Nguyệt Minh Thiên Lý - La Thanh Mai

Chương 80




Ánh nến nhẹ lay, người Tô Đan Cổ bất động, đường cong lạnh lẽo cứng rắn, ánh mắt trong lạnh, bàn tay đeo găng da đen đặt lên trường đao, mu bàn tay căng ra, chứa đầy sức lực, chụp xuống trước giường một bóng đen thật dài.

Dao Anh nhìn ánh mắt hắn, phát hiện nơi đáy mắt xanh biếc ẩn hiện nét kì lạ, như chói sáng.

Như sao sáng chói giữa bầu trời đêm sa mạc vô ngần, quan sát trần thế, tĩnh mịch, xa xôi, mênh mông, cao không thể chạm.

Đến làn sóng sát khí quanh người hắn cũng lạnh lùng hờ hững.

Tĩnh lặng không vui không buồn, vô dục vô cầu thế này, Dao Anh từng gặp ở một người khác.

Trong thâm tâm nàng dâng lên một cảm giác rất kỳ dị, kìm không đặng ngồi dậy, đi đến trước mặt Tô Đan Cổ, nhìn kỹ cặp mắt hắn.

Rõ ràng là hai người hoàn toàn khác biệt…

Tô Đan Cổ không nhúc nhích, bình tĩnh nhìn Dao Anh với vẻ lạnh nhạt.

Dao Anh vội lui về chỗ, nhìn hắn cười cười, trực giác nàng biết hắn không tức giận, trong tươi cười vô tình toát ra mấy phần thần thái hồn nhiên thẳng thắng.

Tô Đan Cổ đúng là không giận thật, mặt không hề lộ cảm xúc gì, rũ mắt, “Mỗi khi Bắc Nhung chiếm đoạt một bộ lạc, Khả Hãn sẽ lập tức chia quân quản lý, bổ nhiệm trưởng quan, tráng niên trong bộ lạc làm tư binh cho trưởng quan, những người còn lại đều là tôi tớ của trưởng quan, phải giao nộp thuế cho trưởng quan. Trưởng quan không chỉ thống lĩnh quân đội, còn quản lý việc vặt của các bộ lạc, Bách hộ, Thiên hộ, Vạn hộ trưởng, tầng tầng lớp lớp sĩ quan xuất thân từ quý tộc Bắc Nhung, quý tộc trên danh nghĩa là binh của toàn dân, khi có chiến tranh thì lên ngựa tấn công. Tất cả từ dân thường đến quan phủ chia làm mấy cấp bậc, quản lý chặt chẽ, dân thường chỉ dựa vào quân công mới được chu cấp tốt, nên ra trận dũng cảm, hung hãn không sợ chết, trưởng quan dùng nó để khống chế tất cả khu vực.”

Mày Dao Anh nhẹ xoắn.

Các nước Bắc Nhung, Tây Vực vẫn giữ chế độ nô lệ mà quý tộc nuôi như gia súc, dê bò lều vải của nô lệ, toàn bộ của cải đoạt được đều thuộc về quý tộc. Nàng cho rằng mấy năm nay Bắc Nhung vội vàng chinh phạt sẽ bỏ bê quản lý các vùng đất chiếm được, chỉ biết cướp giật dân thường mà cung cấp cho quý tộc, nghe Tô Đan Cổ nói vậy, Bắc Nhung đúng là rất dã man, nhưng phương thức quản lý ngang ngược này của chúng đúng là đơn giản hữu hiệu, không chỉ trấn áp các bộ lạc phản loạn, khiến họ không có sức phản kháng, còn khiến thanh niên trai tráng các bộ lạc tranh nhau trung thành với Bắc Nhung, vì chúng mà khai cương thác thổ.

Cứ thế, trong vòng một hai năm những bộ lạc nhỏ ít người sẽ hoàn toàn tiêu vong, bộ lạc lớn hơn cũng sẽ rất nhanh sụp đổ.

Dưới đẳng cấp phân chia chặt chẽ, tất cả con dân đành ngoan ngoãn thuần phục, mỗi người đều lệ thuộc vào trưởng quan nào đó, bộ lạc muốn đi mấy chục dặm đều phải thông báo cho quý tộc. Với tình huống này, họ sẽ không dám giữ hay giấu người lạ, thậm chí sẽ tranh nhau tố giác, quân trạm gác coi giữ các nơi rất dễ dàng phân biệt ai không phải người dân Bắc Nhung.

