Ngục Thánh

Quyển 5 - Chương 12: Màu tối




Hiện đang là tháng 4 ở Diệp Quốc. Đa Lạt đã ở đây thêm ba tuần. Ba tuần đó, ông di chuyển khắp Diệp quốc, lên thủ đô nước này rồi gặp gỡ nhiều bạn bè, người quen, được giới thiệu qua nhiều nơi. Nhưng công việc chẳng hề tiến triển. Không cá nhân hay tổ chức nào biết Lập Hoa Thôn Cơ – thành viên Ngũ Pháp Sư – đang ở đâu, và dĩ nhiên họ cũng không tìm được bất cứ thành viên Ngũ Pháp Sư nào khác. Họ chỉ tồn tại trong lời đồn, vài tập hồ sơ, vài câu chuyện kể; mà những thứ cần thiết nhất để tìm một người như thẻ căn cước, nhóm máu, nhân thân, địa chỉ nhà ở, số điện thoại, hòm thư điện tử đều không có. Thất vọng, ông học giả quay về xuất phát điểm là Câu Nguyệt thành. 

Ngay lúc này, Đa Lạt cảm thấy rối. 

Nhờ vả một thành viên Ngũ Pháp Sư đứng ra giải quyết bất đồng giữa Băng Hóa quốc và Ẩn Lý Thị là ý tưởng hay, nếu không muốn nói là giải pháp tuyệt vời nhất. Nhưng nó cũng viển vông và phi thực tế nhất. Tốn thời gian theo đuổi một thứ như vậy, ông học giả tự trách mình ngốc nghếch. Thời hạn một tháng mà đại thống lĩnh Khai Y đặt ra sắp hết, còn ông học giả vẫn chôn chân tại chỗ. 

Trong mắt nhiều người, nhất là những ai nằm ngoài giới chiến binh, thì đám Bảy Người Mạnh Nhất hay Thập Kiếm chỉ là một lũ cô hồn của thế giới ngầm. Nhưng Ngũ Pháp Sư thuộc phạm trù khác. Họ được tôn trọng hơn các đại thánh sứ, được toàn thể người Tâm Mộng thừa nhận, không bị chi phối, không bị ai hoặc quốc gia nào quản lý. Là những người đại diện năm nguyên tố hình thành thế giới, Ngũ Pháp Sư luôn đối xử công bằng. Có một thời gian dài, họ là quan tòa giải quyết các tranh chấp lớn nhỏ. 

Nhưng đó là chuyện cũ, cũ đến mức đóng bụi thành tảng dày cui và có thể bay phất phơ trước gió. Ngũ Pháp Sư đã biến mất. Dường như vì quá chán nản nên năm vị quan tòa bỏ đi, mặc cho con người Tâm Mộng tự giải quyết với nhau. Và quả thực từ khi họ biến mất, thế giới hết ngập lún trong vũng sình Chiến Tranh Tài Nguyên lại bì bõm với mớ bòng bong chạy đua vũ trang. Trong một may mắn với xác suất xuất hiện một trên hàng triệu, Đa Lạt sẽ gặp thành viên Ngũ Pháp Sư, nhưng ông không chắc có thể thuyết phục họ. Kinh nghiệm cho ông học giả biết rằng rất khó để lay chuyển những người đã buông bỏ. 

Đa Lạt còn hơn hai tuần để trả lời đại thống lĩnh Khai Y. Hoặc ông trả lời, hoặc Vô Phong sẽ trở thành vật tế thần. 

Khốn nỗi hai tuần cuối cùng của Đa Lạt cũng chẳng yên bởi ông bị một cái đuôi lẵng nhẵng bám riết: Tiểu Hồ. Cô nàng kỳ quặc đó theo chân Đa Lạt từ thư viện, dinh thự Ẩn Lý Thị tới quảng trường thành phố. Tuy không kè kè như hình với bóng song Tiểu Hồ luôn để ông học giả nhận ra mình. Cô nàng cố tình khiêu khích. Có lúc Đa Lạt tức điên, dọa rằng sẽ kiện tụng rồi nhờ Băng Hóa quốc can thiệp nhưng cô ta chẳng thèm sợ, thậm chí nhe nhởn hơn trước. 

Tới khi không chịu nổi nữa, một ngày nọ, ông học giả hẹn gặp Tiểu Hồ ở một tiệm trà trong thành phố. Không chào hỏi, không mời mọc, ông học giả nói chuyện thẳng thắn:

-Cô đang can thiệp quyền riêng tư cá nhân, cô gái. Cô cũng xâm phạm công việc của Băng Hóa quốc. Bởi vì cô là con nuôi đại thánh sứ Tây Minh, nên tôi trân trọng thông báo đây là lời cảnh cáo cuối cùng. Nếu xảy ra việc tương tự, tôi sẽ nhờ Băng Hóa can thiệp. 

