Nguyệt Minh Thiên Lý - La Thanh Mai

Chương 68




Vào lúc mặt trời lặn phố chợ đã sớm đóng cửa, phố dài dần vắng vẻ hẳn.

Cảnh tượng trong dịch xá ngược lại ca múa náo nhiệt, Tiểu Vương tử Kim Bột chiếm đoạt phòng khách, vừa uống rượu ngon thả cửa vừa xem Hồ cơ ca múa. Trời mùa đông khắc nghiệt, nước đóng thành băng, Hồ cơ vẫn áo mỏng lộ ra chút da thịt tuyết trắng, đạp chân uốn éo lắc lư, váy dài bay cao, dáng múa tỏa sáng.

Trong Vương thành Cao Xương cấm đi lại ban đêm, các thương nhân trong dịch xá không thể ra ngoài, ngồi trong góc xa thưởng thức dáng người uyển chuyển của Hồ cơ, thỉnh thoảng la rầm khen ngợi, người có tâm tư linh hoạt chủ động tiến đến nịnh nọt Kim Bột, vô cùng a dua.

Kim Bột uống đến say khướt, mặt chữ điền đỏ bừng, dương dương tự đắc, không xua đuổi ai, hào phóng mời họ cùng uống rượu.

Phòng khách rất huyên náo. 

Dao Anh người mặc một bộ cẩm bào nửa tay áo, tóc dài thắt bím, chân mang ủng da như nam tử, đứng ở góc nhỏ, nhìn sảnh dưới lầu, nói với đám Tạ Thanh bên cạnh: “Các ngươi để ý theo dõi Tiểu Vương tử, nếu có biến cố hãy bảo đảm mạng hắn, tuyệt đối đừng để hắn chết.”

Cả đám thưa vâng, Tạ Thanh hỏi: “Ai muốn giết Tiểu Vương tử chứ? Uất Trì Đạt Ma ạ?”

Dao Anh lắc đầu: “Người Bắc Nhung.”



Trước đây, vì Dao Anh từng mấy lần nhắc nhở, Ngõa Hãn Khả Hãn đã dấy lên lòng nghi ngờ Hải Đô A Lăng, mấy vị Tiểu Vương tử khác cũng bắt đầu cảnh giác Hải Đô A Lăng, mâu thuẫn nội bộ Vương thất Bắc Nhung sớm bộc phát.

Kim Bột là đứa con trai được Ngõa Hãn Khả Hãn yêu chiều nhất trong tất cả Vương tử, bất hạnh thay cũng là kẻ xúc động lỗ mãng nhất, chí lớn nhưng tài mọn, hắn luôn bất mãn Hải Đô A Lăng năm mười lăm tuổi đoạt danh tiếng của hắn tại Lễ Tế thần, nhiều lần đối nghịch với Hải Đô A Lăng, nhiều lần ăn nói châm ngòi trước mặt Ngõa Hãn Khả Hãn.

Khổ nhục kế của Hải Đô A Lăng bị bại lộ, Vương thất Bắc Nhung chắc chắn giương cung bạt kiếm, dòng nước ngầm chảy mãnh liệt.

Kim Bột ghi hận Hải Đô A Lăng nhiều năm, muốn trừ khử cho sướng tay, lúc này không ở cùng các anh em khác ở Nha đình đánh chó mù đường, mà che dấu thân phận Bắc tiến Cao Xương, mục đích không khó đoán —— hắn muốn mượn binh từ Uất Trì Đạt Ma và công chúa Đột Quyết công chúa Hina giết Hải Đô A Lăng.

Ngõa Hãn Khả Hãn lúc trẻ chí lớn mạnh mẽ ngút ngàn, dẫn đầu bộ lạc quét ngang thảo nguyên, quật khởi lớn mạnh vô cùng nhanh. Tuổi càng lớn, tác phong ông càng cẩn thận bảo thủ, nhất là sau khi đại bại trong tay Đàm Ma La già, đa phần vì trong lòng có vết, làm việc có phần sợ đầu sợ đuôi, không còn quả quyết. Dù biết Hải Đô A Lăng là tai hoạ ngầm, ông vẫn không thể trong mấy tháng ngắn ngủi quyết định giết đứa con nuôi tình như cha con.

Thứ nhất, Ngõa Hãn Khả Hãn tự khoe là hậu nhân của Thần Sói, kiêu ngạo tự phụ, cho rằng trong bộ lạc chuyện dũng sĩ khiêu chiến thủ lĩnh là thiên kinh địa nghĩa, cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh làm vua, bản thân là thủ lĩnh, ông không thể vì nghi ngờ vô căn cứ của mình mà giết bộ hạ.

