, Triệu Đại mới dần dần an phận lại, nhưng anh ta lại đối xử với đứa em trai nhỏ nhất vô cùng tốt.

Về sau lão nhị cũng thành thân, hai anh trai tuổi bắt đầu lớn, tâm tư cũng nhiều, nhất là hai người vợ được gả vào, đương nhiên đối với chú ba không phải ruột rà này có không ít nhận xét. Lão tam hiểu người, biết trong nhà thường xuyên xa lánh mình, cũng càng cố gắng học hành, từ rất nhỏ đã xin ở ký túc xá trường, ít khi về nhà ở. Khi đó sinh viên đại học vinh quang xiết bao, song cũng may lão tam tư chất không tồi, hơn nữa vô cùng chăm chỉ, cũng có hy vọng rất lớn.

Nhưng hai cô vợ cùng với mẹ chồng của các cô đều không muốn cho qua như thế, các cô thường xuyên khích cụ sớm xác định di chúc nhà cửa cùng tài sản, cũng nói lão tam không có tư cách để lấy một phần. Song ông cụ Triệu đến tột cùng nghĩ thế nào, chỉ có trời mới biết.

Tóm lại sự tình phát sinh trước khi thi tốt nghiệp một tháng, một buổi tối ngày hè. Cụ ông yêu cầu lão tam về nhà ở lần nữa, ăn ngon chút ngủ ngon chút, mặc dù lão tam đã từ chối nhiều lần, nhưng có thể ngẫm lại vì cuộc thi, cuối cùng vẫn trở về.

Người một nhà rốt cuộc ngồi ăn chung bữa cơm, quy củ trong thôn phụ nữ không chung bàn. Vì vậy ba người phụ nữ bưng chén ra ngoài, đó cũng là yêu cầu của cụ ông, đuổi các cô ra ngoài.

Vì vậy trong nhà cổ chỉ còn lại bốn cha con, bốn người ngồi bốn góc bàn ăn, lão đại miệt mài uống rượu không nói lời nào. Lão nhị trái lại khách khí khuyên em trai ăn nhiều vào, chẳng qua giọng điệu không giống như là anh em ruột thịt, trái lại như đối với người ngoài, khách khí quá mức, cụ ông không hề ăn gì, chỉ hút thuốc nhìn ba con trai.

Triệu gia có thói quen ăn cơm ở phòng khách, trong phòng lớn đặt một cái bàn gỗ ngay ngắn, phía trên vừa vặn là xà nhà cao cao. Ngoài cửa đã sập tối, sao cũng đã nhìn thấy một ít rồi." Bác Triệu ăn uống no đủ, rút một điếu thuốc, tôi mặc dù nghe rất thú vị, nhưng trong lòng không khỏi nghi vấn, vì sao ông ấy ngay cả chi tiết lúc đó cũng rõ như lòng bàn tay, phảng phất như ngay ở hiện trường vậy.

Song bác Triệu không chú ý nghi vấn trong mắt tôi, tiếp tục kể.

"Lão đại một mình cắm đầu uống rượu, có khả năng phần lớn gia đình đều là như vậy, lão đại thường thường đôn hậu chất phát, không giỏi nói năng. Trái lại lão nhị Triệu gia thường xuyên ra vào ủy ban thôn cùng người giao tiếp rộng, chẳng qua một mực nhiệt tình nói chuyện cùng cậu em trai đã lâu không gặp này làm người ta chung quy cảm thấy có chút giả dối như làm cho có.

Rượu qua ba lần, đồ ăn đã giảm thấy đáy. Cụ ông rốt cuộc nhịn không được nữa. Ông ho khan vài tiếng, ném đầu thuốc lá trên mặt đất, dùng mũi giày vải đầu tròn màu đen của mình hung hăng giẫm lên, phảng phất như hạ quyết tâm thật lớn. Ba anh con trai cũng đã phát hiện, không nói với nhau lời nào, chờ cha mình lên tiếng.

Cụ ông hắng giọng một cái, nói cho ba anh con trai. Tất cả tài sản của mình sẽ chia làm ba phần, ba người mỗi người lấy một phần. Nhưng chút tiền này cũng không phải trọng điểm. Mọi người đều muốn chính là căn nhà cổ thần kỳ này. Nhưng không đợi cụ ông nói hết, lão tam đột nhiên lạnh lùng lên tiếng.