Đa Lạt không hù suông. Giọng ông đã trầm xuống, lời lẽ rành mạch như khẳng định mình sẽ làm thật. Phía bên kia làn khói nước trà, Tiểu Hồ im lặng ít phút, cô nàng biết sự chịu đựng của Đa Lạt đã chạm ngưỡng. Nhưng thay vì xin lỗi chân thành, Tiểu Hồ cười:

-Tôi đến với lời đề nghị nhưng ngài học giả không cho tôi nói cũng không chịu nghe. Nếu hôm nay là lần cuối cùng ngài cảnh cáo tôi, vậy tôi cũng muốn trình bày đề nghị của mình, chấp nhận hay không tùy ngài quyết định. Nhé? Đồng ý nhé?

Đa Lạt không rõ cái “đồng ý” của cô nàng là đồng ý cái gì. Ông học giả suy nghĩ thận trọng, sau trả lời:

-Thử nói xem, tôi sẽ xem xét. 

-Cảm ơn! – Tiểu Hồ cúi đầu – Thế này, tôi biết ngài đang tìm kiếm thành viên Ngũ Pháp Sư, cụ thể là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, người nắm giữ nguyên tố “Mộc”. Ngài không cần phản đối vì tôi biết rõ những nơi ngài đến, những tài liệu ngài xem, những đầu mối mà ngài lần tìm. Tất cả đều dẫn tới nữ pháp sư Thôn Cơ. Tôi có thể…

-Khoan đã! – Đa Lạt giơ tay – Cô theo tôi suốt mấy tuần đấy à? 

Tiểu Hồ nhún vai:

-Không, thưa ngài, vì tôi cũng bận việc riêng. Chỉ là ở Diệp quốc này, tôi có bạn bè và nguồn thông tin tốt. 

Đa Lạt cứng mặt như bị dội gáo nước lạnh. Tiểu Hồ uống trà rồi quay đi chỗ khác, tránh những tia nhìn hình viên đạn từ ông học giả. Hai người im lặng khá lâu. Thấy tình hình đã dịu hơn một chút, Tiểu Hồ tiếp lời:

-Tôi sẽ giúp ngài tìm nữ pháp sư Thôn Cơ. Đổi lại, tôi muốn biết chuyện giữa ngài và Vô Phong. Ngài cũng không cần phủ nhận vì hôm đó, hôm mà chúng ta lần đầu gặp nhau, tôi đã biết ai gọi cho ngài. Tôi làm việc với Vô Phong đã lâu nên biết tính anh ấy, kể cả thói quen hét vào bộ đàm khi gặp nguy hiểm. Tôi, ngài, chúng ta trao đổi và cùng giúp đỡ nhau. Có vấn đề gì không? 

-Nhiều thập kỷ qua, hàng chục quốc gia rồi hàng nghìn người tìm kiếm Ngũ Pháp Sư nhưng không có kết quả… – Đa Lạt cười nhạt – …cứ cho rằng cô nhiều bạn bè và nhiều nguồn thông tin, vậy nó tốt hơn hệ thống tình báo quốc gia không? Cô lấy gì đảm bảo bà Thôn Cơ còn sống? Tôi biết một chút về Thôn Cơ. Trước khi trở thành người nắm giữ nguyên tố “Mộc”, bà ấy là một pháp sư tập sự và là một người – bình – thường. Không phải dòng dõi danh giá, càng không thừa hưởng đặc tính trẻ lâu hay sống thọ. Giờ đây, nếu còn sống, bà ấy đã gần một trăm tuổi. Và nếu sống, liệu bà ấy còn minh mẫn để nghe người khác nói? 

-Tôi có thể tìm Thôn Cơ cho ngài. – Tiểu Hồ quả quyết – Giờ đây tôi không mang theo bất kỳ bằng chứng hay vật làm tin nào, vì cơ bản là… không có. Nhưng tôi chắc chắn ngài sẽ gặp bà ấy. 

Đa Lạt cười nhạt. Ông học giả nhấp ngụm trà, cài lại cúc áo khoác trước lúc rời đi:

-Nhiều người từng nói với tôi như thế, cô gái. Nhiều người từng nói thế với tôi. Sau nhiều năm làm nghề điều phối, tôi nhận ra rằng thứ bảo hiểm nói miệng kiểu đó chẳng dẫn tới đâu cả. Trên thế giới này chỉ duy nhất đại thánh sứ Tây Minh có thể dùng lời nói để bảo đảm. Tiếc thay, Tây Minh đã mất, còn cô chỉ là con nuôi đại thánh sứ chứ không phải ngài ấy. Đừng bám theo tôi nữa, cô gái, đây là lời cảnh cáo cuối cùng. Tạm biệt!