Thứ hai, dù Hải Đô A Lăng không phải con ruột ông, nhưng mấy năm nay Nam chinh Bắc chiến nhiều lần lập chiến công, chí lớn bừng bừng, dũng mãnh hơn người, danh vọng vượt hẳn các Vương tử khác. Cho đến giờ A Lăng luôn cung kính với ông, chưa từng thể hiện ra ý đồ không tốt, nếu ép người quá đáng, A Lăng giơ cao tay hô hào chắc chắn người đi theo như mây, đến lúc đó ai thắng ai thua vẫn còn chưa định. Không bằng cứ lấy tĩnh chế động, tìm cơ hội tốt.

Thứ ba, một khi Vương thất Bắc Nhung có nội loạn chắc chắn sụp đổ, các bộ tộc bị ép thần phục thừa cơ khởi sự, đến lúc đó bốn phía bất ổn, mấy Vương tử tự giết nhau, những mảnh đất dũng sĩ Bắc Nhung chém giết nhiều năm chinh phục phải chắp tay nhường người.

Hiểu con không ai khác ngoài cha, Ngõa Hãn Khả Hãn biết mấy đứa con trai ruột mình không phải là đối thủ của Hải Đô A Lăng, càng không có khả năng dẫn dắt bộ tộc khai cương thác thổ. Ông muốn bảo vệ con mình, nhưng ông cũng là Khả Hãn Bắc Nhung, nếu chỉ được chọn một giữa bộ tộc huy hoàng, ổn định, phồn vinh và tính mệnh nhi tử, ông sẽ chọn thứ đầu. 

Vậy nên dù nghi ngờ Hải Đô A Lăng, cuối cùng Ngõa Hãn Khả Hãn vẫn không thể quyết định giết y.

Đám con trai của Ngõa Hãn thì khác, họ ghét hận Hải Đô A Lăng đã lâu, hận không thể ăn sống hắn. Ngõa Hãn Khả Hãn chậm chạp không ra tay chứ họ kiềm chế không được.

Kim Bột đúng là đến Cao Xương mượn binh.

Dao Anh có được kết luận thế này, một là căn cứ vào hiểu biết rõ ràng với Vương thất Bắc Nhung, hai là nàng biết lý do Hải Đô A Lăng chính tay đâm cha con Ngõa Hãn Khả Hãn là vì mấy vị Vương tử khác bố trí cạm bẫy hãm hại y. Kỵ binh Bắc Nhung tinh nhuệ trung thành với Khả Hãn, bình thường sẽ không tham dự vào cuộc nội đấu giữa các Vương tử, chắc chắn họ phải tìm kiếm ngoại viện, mà mối quan hệ của Hina công chúa và Kim Bột xưa nay thân thiết.

Nàng chưa giải thích cho Tô Đan Cổ, Tô Đan Cổ lập tức hiểu ý, quyết định sớm đi gặp Uất Trì Đạt Ma.

Kim Bột một mặt che giấu thân phận, một mặt dung túng thân binh vênh váo, cả đoạn đường kiêu căng ngang ngược, vô cùng phô trương, nói không chừng dấu tích hắn đã bị Hải Đô A Lăng dò đến từ sớm, Hải Đô A Lăng tâm ngoan thủ lạt, ngoài thô trong tinh, cuộc loạn động của Vương thất Bắc Nhung rất có thể đã như tên lắp trên cung, thế lực các phe sớm hãm sâu trong đó, chỉ chờ bắn ra.

Trước khi Kim Bột vào cung họ phải thăm dò ý của Uất Trì Đạt Ma, còn phải bảo vệ mạng sống của Kim Bột, không thể để hắn chết trong tay Hải Đô A Lăng.



Dao Anh nhìn Kim Bột trong phòng khách trái ôm phải ấp, âm thầm lắc đầu.

Thảo nào Hải Đô A Lăng có thể lấy ít thắng nhiều, chỉ một trận loại trừ toàn bộ đối thủ. Kim Bột và mấy anh em từng ra tay giết y, biết y giấu tài, giả sa vào tửu sắc, mà còn lơ là như thế, sợ không ai biết hắn đến Cao Xương sao.

Mặt khác hẳn mấy vị Vương tử đã chia nhau đi các nơi khác nhau cầu ngoại viện, nếu họ cũng giống Kim Bột không biết thu liễm, e Hải Đô A Lăng đã sớm nhìn thấu kế hoạch của họ. Nói cho cùng, là trong mắt họ không có ai, xem thường Hải Đô A Lăng, cho là y vốn cô nhi không cha không mẹ, không xứng kế thừa vị Khả Hãn, vốn không thể đánh đồng với họ. Không biết rằng, người Bắc Nhung trung thành tuyệt đối với Ngõa Hãn Khả Hãn không có nghĩa cũng sẽ như vậy với con trai ông ta. 

