Ngược Về Thời Minh

Chương 462-2: Thiên binh (2)




- Ô…ô ô.

Tiếng kèn hiệu kéo dài.

Theo tiếng kèn hiệu hùng hồn ngân nga, trên thảo nguyên xa xa, vô số chấm đen nhỏ tụ hợp dày đặc qua đây từ bốn phương tám hướng, dần dần hình thành một đường thẳng hung ác như cuồng triều vội vã ập vào đại quân của Dương Lăng một cách mãnh liệt, hung tợn.

Đại quân Bá Nhan Mãnh Khả nhào thẳng đến quân đội Dương Lăng còn chưa đứng vững nữa.

Quân đội của ông ta giao chiến nhiều lần với đại quân của Hồng Nương Tử ở Hốt Lan Hốt Thất Ôn, hai bên có thắng có bại. Nhưng sau khi đại quân triều Minh đến viện trợ, ông ta đã không thể đứng yên ở đây được nữa, cho nên nhận được tin tức viện quân của Nô Nhi Can Đô Ti đến rồi, Bá Nhan Mãnh Khả lập tức xua quân rời núi, đánh nghi binh quân đội của Hồng Nương Tử, sau đó bỗng nhiên chuyển hướng, phảng phất như loan đao cực kỳ sắc bén vẽ ra một đường cong tròn trịa cứng cáp hung hăn bổ về phía chiến trận quân Minh, điên cuồng vô cùng, bộc lộ phong mang.

Nhình theo đội kỵ binh Mông Cổ càng ngày càng gần, thanh thế kinh người, bên phía Dương Lăng vẫn duy trì sự bình tĩnh quỷ dị, hoàn toàn không có sự anh dũng và khí phách khi hai quân xung phong đối chọi với nhau. Đối diện với thiết kỵ Mông Cổ đã phát huy tốc độ và lực lượng lên đến cực điểm, xuất hiện sức mạnh kinh người khi thiên quân vạn mã tung vó, đại quân của Dương Lăng lại đứng yên bất động trên thảo nguyên, thậm chí có rất nhiều binh lính xuống ngựa, dựng lên giá hai chân, ba chân rất kỳ lạ, đặt lên đó một vật rất kỳ quái, đại đa số đều mở ra một cái hộp tròn, giống như một tán dù lớn mở ra phía trước vậy.

Một bên im lặng không tiếng động!

Một bên thì như núi gầm biển thét!

Đây là cuộc đọ sức khoa học kỹ thuật giữa dân tộc canh nông và của dân tộc du mục.

Ai thắng?

Ai bại?

Không lên tiếng thì thôi, vừa lên tiếng thì kinh người, bên um lặng đột nhiên phát ra tiếng rống giận, tiếng rống kia chính là tiếng gần của Thiên Lôi chân chính, lập tức áp đảo tiếng ngựa hí, tiếng hò hét của quân Thát Đát đang ào ào chạy đến.

Rừng thương bắn ra mưa đạn, hỏa thương đa nòng kiểu bàn xoay phụt ra khói lửa dày đặc, mưa đạn hội tụ, xé trời rít gào, chấn động hồn phách. Chúng dũng sĩ Thát Đát hung mãnh còn không nhìn thấy cả bóng dáng binh khí của đối phương thì đã bị cơn sóng mưa đạn bắn đến tan rã ra, người nghiêng ngựa đổ, người sắp chết phát ra tiếng kêu thảm thiết mà ngắn ngủi, nhanh chóng bị thiết kỵ bên mình xung phong vào thế trận không sao ngăn cản được giẫm nát, biến thành một đống phân trong thảo nguyên.

Thiết kỵ chạy như mây bay nước chảy, thế công như búa rìu xuyên tới, nhưng nếu đối phương còn sắc bén hơn ngươi gấp trăm lần, thì sẽ biến thành hung hăn đóng một cây đinh lên tấm gỗ mục nát, không đóng đên đầu rơi máu chảy mới là lạ.