Mặc cho Tiểu Hồ nài nỉ, ông học giả quyết không mềm lòng. Ông muốn giúp tên tóc đỏ Vô Phong nhưng đây là chuyện hoàn toàn khác. Bởi lẽ Đa Lạt là người Băng Hóa quốc và không thể đem bí mật quốc gia làm hợp đồng đổi chác. Tiểu Hồ không biết và cũng không hiểu chuyện này. Ông không trách cô gái tóc vàng. Cô ta đã quen cuộc sống lẫn cách hành xử ở giới chiến binh, nghĩ rằng mọi thứ có thể giải quyết thông qua thương lượng. Nhưng ở nơi “cao tầng” như đại thống lĩnh Khai Y hay Ẩn Lý Thị, thương lượng chỉ là một phần vấn đề, còn hàng trăm vấn đề khác mà Tiểu Hồ chẳng bao giờ hiểu. Đa Lạt thở dài. Các cô gái trẻ thường tự tin thái quá vào bản thân họ. 

Dăm ngày sau, ông học giả nhận ra Tiểu Hồ đã thôi bám đuôi mình. Thỉnh thoảng hai người gặp nhau ở dinh thự Ẩn Lý Thị, gửi lời chào hỏi rồi đường ai nấy đi. Không còn bị quấy rối, Đa Lạt thoải mái hơn hẳn như thể vừa chọc vỡ một bọc mủ đã sưng phồng lâu ngày trên đầu ngón chân. 

Ông học giả vẫn tiếp tục công cuộc truy tìm Ngũ Pháp Sư. Cho tới sáng ngày 30 tháng 4, Đa Lạt bất ngờ nhận được cuộc gọi từ đại thống lĩnh. Còn hơn một tuần mới đến thời hạn chót, ông học giả không hiểu tại sao Khai Y liên lạc lúc này. Linh tính mách bảo ông rằng đây sẽ là một cuộc trò chuyện khó chịu. 

“Anh bạn tròn vo đấy hả? Khỏe chứ?! Tôi đây. Cậu đàm phán với Ẩn Lý Thị thế nào? Vẫn chưa tiến triển gì à? Cũng phải thôi, họ không đời nào buông tha Mục Á. Nhưng cậu cũng không cần phải đàm phán với Ẩn Lý Thị nữa. Gã tóc đỏ Vô Phong bị lộ rồi, bọn “bốc mả” của Ẩn Lý Thị đang trên đường tiến về Vương Quốc Cũ. Có kẻ nào đấy đã chỉ điểm, hoặc chính gã tóc đỏ ngu ngốc vô tình để lại dấu vết…” 

Đa Lạt điếng người, sau đáp:

-Thật sao? Vậy ngài hãy ngăn chặn đám “bốc mả” đó! Tôi sẽ đàm phán với Ẩn Lý Thị. 

“Vô ích thôi!” – Khai Y trả lời – “Nhiều ngày trước, chúng mở tài khoản ngân hàng thu thập mọi nguồn tin, đến sáng nay thì đóng tài khoản. Chỉ có một câu trả lời là chúng đã tìm ra mục tiêu. Bọn “bốc mả” làm việc kín kẽ, không dễ tìm ra chúng. Vả lại nếu can thiệp thì chẳng khác nào tát vào mặt Ẩn Lý Thị. Chúng ta mất mười năm xây dựng quan hệ với họ, không thể để mười năm đó thành công cốc.”

-Nhưng ngài cũng không thể bỏ mặc anh bạn tóc đỏ! – Đa Lạt nhắc nhở – Ngài đã hứa sẽ bảo vệ cậu ta, ngài hứa bằng danh dự và dưới sự chứng kiến của tôi[1]. Tôi là người điều phối, tôi cần các bên tôn trọng hợp đồng!

Ông đại thống lĩnh cười:

“Dĩ nhiên rồi, anh bạn tròn vo! Dĩ nhiên tôi bảo vệ tóc đỏ nhưng cũng không thể ngăn cản Ẩn Lý Thị. Họ báo thù vì lý do chính đáng. Cứ để họ đến, tôi sẽ có biện pháp xử lý. Cậu hết việc rồi, nghỉ ngơi và du lịch đi! Diệp quốc đẹp lắm! Tôi đã sắp xếp cho cậu nghỉ ba tháng. Cứ thoải mái nhé! Tạm biệt!”

Khai Y dập máy, không để ông học giả nói thêm lời nào. Đa Lạt hiểu rằng mình vừa bị đẩy ra rìa. Khai Y đã bắt đầu cuộc chơi riêng và không muốn ông học giả gây cản trở. Là bọn “bốc mả” thu thập được thông tin? Là Vô Phong bị bán đứng? Hay chính Khai Y bán đứng tên tóc đỏ? – Đa Lạt nhăn trán với những khả năng. Nhưng đoán già đoán non chẳng ích gì, vai trò của Đa Lạt đã hết. Ông hiểu con người Khai Y; đó là một tập hợp phức tạp gồm nhiều mảng màu trắng đen trộn lẫn nhau, tùy từng lúc mà màu trắng hoặc màu đen chiếm thế chủ đạo. Ông học giả sẽ chẳng dại gì đụng vào mấy mảng màu đen đó. Dù gì ông cũng là người Băng Hóa, một gã tóc đỏ không thể so sánh với quốc gia. 