'Con không muốn phần đó của mình, con cũng không muốn nhà, nếu như có thể thi lên đại học, con sẽ không về nữa.' Lão tam nói xong, đứng dậy, lão đại lộ vẻ rất kinh ngạc, cũng rất thống khổ, tựa như có gì che giấu khó nói, nhưng chịu đựng không nói.

Lão nhị thì thật cao hứng, nhưng lại tìm cách không muốn biểu lộ ra, chỉ cúi đầu lấy tay đẩy kính mắt trên mũi, lấy tay che đậy nụ cười khó nén trên mặt.

Cụ ông càng kinh ngạc, sau đó lại khó hiểu.

Đây lúc mỗi người trên bàn mang vẻ mặt khác nhau, đột nhiên từ xà ngang nhào xuống một thứ gì đó đen tuyền, phịch một tiếng nện trên bàn ăn, sắc trời rất tối, mọi người sợ giật mình, cũng đều không nhìn kỹ.

Chờ mọi người nhìn kỹ, đều hít vào một ngụm khí lạnh.

Trên bàn là một con rắn. Thô cỡ miệng chén tráng men, nền xanh vân đen, đầu rắn quay về phía lão tam, còn thè lưỡi ra ngoài. Rắn này không nhỏ, mặc dù không có thước đo trực tiếp, phỏng chừng cũng phải dài hơn ba thước. Ba người còn lại đều sợ đến rời khỏi chỗ, ngay cả lão đại ngày thường luôn lớn gan cũng bị dọa trắng mặt.

'Rắn nhà!' Lão nhị dùng thanh âm run rẩy hô câu, sau đó không ngừng lùi về phía sau.

Rắn này phảng phất như đang ngủ, hạ đầu nặng nề, khả năng lúc nện xuống có chút không khỏe, xem ra nó vẫn luôn ở trên xà ngang. Lão tam cũng có chút sợ hãi, nhưng không biết tại sao thân thể lại không cách nào nhúc nhích, chỉ ngồi thẳng ở đó, cùng con rắn nhà này đối mặt.

Rất nhanh, rắn uốn lượn theo chân bàn bò xuống, như bơi lội dạo quanh chân lão tam một vòng, sau đó biến mất trong bóng đêm ngoài cửa.

Cụ ông đột nhiên thống khổ hô lớn: 'Rắn nhà đã đi rồi, Triệu gia phải bại rồi! Báo ứng mà, báo ứng mà.' Ông giống như người điên, lặp lại những lời này, lảo đảo chạy khỏi nhà.

Lão đại đỡ lão nhị lên, cũng chậm rãi ra ngoài, trước khi ra cửa, anh ta tựa hồ có chuyện muốn nói với lão tam, nhưng nhìn vẻ mặt em trai lạnh lùng, không thể làm gì hơn là nuốt xuống.

Trong phòng chỉ còn mình lão tam ngồi. Kỳ thật anh ta trong nhà này chỉ quan hệ tốt với đại ca, bởi vì lúc anh ta ra đời đại ca đã mười sáu rồi, trưởng huynh như cha, đại ca này đối với anh cực kỳ tốt, thường xuyên chạy hơn 10 dặm đến trường học thăm anh, cũng hy vọng anh về nhà, nhưng lần này về nhà lão tam biết rốt cuộc không nán lại nổi nữa. Hồi lâu, lão tam từ trên băng ghế dài đã ngồi đến nỗi cái mông mình cơ hồ chết lặng đứng dậy, ngẩng đầu nhìn nóc nhà cao cao, cũng đi ra ngoài.

Chuyện Triệu gia có rắn ra khỏi nhà không biết tại sao cư nhiên truyền ra ngoài. Người nhà họ Triệu thoáng cái tựa như trở thành đại danh từ xúi quẩy trong thôn, những người ngày thường luôn chào hỏi xưng huynh gọi đệ vừa thấy họ liền ào một cái toàn bộ tản đi. Cũng may lão tam không hề quan tâm đến việc này, ngày thứ hai thu dọn đồ đạc về trường học.

Bảy ngày sau, anh ta nhận được tin người chết trong nhà.

Lão đại đã chết.