Tô Đan Cổ nói tiếp: “Binh chủng của Bắc Nhung rất đầy đủ, không chỉ có kỵ binh, còn có lượng bộ binh lớn. Trong kỵ binh còn có thiết kỵ xuất chinh, khinh kỵ đi tuần sát, binh khinh kỵ Bắc Nhung đến từ mỗi bộ lạc, biết rõ địa hình, nói ngôn ngữ các bộ lạc, lui tới mật thiết với dân bản xứ, chỉ cần có kẻ xa lạ đi ngang, binh khinh kỵ sẽ chấm dấu hỏi về thân phận của họ.”

Bắc Nhung nghiêm cấm bách tính đi về hướng Đông, hỏi người qua đường trả lời không rành rọt thì dù là Hồ hay là Hán, giết chết hết không bắt tội.

Dao Anh nhớ tới thân binh hộ tống mình hoà thân nơi biên cương xa xôi, ngón tay run run. Những hộ vệ trung thành ấy chết dưới đao của khinh kỵ binh Bắc Nhung có được hồn về quê cũ không?

“Ngoài ra, Bắc Nhung còn huấn luyện một đội trinh sát.”

“Lính trinh sát?” Dao Anh thấp giọng thì thào.

Đúng nhỉ, lúc trước Hải Đô A Lăng suýt nữa đã gây ra chiến tranh giữa các nước Trung Nguyên cũng bởi vì y nắm rõ tình hình các nước, có mạng lưới tình báo trải rộng các nơi Trung Nguyên.

Thì ra Bắc Nhung có một đội trinh sát chuyên điều tra tình hình địch, động tĩnh các nước, quy mô hẳn là vượt qua tưởng tượng của nàng.

Nàng thở dài, tâm tình nặng nề.

Đông Tây cách trở, hoang mạc mấy trăm dặm hoang tàn vắng vẻ, đói khát khổ sở ốm đau cũng không tính là gì, cái khó là làm sao qua được kiểm tra của những vòng phong tỏa.

Cặp mày của Dao Anh hơi nhăn lại, ngồi trầm tư. Tô Đan Cổ không lên tiếng quấy rầy nàng, trong phòng yên tĩnh đến tiếng kim rơi cũng nghe được.

Ánh nến đột nhiên chao đảo, sáng lờ mờ, Dao Anh lấy lại tinh thần, cũng không biết mình đã suy tư bao lâu, đứng dậy cáo từ: “Đa tạ Tướng quân đã giải thích cho tôi. Sắc trời đã tối, Tướng quân mấy ngày liền mệt nhọc, nghỉ sớm nhé.”

Tô Đan Cổ không lên tiếng.

Dao Anh nhìn hắn chằm chằm trong một thoáng, không biết có phải là ảo giác của nàng không, nàng cảm thấy hắn lạnh lùng hơn thường lệ, tuy hắn vẫn luôn một vẻ toàn thân sát khí thế này nhưng nàng cảm giác ra được chút khác biệt nhỏ.

Tựa như một thanh đao giết người một lần nữa rút ra, sắc lạnh lập loè, âm u sắc bén.

Những gì vốn thuộc về hắn đều bị xóa đi.

Bao nhiêu canh giờ không gặp, hắn đã xảy ra chuyện gì? Sao thay đổi lớn như thế?

Dao Anh hồ nghi một bụng, ra khỏi phòng, mắt đảo quanh, nhỏ giọng hỏi Duyên Giác: “Sau khi Nhiếp Chính Vương về đã gặp ai thế?”

Duyên Giác cảnh giác hỏi: “Công chúa hỏi việc đó làm gì?”

Dao Anh nhìn cậu, sóng mắt thay đổi. Duyên Giác thẳng tắp lồng ngực, vẻ mặt không thể trả lời.

Dao Anh cười cười: “Không có gì, ta tùy tiện hỏi thôi. Trễ thế này Nhiếp Chính Vương còn chưa nghỉ ngơi, có làm bằng sắt cũng không chịu nổi, cậu nên khuyên ngài ấy nhiều hơn.”

Duyên Giác dịu đi, ừ một tiếng, đưa mắt nhìn bóng lưng nàng khuất sau hành lang, nghĩ mãi đến câu hỏi vừa rồi, đi qua đi lại.

Từ Tô Đan Cổ về chỉ một mình đợi trong phòng, không dùng cơm, cũng không có dặn dò gì, chỉ nói mấy câu với công chúa, cậu không dám vào quấy rầy.

Sau một tuần trà, Duyên Giác khẽ cắn môi đẩy cửa vào phòng, đôi ủng cao vừa mới bước vào, lập tức bị sát khí như gió lốc đập vào mặt phải lùi một bước.