Nhưng kể từ lúc ấy, tâm trí Đa Lạt dần lợn cợn, giống một khối băng đang nằm trên đống lửa cháy âm ỉ. Nghề nghiệp ảnh hưởng nhân cách, Đa Lạt cũng không ngoại lệ. Bản năng nghề nghiệp nhắc nhở ông rằng Khai Y đang vi phạm hợp đồng. Nó khiến ông khó chịu. Đa Lạt càng khó chịu hơn khi bị sợi dây “trách nhiệm quốc gia” cuốn chân. Lòng trung thành với Băng Hóa quốc không cho phép ông trung thực với nghề nghiệp. 

Chiều cùng ngày, ông học giả thơ thẩn dạo chơi thành phố. Ông không rõ mình đi đâu hay nhắm đến nơi nào. Đi mãi rồi quanh quéo thế nào, cái sự bối rối chỉ lối cho ông đến một khách sạn. Tại đây ông gõ cửa một căn phòng, chờ đợi với tâm trạng lẫn lộn nửa muốn đi về nửa muốn ở lại. Được ít phút, cửa phòng mở cùng gương mặt Tiểu Hồ. Cô gái tóc vàng ngơ ngác:

-Ngài học giả?! Sao ngài biết tôi ở đây?

Đa Lạt chưa trả lời vì tâm trí còn lừng khừng chưa quyết. Cuối cùng, ông mở lời:

-Tôi cũng có những người bạn và nguồn tin tốt, thưa quý cô. 

Bị châm chọc, Tiểu Hồ nhoẻn miệng cười. Hai người đối diện nhau trong im lặng, người này đợi người kia mở lời. Ai mở lời trước, người đó nằm chiếu dưới. Sau rốt Đa Lạt chấp nhận làm kẻ thua cuộc:

-Hãy tìm pháp sư Thôn Cơ, nếu cô tìm được, tôi sẽ xem xét đề nghị…

-Không cần đâu! – Tiểu Hồ lắc đầu – Tôi đã tìm thấy bà ấy rồi. 

Đa Lạt mở lớn mắt. Người Phi Thiên là một giống dân kỳ lạ. Họ không dũng cảm bằng người phương bắc, không sâu sắc như người phương đông và chẳng cao quý giống người phương nam. Nhưng họ luôn gây bất ngờ. 

Từ khách sạn, Đa Lạt theo chân cô gái trẻ tới một thị trấn ở ngoại ô Câu Nguyệt thành. Nơi ấy có những ngôi nhà nhỏ nằm trong tường rào đá xám nâu, những con phố thanh bình khuất bóng dưới tán cây chìa ra từ các khu vườn tư nằm kế bên. Và mấy con mèo. Lũ mèo ở đây dạo chơi tự do, hoặc ườn mình ngủ trên bờ rào và chẳng quan tâm con người. Ông học giả ngạc nhiên vì Thôn Cơ chẳng ở đâu xa xôi, hóa ra lại ngay trước mắt. 

Hai người dừng chân trước một ngôi nhà nằm tại lưng chừng thị trấn. Đón tiếp họ là một cô gái nhỏ nhắn, trẻ tuổi, đầy sức sống nhưng vẫn giữ những truyền thống của phụ nữ Diệp quốc ở trang phục và lối cư xử nền nã. Cô gái dẫn Đa Lạt và Tiểu Hồ vào căn bếp. Ông học giả được phen ngã ngửa khi gặp lại bà chủ quản thư viện thành phố. Là bà già khó tính, ưa phàn nàn, mắt mờ, chân chậm đó. Là bà ta chứ không phải ai khác. Bà già chẳng lấy làm vui vẻ, bởi dường như vụ khách khứa đã cắt ngang thú vui ôm ấp xoa bụng lũ mèo của bà. Như hiểu chuyện, Đa Lạt cúi đầu vồn vã:

-Rất hân hạnh được gặp mặt, thưa bà. Tôi là Đa Vu Lạt, học giả đến từ Băng Hóa quốc. Bà là Thôn Cơ, thành viên Ngũ Pháp Sư?

Ông học giả chìa tay nhưng bà già không bắt lấy. Có vẻ bả không thích chuyến thăm viếng đường đột này của Đa Lạt. Như nhận ra thái độ bất lịch sự ấy, cô gái trẻ người Diệp quốc liền ghé tai nhắc nhở bà ta, mời Đa Lạt ngồi sang phòng khách rồi mang lên trà bánh. Trông cách đối xử ân cần mà cô gái dành cho bà chủ quản thư viện, Đa Lạt đoán hai người có quan hệ ruột thịt. Ông có nghe pháp sư Thôn Cơ từng kết hôn, nên cô gái trẻ đây dường như là cháu gái. 