Chết lạ lùng, thậm chí trước khi lão đại chết e rằng cũng không biết tại sao. Đêm hôm đó, anh ta chiếu lệ cùng bạn bè uống rượu cả đêm. Kỳ thật uống rất ít, không bì kịp với bình thường, lão đại đương nhiên không để trong lòng như trước đêm khuya trở về nhà mình. Trong tay còn xách bình rượu này, vừa đi vừa uống.

Nhưng anh ta lại vấp ngã một cái, mà khi đó anh ta vừa vặn đang đặt bình trong miệng mình.

Vì vậy thân hình nặng nề của lão đại hoàn toàn đè xuống, cả cái bình cũng hoàn toàn nhét vào cổ họng, loại bình rượu này đặc chế ở nông thôn, so với chai bia bây giờ ốm hơn, nhưng dài hơn, có chút giống lon coca cola. Khi đó là đêm khuya, lão đại không cách nào kêu thành tiếng.

Ngày thứ hai, vợ lão đại nhìn thấy thi thể lão đại ngoài cửa, nghe nói là chết ngộp, miệng cũng bị cái bình chống vào hoàn toàn trật khớp, hai tay cũng duỗi thẳng bất động, phía trên đều là vết trầy xước. Nhưng về sau lấy bình ra, miệng lão đại vô luận làm thế nào cũng không đóng lại được, cái miệng tối om kia, phảng phất như khi rắn muốn nuốt thức ăn vậy, mấy anh thanh niên dùng sức thật lớn cũng không khép lại được, cuối cùng không còn cách nào, không thể làm gì khác hơn là tìm búa, đập nát xương cằm của lão đại, lúc này mới đóng lại, nếu không thi thể há miệng lớn như thế, làm sao hạ táng?

Mọi người âm thầm sợ hãi, đều từng nghe nói chết không nhắm mắt, nhưng có ai từng nghe nói không đóng được miệng?

Lão tam cơ hồ khóc một đường chạy về nhà, kết quả đầu tiên, trên mặt trúng một cái tát như trời giáng của đại tẩu, đánh anh ta cơ hồ hôn mê.

Anh ta không trách đại tẩu, vì đại tẩu một bên khóc một bên gào lên rằng.

'Mày chính là tai tinh, mày hại chết mẹ mày, vừa về lại hại chết đại ca mày, sao chính mày không chết đi?' Mà lão nhị ngay cả ngày đưa tang đại ca cũng không dám ra ngoài, cả ngày bọc chăn ngồi xổm trong phòng. Mà mẹ của lão đại, cũng cơ hồ khóc ở trong phòng, ngay cả sức để mắng chửi người cũng không có.

Triệu gia lão tam ở trước linh bài đại ca anh ta quỳ suốt một ngày, sau đó bỏ đi, trước khi đi anh ta chỉ nhìn cha mình một chút, con người vì chút vui sướng ngắn ngủi mà sinh hạ anh ta.

Anh ta chỉ nói với ông cụ xa lạ này câu bảo trọng, rồi trở về trường học. Đại ca đã chết, gia đình này càng không có gì đáng lưu luyến, cho nên anh ta ngược lại muốn cố gắng học hành, rời khỏi đây.

Lão đại chết đi gia đình này suy tàn rất nhiều, ông cụ Triệu cũng thoáng cái già xọm xuống, phản ứng cũng không còn lớn như trước. Con mắt của bà cụ cũng khóc mù, vợ lão đại vài năm sau tái giá, bất quá đây là chuyện về sau.

Lão tam quả nhiên thi đậu đại học, rời khỏi thôn này, lúc anh ta rời đi không ai đưa tiễn anh ta, nhưng nghe nói anh ta đi rồi, có thôn dân nhìn thấy ông cụ Triệu một mình chống quải trượng đứng ngẩn ngơ ở cửa thôn, lão lệ giàn giụa.

Vài năm sau, lão tam đã tốt nghiệp, cả quãng thời gian đại học anh ta cơ hồ chưa từng quay về nhà, sự tình đã qua lâu như vậy, anh ta quyết định trở về xem sao.

Hết thảy như cũ, song thời gian đó là ba năm tai họa, cũng may mảnh đất này coi như giàu có đông đúc, mặc dù cả nước thiên tai, thôn dân vẫn có thể tự cấp tự túc, ấm no không thành vấn đề.