Cậu hơi hồi hộp, ngẩng lên.

Tô Đan Cổ ngồi trước giường, đôi mắt cụp xuống, mi tâm nhíu chặt, loáng thoáng như có chỗ đỏ bừng, cơ bắp cả người đường cong phồng lên sung mãn, áo bào đen căng chặt, như muốn vỡ vụn ra, quanh người sát khí ngút trời.

Duyên Giác biến sắc, định tiến lên, đôi chân lại không cách nào động đậy. Trong phòng tràn đầy ý giết chóc, mi tâm Tô Đan Cổ ngày càng đỏ.

Áp lực vô hình đánh tới Duyên Giác, áp lực bàng bạc thật mạnh làm cậu ngã xuống đất. Cậu cắn chót lưỡi giữ cho mình tỉnh táo, dùng cả tay chân, giãy dụa lấy sức bò ra khỏi phòng, mặt trắng bệch, mồ hôi lạnh ướt đẫm mấy lớp quần áo. Gió đêm lạnh như băng bên ngoài thổi trên mặt cậu, cậu gấp rút thở dốc, trong cổ họng dâng lên vị ngai ngái, ọe ra một ngụm máu tươi.

Trong đêm yên tĩnh vài tiếng bước chân nhẹ vang. Duyên Giác lập tức bò dậy, lau sạch sẽ máu nơi khóe miệng, khoát tay với thân binh nghe động chạy đến ra hiệu vô sự.

Thân binh lui xuống.

Tim Duyên Giác quay cuồng loạn xạ, quay người vào phòng, đóng cửa, không dám áp sát quá gần, quỳ xuống đất cạnh cửa, dập đầu, trán dán chặt lấy mu bàn tay, run giọng nói: “Vương, ngài nên uống thuốc.”

Uy áp chợt tăng vọt. Duyên Giác không dám ngẩng đầu, run lẩy bẩy, mồ hôi đầm đìa.

Sau một lúc lâu, sát khí dần dần thu lại.

Tựa như mây tan mưa tạnh, băng tuyết tan rã, sát ý khiến Duyên Giác lo sợ tan thành mây khói.

Cậu lặng lẽ lau mồ hôi, ngẩng nhìn. Dưới ánh đèn lờ mờ, Tô Đan Cổ đang tĩnh tọa dường như chống đỡ hết nổi, nghiêng dựa vào bằng ỷ, vai rộng khẽ run run.

Duyên Giác lập tức bò dậy, vọt tới trước giường, móc bình thuốc đổ ra một viên thuốc đút hắn.

Tô Đan Cổ uống thuốc, nhắm mắt chắp tay trước ngực, mi tâm đỏ bừng, trán rịn đầy mồ hôi. Duyên Giác không dám chờ lâu, cung cung kính kính rời khỏi phòng, khép cửa lại, thở ra một hơi thật dài.

Họ phải lên đường về Vương Đình thật sớm.

Duyên Giác nghĩ nghĩ, gọi tới thân binh chăm sóc ưng, nhỏ giọng dặn dò mấy câu. Sau gần nửa canh giờ, ưng lấy đà đập mấy cánh bay về phía không trung đen như mực.



Ngay trước một khắc lúc cận vệ Vương Đình thả ưng, mấy thân binh mặc đồ ngắn ôm gọn sát người rời đình viện, đi thẳng vào bóng đêm mịt mờ, trong đó có tôi tớ của Dương Thiên biết rõ đường trong thành, dẫn mấy người kia giữa đêm không gặp trở ngại, thuận lợi tránh được binh tuần, xuyên qua mấy đường lớn hẻm nhỏ, đi vào một góc trong biệt viện của Dương Thiên.

Một người vào nhà lay Dương Thiên đang nằm ngáy o o, nói: “Công chúa có lệnh, kế hoạch trước hạn.”

Dương Thiên từ trong mộng bừng tỉnh, mờ mịt không hiểu: “Sao thế?”

Người đến là Tạ Xung, cậu giải thích: “Công chúa nói nàng buộc phải lập tức về Vương Đình, không thể chậm trễ.”

Dương Thiên ổn lại phong độ, suy tư một lát gật đầu: “Sớm cũng tốt, ta sẽ nói cho Quốc chủ.” Hai người thương lượng vài câu, Tạ Xung ghi lại thời gian và địa điểm, cầm đồng phù, về đình viện chờ lệnh.

Dao Anh nghe xong bẩm báo, gật đầu.

Tạ Xung hỏi: “Công chúa, sao người lại muốn xúc tiến sớm? Có vội vàng quá không?”