-Ta nghe con bé này nói chuyện mấy ngày trước rồi. – Bà già chỉ vào Tiểu Hồ đang tủm tỉm cười – Ta không thích cái tên “Thôn Cơ”, đừng nhắc lại lần nào nữa. Nào, nói xem, anh học giả, anh muốn gì ở Ngũ Pháp Sư?

Ngay giờ phút này, Đa Lạt không chắc bà già có phải Thôn Cơ hay không. Thậm chí ông vẫn có chút nghi ngờ Tiểu Hồ lừa dối mình. Nhưng trên hết, ông muốn hợp đồng được tôn trọng và ngăn Khai Y giở trò đổi chác, dẫu biết mình đang dấn sâu vào nguy hiểm. Trước bà chủ quản thư viện, Đa Lạt kể mọi sự về Mục Á, Băng Hóa quốc lẫn Ẩn Lý Thị. Nghe xong, bà già làu bàu:

-Vậy tóm lại, anh muốn phân xử tranh chấp? Anh muốn đưa di hài Mục Á về Băng Hóa quốc? 

-Thưa, đúng là như vậy! – Đa Lạt cúi đầu – Ngoài ra, tôi muốn Ẩn Lý Thị dừng việc báo thù. Cái chết của Mục Á là tai nạn. Việc báo thù sẽ chẳng dẫn đến đâu cả. Mong bà giúp tôi khuyên giải Ẩn Lý Thị. 

Bà già trầm tư. Có lúc Đa Lạt cảm giác mình sắp bị đuổi ra khỏi cửa và trở về trong thất vọng tràn trề. Rồi bà chủ quản thư viện cất lời:

-Chuyện phức tạp nhưng nên làm. Ta không ưa Băng Hóa. Các người là một lũ máu lạnh, man rợ và gian trá. Nhưng việc này… có vẻ các người đúng! 

-Vậy bà sẽ giúp? Bà là Thôn Cơ của Ngũ Pháp Sư? – Đa Lạt cả mừng. 

-Không, ta không thích cái tên “Thôn Cơ”, đó là tên của mẹ ta! Cái tên đó chỉ đem lại phiền phức! – Bà già gắt gỏng – Ta không can dự gì cả! Anh hãy làm việc với bà ấy, đừng phiền ta nữa!

Dứt lời, bà già rời ghế, lệnh khệnh quay lại gian bếp và chơi với lũ mèo. Đa Lạt thực tình không hiểu mình bị đuổi hay được chấp thuận yêu cầu. Giữa lúc ấy, cô cháu gái của bà chủ quản thư viện ngồi đối diện với ông học giả đoạn cất lời:

-Xin lỗi ông, con gái tôi tính khí không tốt. Nó vẫn thường như thế lúc nhỏ, giờ gánh nặng tuổi già khiến nó thường xuyên khó chịu. Là lỗi của tôi. 

-Cái gì? Sao cô lại gọi bà ấy là “con gái”? – Đa Lạt đứng hẳn dậy, giọng thảng thốt – Không lẽ cô là…?

Cô gái trẻ cúi đầu cười:

-Không dễ gì chứng kiến con gái già cỗi bệnh tật, còn bản thân mình vẫn nhởn nhơ trước thời gian lẫn Tử Thần. Con gái là sợi dây cuối cùng liên kết tôi với thế giới này. Nó có thể là bà già cay nghiệt nhưng vẫn còn trái tim nhân hậu, còn tôi giữ được dung mạo trẻ tuổi nhưng bên trong đã thối rữa. Ông thật may mắn, ông tới đúng lúc con gái tôi đang sống nốt những năm tháng cuối cùng và tôi cũng sắp sửa biến mất hoàn toàn khỏi cõi đời. Hãy nói đi, ông học giả, trước khi tôi đổi ý. 

Đa Lạt há hốc miệng. Tuy không tham lam cuộc sống nhưng ông cảm ơn Vạn Thế đã cho mình sống đúng thời gian này để chứng kiến những chuyện lạ. Từ ngày đại thánh sứ Tây Minh qua đời, thế giới Tâm Mộng chẳng còn nhiều mảng màu đẹp đẽ.