Dương Lăng vẫn ngồi vững vàng trong xe, khắp nơi là tinh nhuệ biên quân nhìn ngó như sói, hung hãn cực điểm. Hai bên còn chưa tiếp xúc thực chất, thì những anh hùng thảo nguyên khiến người ta nghe tên đã sợ mất mật dưới sự công kích của mưa đạn đã người ngã ngựa đổ. Dương Lăng nhìn thấy rõ ràng có người giơ cao mã đao đột nhiên gãy từ chính giữa, nhìn thấy có người phun ra mưa máu trước ngực, nhìn thấy chiến mã hí dài một tiếng, ngã oạch xuống đất, đè chủ nhân chưa kịp rút thân ra khỏi yên ngựa đến thịt nát xương tan, hắn bất giác khẽ nhắm mắt lại.

Khẽ khoát tay lên, thị vệ bên người buông màn xuống.

Không có gì đẹp cả, càng không có hả hê đắc ý, dùng khoa học kỹ thuật tiên tiến để phá hủy lực lượng nguyên thủy tuyệt đối không phải là niềm vui khi so tài thắng lợi đối với một người đến từ nền văn minh tiên tiến. Thế nhưng lực lượng lạc hậu trước mắt lại luôn cho rằng họ mới là chủ nhân của thế giới, xem cướp đoạt là chuyện thường, dùng lực lượng để định đạo nghĩa, vậy thì chỉ có dùng bạo chế bạo, để bọn họ an phận hơn.

Gần, càng gần, sau khi trả một cái giá thê thảm, thiết kỵ Thát Đát xông đến gần, tiếp sau hỏa thương thu hoạch được rất nhiều sinh mạnh, thì lựu đạn, súng trái phá bắt đầu tạo ra rất nhiều tàn phế. Mưa tên của đối phương đã rất thưa thớt rồi, thưa thớt ít ỏi rơi trên khiên của quân Minh, tấm chắn hình dù của hỏa thương…

Lúc này trận doanh quân Minh không chút sứt mẻ, không chịu chút xung kích nào.

Sau đó, Bành Tiểu Dạng rút ra hai thanh cương xoa, hung hăn đâm vào mông ngựa, kêu lên oa nha nha một cách kỳ quái, dẫn theo đội ngũ biên quân trường thương khiên lớn rìu to lao lên. Kỹ thuật cưỡi ngựa của gã đã rất tốt rồi, võ nghệ cao cường và hỏa thương tấn công đã gây ra uy hiếp tâm lý đối với đối phương, khắp phục được sự chênh lệch vẫn còn tồn tại về mặt cưỡi ngựa.

Song xoa vung múa, dẩy hai thanh mã đao ra, cương xoa sắc bén như tuyết một nuốt một nhả, mũi đao bén nhọn biến thành hung khí máu tươi tuôn đầm đìa, trước ngực chúng kỵ sĩ Mông Cổ đối diện bị chọc ba lỗ máu, lăn lộn ngã khỏi ngựa.

Càng nhiều dũng sĩ Thát Đát bi phẫn reo hò lao đến, giống như một bầy sói ngoan cố chống cự liều mạng chém giết, đôi bên giằng co đan xen với nhau, đao quang kiếm ảnh, máu tươi tung tóe.

Một đóa mây trắng dày nặng đột nhiên che khuất mặt trời, cuộc chém giết trên thảo nguyên trở nên an u hơn, xa xa, đại quân của Hồng Nương Tử truy giết tới, tiếng kèn và tiếng reo hò long trời lở đất.

Đó là một vùng cao nguyên dốc núi, tầng mây di chuyển, ánh mặt trời di chuyển, ánh mặt trời và chân trời âm u nhanh chóng di chuyển về phía này trên đường tiên phong mà Bạch Y Quân chạy đến đây, những chiến sĩ anh dũng kia giống như là những chiến sĩ truy phong đuổi theo ánh mặt trời vậy.

Khi ánh sáng chói lóa thoát ra khỏi từng tầng từng tầng mây phản chiếu lên chiếu lên chiến trường chém giết của hai bên, những chiến sĩ đuổi theo gắt gao cũng sáp nhận vào chiến trường đao quang kiếm ảnh này, tiếng binh khí va chạm mãnh liệt, mảnh đất lớn tiếp nhận càng lúc càng nhiều vong hồn hơn…

Hồng Nương Tử chỉ kịp liếc mắt nhìn Dương Lăng một cái, một cái liếc mắt vạn lời nói, vui mừng hạnh phúc vô hạn, sau đó thúc ngựa đi qua, giục ngựa đuổi theo đào binh của Bá Nhan Mãnh Khả.