Nhưng lần này trở về, liền nghe nói Nhị ca đã chết.

Nguyên nhân rất đơn giản, lão nhị cơ hồ mỗi ngày tỉnh dậy đều phải xem chân mình, anh ta cứ nói có rắn từ trên chân bắt đầu cắn nuốt anh ta, hơn nữa trên người anh ta mọc bệnh ngoài da vô cùng kỳ quái, từng vòng từng vòng, từ mắt cá chân chậm rãi quấn lên người, dày khoảng hai đầu ngón tay, sờ lên thô ráp lắm, từng khối một như vảy vậy, lão nhị luôn ngứa ngáy khó nhịn, vừa lấy tay gãi, liền gãi xuống một mảnh da lớn, cởi sạch quần áo nhìn lại, phảng phất như cả người anh ta bị rắn cuốn lấy vậy. Kết quả những chỗ bị gãi thối rữa chuyển biến xấu dữ dội hơn, da hư thối tanh tưởi, ngay cả vợ anh ta cũng tránh thật xa. Về sau trên người lão nhị không có chỗ thịt nào nguyên vẹn nữa.

Rốt cuộc, lão nhị chịu không nổi loại hành hạ này, dùng chút sức lực cuối cùng, ở trong phòng dùng dây lưng quần tự treo cổ.

Chỉ trong vài năm, Triệu gia đã chết hai đứa con trai, câu chuyện về rắn nhà càng làm người ta thêm khủng hoảng. Ông cụ Triệu bi thương quá độ, cũng về với đất vàng. Vợ lão nhị trở về nhà mẹ đẻ. Triệu gia to như vậy ngắn ngủi vài năm liền lụn bại cửa nát nhà tan, trong nhà cổ chỉ còn hai người ở, mẹ ruột của lão đại và lão nhị cùng với lão tam vừa mới tốt nghiệp.

Mặc dù bà cụ cực kỳ ghét lão tam, ít nói chuyện với anh ta, duy nhất nói chuyện với anh ta cũng là vì những khi mắt nhìn không thấy cần trợ giúp, hơn nữa hơi tí liền sỉ nhục đánh chửi anh ta. Nhưng lão tam không hề có ý định bỏ đi, chỉ yên lặng chăm sóc bà, thậm chí bỏ qua sự nghiệp của mình, cam tâm ở trong thôn tiếp nhận vị trí của nhị ca, làm một kế toán. Hơn nữa anh ta đã từ chối rất nhiều cô nương ái mộ, chỉ trông coi người phụ nữ trên danh nghĩa cũng có thể gọi là mẹ này.

Thôn dân đối với một nhà kỳ lạ này ôm hứng thú rất cao, đủ loại phiên bản kể cũng nhiều, có nơi còn truyền ra Triệu gia có giấu của, lão tam hại chết hai anh trai mình, sau đó mỗi ngày tra khảo bà cụ bức bà nói ra vân vân. Nhưng có những năm lời đồn và lời nói dóc sẽ diễn biến thành sự thật đáng sợ.

Thời kỳ cách mạng văn hóa lão tam mỗi ngày bị phê đấu, buộc anh ta nói ra bí mật nhà cổ của Triệu gia, mà bà cụ kia cũng không nói được một lời. Kết quả những người đó bắt giam lão tam vài ngày, thấy hỏi không ra cái gì, không thể làm gì khác hơn là thả anh ta trở về, chỉ có điều không cho phép hai người họ ở lại nhà cổ, mà biến nhà cổ thành bộ tư lệnh phái tạo phản, một đám não tàn ngày ngày ở đó, ban ngày thì phê đấu tẩu tư phái (phái chủ trương đi theo con đường tư bản chủ nghĩa) địa chủ, buổi tối thì ngủ đánh bài, cũng vui vẻ ngất trời.

(Tiêu: "phê đấu" ý tứ giống như "phê phán" hoặc "phê bình", nhưng trong cách mạng văn hóa phê đấu có vũ lực và phá hoại, phê đấu lấy hình thức đoàn thể tiến hành, tỷ như phê phán đại hội, đi diễu phố, võ đấu, xét nhà, đập phá di sản văn hóa, đem những người hoặc những chuyện trái với tư tưởng và ý chỉ chủ đạo của Mao Trạch Đông công khai, sau đó tiến hành phê bình, công khai vũ nhục, phá hoại công trình hoặc đồ vật, gây hại đến thân thể, thậm chí sát hại.)