Cùng lúc ấy, cách hàng ngàn cây số về hướng tây bắc, Vô Phong đang cặm cụi đào bới tàn tích Vương Quốc Cũ. Xung quanh hắn, từng phần kết cấu của một cung điện cổ xưa lộ ra dưới ánh đèn pin nhập nhoạng cùng nhiều thỏi sáng lân tinh. Hết thảy đều nứt vỡ và dính đầy tuyết, họa may có mái trần lộ ra vài dáng hình thuở xưa. Thay vì tác phẩm hội họa hoặc các đường nét hoa văn thường thấy, người xưa trang trí mái trần bằng nhiều vòng tròn lẫn ký tự lớn. Những ký tự dài, nhỏ và thanh mảnh, tựa thể được phết phẩy từ ngòi bút lông chim. Vương Quốc Cũ từng thờ phụng rất nhiều vị thần, bao nhiêu ký tự là bấy nhiêu bậc thần thánh. Nhưng thần nào thì chẳng ai biết, kể cả những học giả uyên bác nhất cũng khó trả lời. Người Vương Quốc Cũ không biểu thị thần thánh của mình bằng ngẫu tượng hay hình ảnh cụ thể. 

Hơn một tuần trước, bọn Vô Phong khởi hành từ trại chăn nuôi gia súc. Dựa theo công thức tính toán của giáo sư Đốc Lãm, họ ngược lên phía bắc, đi một đường thẳng tuốt qua vùng đồng bằng tuyết. Sau ba ngày, họ đặt chân đến vùng Tàn Tích Lớn – một tổ hợp thành trì cổ án ngữ toàn bộ phía bắc miền đất hoang vu. Vương Quốc Thịnh Vượng khi xưa khởi phát từ chốn này, các triều đại cũng thay nhau đóng đô tại đây cho tới ngày sụp đổ. Hai phần ba Tàn Tích Lớn chìm dưới tuyết hoặc hồ băng, phần còn lại nổi lên với dáng vẻ xiêu vẹo đổ gãy. Nhóm Vô Phong hiện đang tìm kiếm ở khu vực nổi. Dù đã thâm nhập nhiều phòng ốc, công trình nhưng họ vẫn chưa tìm thấy di cốt Biệt Liên Đa Xuyến.

Mỗi người trong đám Vô Phong chia nhau một khu vực, hì hụi cào tuyết bằng xẻng và cuốc đa dụng. Họ làm cẩn thận, tránh lưỡi xẻng mũi cuốc va chạm di cốt nhưng cũng khẩn trương, tránh rề rà. Bên cạnh tên tóc đỏ, ông giáo sư Đốc Lãm thao thao bất tuyệt:

-Tất cả đều dẫn về đây, anh bạn ạ! Tôi đã làm nốt những phép tính còn dang dở từ nhiều năm trước. Chúng đều chỉ ra Tàn Tích Lớn là nơi xuất hiện các dấu hiệu biến đổi địa chất đầu tiên, từ đấy lan ra toàn bộ Vương Quốc Cũ. Máy móc ghi lại rằng sự thay đổi này vẫn đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ! Điều này rất bất thường, anh bạn ạ! Vương Quốc Cũ được bao bọc trong băng giá và mùa đông vĩnh cửu, nó chẳng hề thay đổi sau hàng ngàn năm và nếu có, cũng sẽ diễn ra sau hàng ngàn năm nữa. Lý thuyết khoa học là thế! Nhưng lạ thay, hơn năm mươi năm trước, Tàn Tích Lớn thay đổi! Phải có một tác động lớn lắm, anh bạn ạ, tác động rất lớn mới gây ra sự thay đổi!

Vô Phong có một ông bạn lắm mồm thích khoe khoang kiến thức, nên gặp Đốc Lãm thì chẳng lấy làm khó chịu. Nghe mãi, hắn bèn hỏi:

-Thay đổi thế nào? 

-Trước đây, nước ngập hai phần ba Tàn Tích Lớn, nhưng bây giờ chỉ ngập một nửa. Các dòng sông băng hoặc suối trước đây vốn chiếm phần lớn diện tích Vương Quốc Cũ, nay hạ thấp mực nước, một số nơi cạn khô như con suối mà chúng ta từng bắt gặp trong rừng[2]. Vì lẽ đó, các loài động vật thay vì sống thoải mái trong rừng thì phải ra vùng đồng bằng nhiều hơn để tìm nguồn nước, kéo theo bọn thú ăn thịt. Cậu thấy đấy, gần đây người ta đi lại trong rừng Vương Quốc Cũ thoải mái hơn. Còn trước kia? Vào là chết! Vả lại, chắc cậu biết văn hóa phương bắc coi nguyên tố “Thủy” thường mang lại điềm xấu[3]. Người ta vẫn nói vô số hồn ma Vương Quốc Cũ vẫn lẩn quất dưới sông, suối. Nay nước rút, chẳng phải đám ma mãnh hết chỗ quậy phá à? 

Vô Phong gật gù. Tính toán của ông giáo sư trùng hợp với dự đoán của hắn rằng Mục Du Cổ đã chôn mẹ mình tại nơi có ý nghĩa. Tàn Tích Lớn từng là chốn huy hoàng nhất thời cổ xưa, cố nhiên rất thích hợp. Nhưng tìm một bộ di cốt bé nhỏ tại nơi rộng lớn này không phải chuyện dễ. 