Đêm nay từ chỗ Tô Đan Cổ về đột nhiên công chúa nói kế hoạch thay đổi, muốn cậu ta đi gặp Dương Thiên truyền lời, Dương Thiên hỏi nguyên nhân, cậu cũng không hiểu.

Dao Anh ngồi trước ngọn đèn, ngón tay thon dài khẽ gõ lên bàn, ngẩn ra một hồi, nói: “Ta đã gây thêm cho Phật Tử quá nhiều phiền toái, nhanh chóng về Vương Đình mới được.”

Tô Đan Cổ rất kỳ lạ, nàng không thể nói kỳ chỗ nào nhưng có một trực giác mãnh liệt, họ phải về Vương Đình.



Chạng vạng tối hôm sau, Vương cung.

Phu nhân Hina vung tay rộng rãi, hàng đêm tổ chức yến hội long trọng, trong cung đèn đốt sáng trưng, vui ca múa hát.

Trong hành lang có tiếng cười đùa, mấy cô gái Hồ tóc vàng mắt xanh, thân mặc váy dài từ trong lều trướng của Uất Trì Đạt Ma đi ra, nghênh ngang bước qua một phụ nhân trang điểm lộng lẫy, hào nô vây quanh.

Phụ nhân đó chính là Quốc chủ phu nhân công chúa Hina.

Khi mấy cô đó bước qua cô ta, cố ý rộng mở vạt áo, lộ làn da như tuyết.

Mặt phu nhân Hina xanh xám, hỏi thân binh canh giữ hành lang trước: “Quốc chủ có tiếp kiến đại thần không?”

Thân binh cung kính nói: “Phu nhân, mấy bữa nay Quốc chủ chỉ gặp… Chỉ gặp vài ca cơ xinh đẹp, còn có Tứ Lang Dương gia đến mấy lần, hầu Quốc chủ uống rượu mua vui.”

Phu nhân Hina híp mắt.

Là gã công tử ăn chơi Dương gia? Một tên du đãng cả ngày chỉ biết hờn dỗi đấu rượu, lưu luyến gió trăng á? Không phải sợ.

Thân binh dè dặt hỏi: “Phu nhân, có cần chặn mấy ca cơ đó không?”

Phu nhân Hina cười lạnh: “Chặn làm gì? Quốc chủ và Thế tử cách biệt, thương nhớ phiền muộn, mấy tên nữ nô có thể giải nỗi buồn cô đơn cho ngài, chính hợp ý ta, không cần chặn, Quốc chủ muốn gặp bao nhiêu đứa thì cứ để gặp bấy nhiêu.”

Uất Trì Đạt Ma đến cùng vẫn là Quốc chủ Cao Xương, cô ta cưỡng ép đưa con ông ta đi, không thể khinh người quá đáng, ngộ nhỡ dưới cơn nóng giận ông ta giơ cờ phản, cô ta sẽ khó ăn nói với Ngoã Hãn Khả Hãn.

Dù gì con ông ta cũng đã bị cô ta giết, về sau Cao Xương chắc chắn là của con trai cô ta.

Tưởng sủng hạnh ca cơ là chọc giận được cô ta sao? Cô ta là Bắc Nhung công chúa, có cô ta ở đây thì mấy ả ca cơ chẳng qua chỉ là đám tiện nô thôi.

Tiện nhân! Còn dám giương nanh múa vuốt trước mặt ta! Sớm muốn gì cũng lột da chúng bây…

Phu nhân Hina nén lửa giận, phẩy tay áo bỏ đi.

Yến hội cười đùa ồn ào.

Một canh giờ sau, từ căn phòng to tiếng một bóng người đi tới.

Thủ vệ thân binh bước lên dò xét đối phương mấy lần, thấy người đến là một cô gái đầu đầy trân châu, người mặc váy sa rộng rãi, đeo mặt nạ thần nữ, nhìn nhau, lui về chỗ.

Phu nhân nói không cần cản, bọn hắn không cần xen vào việc người khác.

Nữ tử lắc mông bước vào lều trướng, khí thế quanh thân thình lình biến hoá, tháo mặt nạ xuống, lộ ra một khuôn mặt anh tuấn, mũi cao mắt sâu, một đôi mắt màu vàng nhạt, ánh mắt sắc bén như chim ưng.

“Quốc chủ tính thế nào?”