Mà lão tam thì dẫn bà cụ mắt mù tìm gian nhà tranh, như trước không ngại khổ cực chăm sóc thật tốt. Cuộc sống cứ thế trôi qua, song bà cụ vẫn không mấy hòa nhã với lão tam.

Về sau cách mạng văn hóa chấm dứt, trong thôn cảm thấy lão tam đáng thương, phá lệ trả nhà lại cho Triệu gia.

Đêm đó, khi lão tam đỡ bà cụ vào đại sảnh Triệu gia, nhiều năm qua bà cụ không có bất cứ biểu cảm và lời nói nào dư thừa đột nhiên òa một tiếng khóc rống lên, sau đó quỳ gối dưới chân lão tam. Lão tam thì mặt không chút biểu cảm nhìn bà cụ.

Bà cụ khóc không thành tiếng mỗi câu là một nghiệp chướng, mỗi lời là một báo ứng các loại, mãi cho đến khi lão tam dìu bà lên, ngồi vào trên ghế.

Hóa ra mẹ của lão tam không phải băng huyết mà chết.

Nghiêm khắc mà nói, là bà cụ làm, mà lão đại, cũng biết việc này.

Năm đó đến kỳ sinh nở, vợ của ông cụ Triệu sợ người hầu này sau khi sinh sẽ ngang vai ngang vế với bà, liền âm thầm mua chuộc bà đỡ, bế lão tam ra ngoài, mình thì đi vào dùng chăn ghìm chết mẹ đẻ của lão tam đang suy yếu sau khi sinh. Về sau ông cụ Triệu biết, tức giận cực kỳ, nhưng phỏng chừng mặt mũi, không thể làm gì khác hơn là an táng thi thể, đối với bên ngoài nói cô gái này sinh xong đứa trẻ thì bỏ chạy rồi.

Sự tình vốn tưởng rằng sẽ chấm dứt, nhưng Triệu gia ngày sau lại thường xuyên xuất hiện việc lạ, vì vậy ông cụ Triệu mời đạo sĩ tới, đạo sĩ ra một biện pháp, nói là đào thi thể lên, cắt đứt xương cốt, như rắn quấn quanh một cây gỗ dài mảnh, bọc bên ngoài một ống gỗ rỗng ruột, dùng cây gỗ này làm xà nhà, có thể bảo vệ trong nhà không lo. Mà cô gái kia cũng sẽ hóa thành rắn nhà, vì Triệu gia trông coi nhà cửa tích phúc.

Nhưng đạo sĩ còn nói, một khi rắn nhà chạy, sẽ họa đến cả con cháu, thì hắn cũng đành bó tay. Vài năm đầu trong nhà thuận buồm xuôi gió, ông cụ Triệu cũng không suy nghĩ nhiều, kết quả về sau liền xảy ra chuyện trên.

Mà lão đại, lúc đó nhìn trộm được hành động của mẹ, về sau ép hỏi mới biết được chân tướng, nhưng không thể làm gì khác hơn là âm thầm giấu chuyện trong lòng, không thể làm gì khác hơn là đối xử thật tốt hơn với lão tam, về phần lão nhị, thì đối với việc này không chút hiểu rõ, anh ta chẳng qua là muốn độc chiếm gia sản của lão tam mà thôi.

Nhưng khi bà cụ kể xong hết thảy những việc này, mặt lão tam vẫn bình lặng như nước, bình tĩnh nói kỳ thật những việc này anh ta sớm đã biết rõ, trước kia lão đại đến trường thăm lão tam, trong lời nói đã lộ ra manh mối, lão tam cực kỳ thông minh, biết đại ca thích rượu, vì vậy anh ta tìm mấy người bạn có thể uống được, rốt cuộc lôi được chuyện này ra, lúc đầu khi anh ta biết chân tướng cũng vô cùng phẫn nộ, chỉ trông mong mình sớm học hành thành công, sau đó về nhà trả thù.

Song khi lão đại chết đi, anh ta cũng không suy nghĩ những việc này nữa, sở dĩ nhiều năm hầu hạ bà cụ như vậy, thực tế là giúp lão đại làm tròn nghĩa vụ con cái vẫn chưa kịp hoàn thành.