Sau nhiều tiếng đào bới, cả nhóm nghỉ ngơi ăn trưa. Giữa bữa ăn, ba người nữa xuất hiện và nhập hội với bọn họ. Hai trong số ấy là thành viên đánh thuê Đội 11 gồm Lạn Bà và Vong Liêm[4]. Trở về từ chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, hai gã đánh thuê chẳng thay đổi nhiều. Lạn Bà vẫn vóc dáng gầy đét lọt thỏm trong quần áo rộng thùng thình, Vong Liêm vẫn cái đầu trọc không cọng tóc cùng cặp mắt to thô lố. Người còn lại không ai khác ngoài con cú vọ bốn mắt Mai Hoa. 

Khác nhóm Vô Phong, ba người nhóm Mai Hoa làm nhiệm vụ thám thính, thăm dò và cảnh giới. Tàn Tích Lớn nhiều năm nay khá “nhộn nhịp”, bắt gặp một đoàn nghiên cứu khoa học, nghiên cứu khảo cổ hoặc dân “cạy nắp” không phải chuyện lạ. Đám “cạy nắp” liều lĩnh, dễ tấn công người khác hòng cướp cổ vật. Bọn Mai Hoa đề phòng những kẻ như thế. 

-Quanh đây có hai nhóm khảo cổ, họ mang theo vệ sĩ và vũ khí, nhưng không nguy hiểm. – Mai Hoa nói với Vô Phong – Dù vậy, tôi vẫn sẽ cảnh giác. Hi hi! Sao mà tin người dễ dàng được chứ? Đùa thôi! Tìm gì thì tìm, nhanh lên!

Cái cách Mai Hoa thúc giục làm tên tóc đỏ nghi ngờ. Gã bốn mắt xưa nay chậm rãi, khai thác thông tin hoặc làm việc tỉ mẩn từng chút một. Nhưng lần này, trong lời nói của gã hàm chứa sự khẩn trương nhất định. Vô Phong đoán rằng gã cú vọ đã ngửi được điều gì đó, bất quá hắn không truy vấn. Nếu Mai Hoa không giải thích thì hẳn rằng gã không muốn giải thích ở chỗ đông người. 

Sau bữa trưa, cả nhóm lăn ra ngủ trước khi bắt đầu cuộc đào bới ban chiều. Mai Hoa mò ra chỗ Vô Phong xin lửa hút thuốc. Gã cú vọ vừa phì phèo khói vừa nói, giọng thì thào:

-Cậu đã nghe chuyện lũ “bốc mả” từ Đông Thổ mở tài khoản nhỉ? Phải, chúng đang săn lùng cậu. Biết gì chưa? Chúng đóng tài khoản rồi. 

-Chúng tìm được tôi rồi à? – Vô Phong nhíu mày. 

-Không chắc. Không ai biết chuyện gì xảy ra cả! – Mai Hoa lắc đầu – Nhiều khả năng chúng bị giết hơn. Dân phương bắc vốn chẳng ưa lũ “bốc mả”, nay chúng mở tài khoản công khai, họ sẽ tìm cách tiêu diệt chúng. Nhưng còn một khả năng, phải, nếu chúng tìm được mục tiêu, chúng sẽ đóng tài khoản. Vậy nên tôi mới giục cậu. 

Vô Phong gật gù, ngoài mặt không cảm xúc, thâm tâm có một tí gợn song không nhiều. Nghe riết về lũ sát thủ, hắn đâm chán và muốn đụng độ chúng thật nhanh để giải quyết mọi mâu thuẫn. Nếu Vô Phong chết thì đấy là cái nợ mà thần Nê Mê bắt hắn phải trả; nếu không, tức là nữ thần báo thù cho tên tóc đỏ sống tiếp để trả những khoản nợ khác. 

-Nếu lũ “bốc mả” tìm ra cậu, tức là ai đấy trong chúng ta là nội gián. Cậu có thể che tóc đỏ… – Gã cú vọ nhướn mắt nhìn mái tóc nhuộm đen của Vô Phong – …nhưng không thể giấu khuôn mặt, trừ phi phẫu thuật thẩm mỹ. Cậu nổi tiếng từ vụ chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, ông giáo sư Đốc Lãm hay mấy gã lạ mặt kia sẽ sớm biết cậu là ai, hoặc có khi họ biết rồi cũng nên. Hồi chiến tranh, nếu cậu cứ hoàn thành nhiệm vụ đánh thuê và không giúp đỡ đám dân Tuyệt Tưởng nhiều, rắc rối đã không nhiều như bây giờ.

-Ý ông bạn là không nên giúp đỡ người khác? – Vô Phong hỏi.