Tiếng tì bà dưới lầu du dương vui vẻ, Dao Anh thu tầm mắt, quay về phòng.

Tạ Thanh cùng đi sau lưng nàng, nhỏ giọng nói: “Tôi đưa công chúa đi Vương Tự.”

Dao Anh lắc đầu: “Trong thành có giới nghiêm, đi đông ngược lại không an toàn, Duyên Giác quen thuộc đường trong thành, có cậu ấy hộ tống ta sẽ không sao. Cô ở lại tiếp ứng ở dịch xá.”

Họ bí mật gặp Uất Trì Đạt Ma, muốn tránh tai mắt, càng ít người càng tốt.

Tạ Thanh nhíu mày, thấy Dao Anh kiên quyết, trầm giọng vâng lời.

Đã đến giờ xuất phát, Dao Anh chuẩn bị xong đồ tùy thân, mang mặt nạ che hết khuôn mặt chỉ lộ ra một đôi mắt, theo Duyên Giác từ cửa sổ lầu hai rời dịch xá.

Dao Anh không biết công phu, lúc sắp nhảy xuống đất lòng bàn chân bị trượt nhẹ, Duyên Giác giật nảy mình, đưa tay kéo nàng không kịp, một bóng người hiện dưới ánh trăng bạc, cánh tay dài mở ra, tiếp được Dao Anh, ôm nàng nhanh chóng nhảy xuống đài đất dốc đứng.

Là Tô Đan Cổ.

Tiếng gió vù vù bên tai, Dao Anh dựa vào lồng ngực kiên cố của Tô Đan Cổ, mượn ánh trăng trong lạnh dò xét hình dáng cái cằm rõ ràng lộ dưới đáy mặt nạ. Mấy hôm nay nàng phát hiện, lúc ban đầu mỗi lần vô tình tới gần hắn, hắn có hơi cứng nhắc —— không phải xấu hổ không tự nhiên, đơn thuần chỉ là chưa thích ứng, vẻ như hắn chưa từng chạm tới nữ tử, càng về sau dọc đường nàng trượt chân suýt ngã, hắn đưa tay đỡ, động tác tự nhiên hơn nhiều.

Hình như trong mắt hắn, nàng không có gì khác biệt mấy thân binh khác.

Trên người hắn có mùi thuốc nhàn nhạt. Dao Anh nhịn không được hít thử, không nghe ra là thuốc gì.

Nàng còn đang thất thần, hai chân đã vững vàng đạp trên tuyết nghe kít nhỏ một tiếng, Tô Đan Cổ buông nàng xuống, xoay người đi dẫn ngựa, động tác lưu loát dứt khoát.

Dao Anh trong lòng có quỷ, người chao đảo, suýt cắm đầu vào trong đống tuyết. Tô Đan Cổ quay sang nhìn nàng, dưới bóng đêm, ánh mắt xanh biếc như hai dòng nước trong vắt rơi trên mặt nàng như mang theo mấy phần lực. 

Dao Anh chợt chột dạ, tim đập nhanh hơn, hai gò má nóng lên.

Duyên Giác đứng dưới tường viện, nhìn Tô Đan Cổ, lại nhìn Dao Anh, vẻ mặt mờ mịt.

Dao Anh bị ánh mắt Tô Đan Cổ chiếu tê cả da đầu, tranh thủ lấy thăng bằng, một đường lướt nhẹ như không, mấy bước đi đến cạnh tuấn mã đạp lên yên ngựa, động tác quá nhanh, thấy đầu hơi choáng váng, vội vàng giật gấp dây cương.

Sau mấy hơi, nàng cảm giác được ánh mắt Tô Đan Cổ dời khỏi người mình.

Tranh thủ bóng đêm ba người cưỡi ngựa ra phố dài, sau đó đi bộ. Dao Anh không biết đường, theo thật sát sau lưng Duyên Giác, sau bảy lần tám lượt rẽ ngoặt rất lâu, địa thế hình như càng lúc càng thấp. Sau nửa canh giờ, cuối cùng cũng đi vào một ngõ sâu chật hẹp, Duyên Giác gõ vang cửa, có người ra mở, hai người thấp giọng trao đổi ám hiệu bằng tiếng Phạn, cửa từ bên trong kéo ra.

Duyên Giác dẫn Dao Anh đi vào, nàng nhìn lại, phát hiện không thấy Tô Đan Cổ nữa.

Người này luôn luôn xuất quỷ nhập thần.