Đêm hôm đó, bà cụ liền tạ thế, chết vô cùng an tường.

Về sau, lão tam tiếp tục ở lại trong thôn, cả đời không lập gia đình, mà nhà cổ Triệu gia, cũng hoan nghênh rất nhiều trẻ em cụ già tới nghỉ hè, anh ta học y khoa, dựa vào tri thức đại học và tự đọc sách học của mình, biến nhà cổ thành một bệnh viện làng." Bác Triệu rốt cuộc đã kể xong, ông uống hết chút rượu cuối cùng, tựa hồ thật vui vẻ, phảng phất như đã kể hết những khổ cực nhiều năm qua.

Bên ngoài đã gần xế chiều, một người phụ nữ trung niên nắm tay một đứa trẻ đi đến.

"Bác sĩ Triệu, khám con giúp tôi đi, nhìn qua như là bị cảm nắng rồi." Người phụ nữ sốt ruột, tôi nhìn đứa bé, quả nhiên, đầu óc choáng váng, bước chân cũng không ổn, trên mặt đỏ hồng không ngừng.

Bác Triệu ợ rượu, nhìn đứa bé một chút, ở cánh tay, cổ, dưới nách đứa bé xoa bóp vài cái, sau đó đưa cho người phụ nữ một ít thuốc bọc giấy trắng, phất tay nói không sao đâu. Người phụ nữ vô cùng cảm tạ lui ra ngoài.

"Hóa ra ông chính là Triệu Tam kia?" Tôi nhịn không được hỏi. Bác Triệu mắt say lờ đờ mờ mịt nhìn tôi.

"Đúng thì sao, không đúng thì sao chứ? Có điều cậu lớn lên quả thật rất giống cha mình, hơn nữa thích đào bới đến tận cùng." Ông nói xong, cười cười với tôi, tràn ngập cay đắng.

Tôi từ biệt bác Triệu. Đứng ngoài cửa nhà cổ Triệu gia, đột nhiên cảm thấy tòa nhà màu đỏ này giữa trời chiều lộ vẻ vô cùng hiu quạnh.

Bác Triệu ở trước mặt tôi chậm rãi đóng cửa lại, ánh mặt trời xuyên qua khe cửa, tôi dường như nhìn thấy bãi đất trống mặt sau bác Triệu vốn dĩ trống rỗng, đứng rất nhiều đôi chân, rất nhiều đôi giày.

Trong đó, có đôi giày vải đen bọc đầu tròn.

Khi tôi dụi mắt muốn nhìn kỹ lại, cánh cửa đã gắt gao khép chặt, tôi thầm nghĩ có thể do uống chút rượu, hơn nữa do ánh sáng mà thôi.

Ngày thứ hai, tôi từ trong mộng tỉnh dậy, biết bác Triệu qua đời.

Đi rất an tường, loại tuổi này không bệnh mà chết là chuyện đáng mừng, vô luận là đối với ai cũng vậy. Nghe nói đêm đó có người nhìn thấy một con rắn thật lớn uốn lượn nhanh chóng bò vào nhà cổ Triệu gia. Chẳng qua, có thật sự thấy rõ ràng hay không, người nọ lại không dám khẳng định.

Thứ hai còn phải làm việc, tôi vội vã tế bái bác Triệu rồi trở về, bác Triệu không có con cái, hoặc nói có rất nhiều con cái, vì ông dạy cho rất nhiều đứa trẻ trong thôn khai sáng tri thức cùng đạo lý làm người. Cho nên hậu sự của ông đều do thôn lo liệu.

Lúc trở về, tôi kể chuyện bác Triệu qua đời. Cha tôi nghe xong thổn thức không thôi, cũng nói mình khi còn bé vì cách mạng văn hóa mất cha, vẫn luôn rất tôn kính bác Triệu, bởi vì ông học thức uyên bác hơn nữa nhiệt tình đối xử với mọi người, còn biết y thuật.

"Ông còn nói gì không? Trước khi lâm chung." Cha hỏi tôi.

"Ông nói con rất giống ba." Tôi thành thật trả lời, cha à một tiếng, rồi không nói nữa. Từ đó về sau ông cũng không còn đề cập tới bác Triệu nữa.