-Ai biết đấy?! Con người thời nay lạ lắm, họ không thích chịu ơn và căm ghét những kẻ mang ơn. Ai nấy đều ghét nợ và đều thích quỵt nợ. – Mai Hoa cười – Cậu giúp nhiều, cho vay nhiều, rồi cậu sẽ thành con nợ lớn nhất thôi. 

Hai gã đương nói chuyện, chợt một giọng thất thanh vang lên:

-Có ai không? Xin giúp chúng tôi!

Vô Phong rọi đèn pin về hướng phát ra âm thanh, phát hiện ra một người đàn ông đứng tuổi. Nhìn dáng điệu hớt hải lẫn khuôn mặt vã mồ hôi của ông ta, Vô Phong đoán người này đã vượt một quãng đường tối thui, dài dằng dặc và đầy chướng ngại trong Tàn Tích Lớn. Hắn lên tiếng:

-Chuyện gì thế? Tôi giúp gì được cho ông?

-Tôi thuộc đoàn khảo cổ! – Người đàn ông vội vã trả lời – Người của tôi bị kẹt dưới hố nước! Chúng tôi không thể kéo anh ấy lên! Xin hãy giúp đỡ!

Mai Hoa xác nhận người đó đúng là thành viên nhóm khảo cổ mà gã đã gặp hồi sáng. Nghe vậy, tên tóc đỏ liền khoác vài vật dụng cần thiết rồi bước theo người đàn ông nọ. Gã cú vọ nhăn trán:

-Cậu lại tiếp tục mang nợ vào người đấy à? 

-Ai biết đấy?! – Tên tóc đỏ nhún vai – Nhưng yên tâm đi, tôi trốn nợ giỏi, trả nợ còn giỏi hơn! He he!



Trong lúc Vô Phong giúp nhóm người khảo cổ thì xa tít về phía nam, tại khu trại gia súc mà hắn từng nghỉ chân, lão chủ trại đang đón tiếp những vị khách lạ. Đám này gồm bốn người, hai nam hai nữ, gương mặt họ đặc rặt những đặc trưng của người phương đông như cái mũi nhỏ, tròng mắt nâu vàng hay mái tóc đen. Họ không thuê phòng, không mua lương khô cũng chẳng mua đồ đạc thiết yếu. Họ cần thông tin.

-Ông nhìn thấy gã này chưa? – Một người trong số đó chìa bức ảnh lên bàn cùng một cọc tiền bó tròn – Hắn đã đi đâu? 

Lão chủ trại nhìn bức ảnh, nhận ra ngay vị khách hồi tuần trước. Lão nhìn bó tiền, cười nhạt:

-Chuyện ai nấy lo, ta không quan tâm. 

Gã đàn ông Đông Thổ nhíu mày, sau đặt thêm bốn cọc tiền nữa. Lão chủ trại lắc đầu. Gã đàn ông Đông Thổ quắc mắt:

-Tham quá không tốt đâu, ông già. 

Lão già luồn tay xuống, sẵn sàng bóp cò khẩu súng gắn dưới gầm bàn và vẫn nở nụ cười nhạt thếch:

-Ở đây thì đừng bố láo, con trai! Đây là Vương Quốc Cũ, không phải vùng đất xanh mơn mởn bên phương đông của chúng bay đâu! Bọn phương đông chúng bay hay rêu rao “nhập gia tùy tục”, giờ cố tình không hiểu, phỏng? 

Đám người Đông Thổ nhìn nhau. Họ châu đầu bàn bạc, sau đấy đặt lên bàn một bình rượu. Trông thấy rượu, ông chủ trại sáng rực mắt, hít hửi một hồi rồi làu bàu:

-Chúng nó đi lên phía bắc! Chắc thế! Xong chưa? Xong rồi thì biến đi! 

Nghe vậy, bốn người Đông Thổ khởi hành ngay lập tức. Lão chủ trại vơ bình rượu lẫn đống tiền đầy ụ. Vương Quốc Cũ chẳng bao giờ sáng sủa, chỉ có những mảng màu tối của mùa đông vĩnh cửu. Người sống ở đây lâu, rốt cục cũng hòa vào miền đất hoang vu. Lão chủ trại chẳng thoát khỏi quy luật đó, chỉ còn biết lấy rượu hòa loãng thứ màu sắc tăm tối vốn đã xâm thực linh hồn mình.

[1]: xem lại Quyển 4 – Dao găm: Chương 8
[2]: xem lại Quyển 4 – Dao găm: Chương 11
[3]: xem lại Quyển 4 – Dao găm: Chương 8
[4]: hai thành viên Đội 11, xem lại Quyển 3 – Chương 78 
Ngẫu tượng: một danh từ cổ, hàm nghĩa rất rộng, có thể hiểu là sự sùng bái một cá thể, một vật gì đó, một hiện tượng gì đó, một thứ gì đó hay một biểu tượng siêu hình