Dương Lăng tạm thời trở thành chủ nhân cùa Hốt Lan Hốt Thất Ôn, chỉ huy chúng binh sĩ trú lại tại chỗ, dọn dẹp chiến trường, mai táng thi thể, kiểm kê chiến lợi phẩm và ngựa, giam giữ tù binh vân vân.

Thành Khởi Vận kích động chạy đến, vốn định nhào vào trong lòng Dương Lăng, nhưng lại bị ánh mắt của Dương Lăng làm cho ngừng bước, ngượng ngùng một lát rồi khẽ phân phó người chiếm lĩnh các điểm cao gần đó và con đường ra vào chủ yếu, phái nhiều tầng canh gác, phái thám mã ra ca mười dặm để phòng ngừa ngoài ý muốn.

Cho đến khi tất cả mọi thứ đã sẵn sàng, đại trướng trong quân đã căng lên, Dương Lăng trở về soái trướng, Thành Khởi Vận mới cứng đầu chạy qua. Lần này nàng cũng ngẫm nghĩ rõ ràng, phỏng chừng ánh mắt trách móc của Dương Lăng không ngoài bốn chuyện:

Một là tự ý xuất binh, nhưng thực tế chứng minh nàng chủ động xuất binh là đúng. Dương Lăng không phải là người tự cao tự đại, chuyên quyền độc đoán, tám chính phần mười không vì thế mà trách nàng.

Chuyện thứ hai hẳn là trách nàng lá gan quá lớn, lại chơi giả thành thật, khi hắn khởi hành chạy về Vệ Sở lại giật dây Hồng Nương Tử đồng ý hôn sự với Nữ vương Ngân Kỳ. Theo sự hiểu biết của nàng, vị đại nhân này tám chín phần mười là phác tác tinh thần đại nghĩa. Có điều chuyện này hắn hẳn cũng sẽ chọn lắng nghe ý kiến của mình trước, sẽ không dùng ánh mắt nghiêm nghị như thế để trách móc mình sau bao ngày xa cách.

Chuyện thứ ba chính là nàng là một nữ tử yếu đuối mà dám theo quân xuất chinh, vậy thì hẳn là hàm chứa ý lo lắng nhiều hơn, cho dù tức giận cũng sẽ không nghiêm khắc như vậy.

Vậy thì…chỉ còn lại một chuyện cuối cùng: hỏa khí chưa từng đề cập đến với Dương Lăng! Xưởng chế tạo hỏa khí bí mật thuộc về Dương gia. Mà thật ra chuyện này là để Dương Lăng có chỗ dựa vào, có thể gầy dựng được thực lực của mình đủ hùng mạnh. Muốn giải thích chuyện này thì phải ngả bài bây giờ, bây giờ có phải là thời cơ thích hợp nhất không?

Thành Khởi Vận do dự.

Bá Nhan Mãnh Khả thất bại thảm hại rồi, có phải còn có cơ hội Đông Sơn tái khởi hay không, ông ta không biết. Ông ta chỉ có thể vung múa bội đao theo bản năng, dẫn theo các thị vệ trung thành tận tâm mà chém xuống xông ra ngoài.

Khắp nơi đều là quân Đại Minh và truy binh của Bạch Y Quân, Bá Nhan Mãnh Khả đã không còn sức liều mạng với tinh nhuệ của bọn họ nữa. Ông ta bị bức phải dẫn theo mấy ngàn quân còn lại giả vờ đi về phía tây, sau khi hấp dẫn được truy binh thì đột nhiên đi về phía nam, xuyên qua Vu Hồi trong vòng vây trùng trùng, phát huy đặc tính nhẹ nhàng phiêu dật, cơ động linh hoạt của khinh kỵ mà đục nước béo cò, nhảy ra khỏi sự vây giết của quân Minh và Bạch Y Quân.

Nhưng khi người ta xui xẻo thì đến uống nước lạnh cũng ê răng. Dưới sự truy bức của Bạch Y Quân, Bá Nhan Mãnh Khả cực khổ giảy dụa, thật khó khăn mới thoát khỏi Bạch Y Quân đeo bám chặt chẽ như cao da chó, lại trùng hợp đụng phải đại quân Hứa Thái ngàn dặm chạy đến ngay chính diện.