Uất Trì Đạt Ma ngồi phịch trên giường, tóc đỏ rối tung, vạt áo mở rộng, hừ lạnh, nói: “Hina lòng dạ rắn rết, cầm tù Bổn vương, giết con của ta, Uất Trì Đạt Ma ta và cô ta không đội trời chung!” Nói xong, kích động ngồi dậy, ánh mắt hung ác nham hiểm. “Nếu Vương tử có thể giúp ta báo thù, giết con độc phụ Hina, Cao Xương ta nguyện trung thành với Vương tử, giúp ngài đoạt vị Đại Hãn!”

Khoé môi Hải Đô A Lăng vẽ ra nụ cười, ngồi xếp bằng xuống, cũng không tiếp lời Uất Trì Đạt Ma, “Quốc chủ nói quá lời, bây giờ ta cũng ở tình cảnh gian nan, chỉ mong giữ được mạng thôi.”

Con ngươi Uất Trì Đạt Ma co rụt. Hải Đô A Lăng quá bình tĩnh, đến mức này vẫn không hề đề cập tới việc muốn thay thế Ngoã Hãn Khả Hãn, không để người cầm chuôi.

Ông vẫn không tỏ vẻ gì, hai mắt đỏ lên, đau khổ nói: “Vương tử là đệ nhất dũng sĩ Bắc Nhung, vốn nên là ưng phóng giữa trời bao la, vạn người kính trọng, mấy vị Vương tử lòng dạ hẹp hòi, ghen ghét Vương tử hiền năng dũng mãnh, nhiều lần gia hại, Vương tử mà không tính toán cho mình, chỉ sợ sẽ giống như ta, lâm vào đại nạn đấy!”

Hải Đô A Lăng cười cười, “Ta tới gặp Quốc chủ, là vì dự định của riêng mình.”

Trong trướng vẫn u ám, hai người đối mặt, lòng đều có tính toán riêng.

Lúc này, có tiếng bước chân dồn dập ngoài lều trướng, trước trướng bóng người lay động, vô số thân binh tay cầm đuốc chui ra từ chỗ khuất nhào về phía lều trướng.

Hành lang mới còn vắng vẻ thoáng chốc đầy ắp người, tiếng hô, tiếng la, tiếng kêu loạn xị, chấn động cả mái nhà.

“Có thích khách! Bắt hắn lại!”

“Phu nhân có lệnh, không để ai sống, ai chặt đầu thích khách, thưởng trăm lượng!”

Hải Đô A Lăng biến sắc, trừng mắt với Uất Trì Đạt Ma: “Ngươi bố trí mai phục à?”

Uất Trì Đạt Ma cũng quá sợ hãi, cuống quít bò lên từ trên giường, há miệng run rẩy nói: “Ta không có! Có phải lúc ngài đến bị lộ hành tung không?”

Vèo vèo vài tiếng xé gió khiến người khiếp sợ, xé lớp không khí, như một cái lưới lớn, chụp vào lều trướng.

Hải Đô A Lăng rút chuỷ thủ giấu bên hông, xông ra khỏi lều, vừa tránh trái tránh phải, vung đánh mấy chiêu, vừa bình tĩnh liếc nhìn một vòng.

Hành lang, thính đường chật ních thân vệ, tân khách trong yến hội ôm đầu chạy tứ tán, bốn góc tường, trên nóc nhà cung thủ mai phục cung tên sẵn trên tay, trên tiễn bôi chất độc, lấp loé sắc lạnh.

Ngoài tường viện kêu la động trời, người bao vây càng lúc càng nhiều.

Hải Đô A Lăng nghiến răng. Sao Hina lại biết mình đến Cao Xương? Vì đâu mà bố trí mai phục giết mình? Chả nhẽ cô ta đã biết Kim Bột chết trong tay bộ hạ mình?

Mặt Uất Trì Đạt Ma tái nhợt, túm lấy cánh tay của Hải Đô A Lăng: “Vương tử, ngài có thể lấy ta làm con tin! Hina không dám giết ta đâu!”

Khoé mắt Hải Đô A Lăng móc nghiêng, liếc nhìn ông mấy lần, không chút do dự bóp chặt cổ họng ông, nắm lấy vai ông, vọt về phía thân vệ đối diện.

Dù là ai bí mật tố giác, chạy ra khỏi Vương cung hẵng tính.



Ở hành lang cách một bức tường, Dao Anh mang mặt nạ được Dương Thiên bảo vệ leo lên đầu tường, trốn trong góc tối, nhìn viện tử xa xa dưới chân.

Hải Đô A Lăng bị bao vây trùng điệp, mũi tên như mưa châu chấu, dệt ra một mảnh lưới kín không kẽ hở, bao lấy thân hình cao lớn của y.

Nàng nín thở.