Nàng nén nghi hoặc, theo Duyên Giác vào chùa. Điện vũ của Vương Tự rộng lớn, nền lát đá xanh, ánh đèn rực rỡ đổ bóng thăm thẳm, trong đêm tối, các bích họa trên tường lộ ra vẻ mặt dữ tợn. 

Dao Anh phát hiện bố cục của Vương Tự rất giống với Trung Nguyên.

Hai người đi theo người dẫn đường qua hành lang và vài toà đình viện trống, vào một thiền phòng âm u yên lặng, người dẫn đường khom người đưa tay mời, nhỏ giọng nói với Duyên Giác: “Quốc chủ nói khách của Phật Tử chính là khách của ngài, mời hai vị chờ một lát, Quốc chủ lập tức đến ạ.”

Duyên Giác và Dao Anh cất bước vào trong, vừa mới đạp lên bậc thềm đá, chợt lỗ tai Duyên Giác giật giật, dừng bước, kéo cánh tay Dao Anh lại.

Đúng lúc này, đột ngột vang lên tiếng thét chói tai dồn dập, như nước lạnh rớt vào chảo dầu, đánh vỡ bóng đêm yên tĩnh như mặt nước.

Không khí đọng lại chốc lát.

Ngay sau đó, cả ngôi chùa như tỉnh giấc, chim đêm giật mình sải cánh bay lên không trung, tiếng thét nổi lên bốn phía, khắp nơi đầy tiếng bước chân hỗn tạp, hộ vệ, tăng binh rối rít xông ra cửa phòng, nhào về hướng tiếng động, đuốc lốm đốm như mấy đầu cự long, rất nhanh bao vây viện tử.

Duyên Giác giận dữ, bắt lấy người dẫn đường, siết chặt cổ họng gã: “Có mai phục?”

Người dẫn đường lấy lại tinh thần, cuống quít phủ nhận: “Trước giờ Quốc chủ luôn tôn kính Phật Tử, sứ giả của Phật Tử đến Quốc chủ vui mừng không kịp, sao làm chuyện hèn hạ thế chứ? Trong đêm chùa có giới nghiêm, tôi cũng không biết đã xảy ra chuyện gì!”

Duyên Giác không tin, ép người dẫn đường nhanh chóng rời đình viện.

Hai người nhanh chóng rời khỏi viện tử, phía trước có tiếng bước chân rất nhỏ, một bóng người bay vụt tới họ, nghe như cao thủ, thấy bóng người ngày càng gần, Duyên Giác đổ mồ hôi lạnh chặn trước mặt Dao Anh, định dùng người dẫn đường làm con tin, người kia đã nhảy xuống hành lang, ánh trăng trải trên mặt hắn, là tấm mặt nạ Dạ xoa.

Duyên Giác thở phào, thấy tim về chỗ cũ, nhỏ giọng nói vài câu tiếng Phạn. Tô Đan Cổ trả lời một câu, trực tiếp kéo Dao Anh.

Dao Anh biết chuyện khẩn cấp, không nói tiếng nào đuổi theo.

Duyên Giác nắm người dẫn đường, hỏi hắn: “Tướng quân, xử lý hắn thế nào ạ?”

Người dẫn đường run lẩy bẩy xin tha: “Tôi thề trước Phật! Quốc chủ chúng tôi tuyệt đối không bố trí cạm bẫy! Các ngài là sứ giả của Phật Tử sao Quốc chủ chúng tôi dám hãm hại? Chư vị hảo hán tha mạng! Phật Tử lòng dạ từ bi, các ngươi giết lầm người tốt, sau Phật Tử biết được, nhất định sẽ trách tội các ngài đó!”

Sau lưng có tiếng bước chân, hô to “Bên kia có người” rồi đuổi theo, ánh đao lấp lóe.

Tô Đan Cổ ôm lấy Dao Anh, nói: “Dẫn theo.”

Duyên Giác gật đầu, bắt lấy người dẫn đường phóng lên trên tường viện, biến mất trong màn đêm.

Phía bên kia, Tô Đan Cổ ôm Dao Anh lướt qua từng dãy nóc nhà, lưu loát thoát khỏi truy binh, nhảy xuống một ngõ hẹp yên tĩnh, không còn nghe tiếng la giết, bên giếng có một con ngựa buộc, hắn đỡ Dao Anh lên ngựa, hai người cùng cưỡi một ngựa vượt qua mấy đường tắt tĩnh mịch, ngừng lại ở một góc đường.

Cách đó không xa tiếng người huyên náo, ánh lửa ngút trời.

Dao Anh nhìn theo hướng nhìn của Tô Đan Cổ, tay chân lạnh buốt: Là hướng dịch xá!