Hai bên đều người đầy mồ hôi, khôi giáp nghiêng lệch do chạy, nhưng dù sao thì đại quân của Hứa Thái cũng không trải qua đại chiến luân phiên, kỵ sĩ trên ngựa tinh thần mạnh hơn ông ta rất nhiều lần, kết quả là Bá Nhan Mãnh Khả vừa mới giãy khỏi Hồng Nương Tử lại bị rất nhiều âm hồn bất tán giống như những con quỷ treo cổ đuổi sát đánh mạnh.

Trận đánh bất lực này là trận đánh chật vật nhất trong cuộc đời của Bá Nhan Mãnh Khả. Mỗi khi ông ta cho rằng đã thoát khỏi sự truy đuổi của quân Minh, khi vừa mới ngừng lại chuẩn bị uống miếng nước thì đại quân triều Minh đông nghịt lại đánh lén tới, Bá Nhan Mãnh Khả chỉ đành nhảy lên chiến mã tiếp tục chạy trối chết.

Lòng quân, sĩ khí, ý chí chiến đấu đều tiêu tán từng chút theo cuộc truy đuổi này, bởi vì tình hình giảm quân do chết trận và chạy trốn càng ngày càng nhiều. Từ tây đến đông, từ nam đến bắc, Bá Nhan Mãnh Khã đã không còn biết nên đi đâu nữa. Ông ta chỉ chạy trốn theo bản năng, cho đến khi đại quân Hứa Thái truy kích gắt gao ba ngày, ông ta mới hoàn toàn thoát khỏi sự truy đuổi của quân Minh trong một cơn mưa thu, bởi vì cơn mưa này đã hoàn toàn xoát sạch dấu vết hành quân của bọn họ.

Buổi sáng ngày kế, mưa to đã ngừng, khi cầu vồng treo lên nơi chân trời, dưới bầu trời xanh biếc như rửa xuất hiện một lều Mông Cổ lớn. Bá Nhan Mãnh Khả râu ria dài ngoằng, hai mắt đỏ thẫm chỉ còn lại hơn ba trăm kỵ binh bên cạnh, ông ta còn chưa hiểu rõ đó là doanh trướng của bộ lạc nào, có cần qua đó ăn uống chút không, thì trong bộ lạc kia có trên ngàn chiến sĩ vung múa đao thương xông ra giết.

Đây là bộ lạc của người Ngõa Lạt, tin tức Bá Nhan Mãnh Khả bị Bạch Y Quân truy giết đến Hốt La Hốt Thất Ôn đã truyền khắp thảo nguyên, nhìn thấy kỵ binh Thát Đát chật vật không chịu nổi, người trong bộ lạc theo bản năng mà cho rằng là chiến sĩ Thát Đát tán loạn, chó rơi xuống nước ai mà không muốn đánh chứ? Tộc trưởng lập tức tập hợp dũng sĩ, xông thẳng về phía bọn họ.

Trên thực tế, nếu cờ lớn đầu sói của Bá Nhan Mãnh Khả không bị mất đi khi phá vây, thì chỉ cần lộ ra lá cờ kia thì chỉ dựa vào danh hiệu của Bá Nhan Mãnh Khả ông ta, tuy chỉ có ba trăm người, thì tộc trưởng bộ lạc này chưa chắc dám xuất binh chinh phạt, bây giờ ông ta lại chỉ có thể như hổ xuống đồng bằng bị chó khinh vậy.

Bá Nhan Mãnh Khả phấn chấn lên tinh thần, giơ bảo đao uốn lưỡi lên, dẫn theo ba trăm tráng sĩ cuối cùng, giống như lang hồ nhắm cắn người mà đại chiến với chúng chiến sĩ của bộ lạc này. Trên người mỗi chiến sĩ đều bị thương, mệt mỏi không chịu nổi, cả người loang lổ vết máu, giống như hung thần ác sát vậy. Đoạn đường trốn chạy này đã tiêu hao sạch sẽ thể lực và ý chí của bọn họ.

Anh hùng mạt lộ, Bá Nhan Mãnh Khả không ngờ lại thua trong tay một bộ lạc nhỏ mà bình thường ông ta căn bản không để vào mắt, chỉ có mấy chục người cưỡi ngựa chạy trốn được, sau đó, bọn họ gặp được một đám mã tặc nhà tan cửa nát buộc phải luân lạc do chiến loạn không ngớt trên thảo nguyên…