Sát Phá Lang - Priest

Quyển 4 - Chương 98: Phiên thiên




Cố Quân nhẹ nhàng mơn trớn thắt lưng Trường Canh, không khiến người ta cảm thấy có cảm giác xâm lược, lại khiêu khích vừa đủ, độ ấm trong lòng bàn tay từ từ xuyên thấu qua quần áo, như là cọ lên một ngọn lửa không phỏng người, không nhẹ không nặng dán trên người Trường Canh.

Trường Canh thật sự quá muốn y, lúc còn ở đại doanh Giang Bắc vẫn tâm tâm niệm niệm muốn thân mật một lần, nhưng liên tục khúc chiết không ngừng mà kéo dài tới bây giờ. Bất kể trong lòng chứa bao nhiêu xuân thu, thân thể Trường Canh dẫu sao mới ngoài hai mươi tuổi, khi chưa nếm loại tư vị đó thì cũng đành, mới ăn tủy biết ngon đã bị Trần cô nương chặn ngang một gậy, nếu không phải công việc bề bộn, sợi tơ trong lòng không dám nới lỏng, đã nhịn đến phát điên từ lâu rồi, hoàn toàn không chịu nổi khiêu khích.

Lúc này bị Cố Quân chạm nhẹ, nửa người đã tê dại, Trường Canh thở gấp mấy hơi, cơ hồ hơi ù tai mà nói khẽ: “Nghĩa phụ, người muốn mạng của con sao?”

Cố Quân: “Vết thương lại không đau nữa?”

Đau thì vẫn đau, nhưng mà là kiểu đau trước khác nay khác, thương của Nhạn vương điện hạ thường ngày là đau bình thường, khi làm nũng đòi hôn là “đau vô cùng”, cho đến lúc này, dù vết thương một lần nữa nứt ra máu chảy thành sông, thế cũng nhất định là mình đồng da sắt không biết đau hay ngứa gì hết.

“Không đau thì được,” Cố Quân thủng thỉnh túm bàn tay Trường Canh đang luồn vào trong quần áo mình, lôi ra ném đi, mỉm cười nói, “Thế đến tính nợ với ta đi.”

Trường Canh: “…”

Cố Quân ung dung gối một tay ra sau đầu, vô cùng thả lỏng mà nằm trên giường, một tay còn rất ôn nhu đỡ thắt lưng Trường Canh, giọng cũng không nghiêm khắc lắm, nhưng nội dung lại khiến người ta toát mồ hôi.

Cố Quân: “Nói xem, khi ngươi dẫn theo Từ đại nhân tên thư sinh trói gà không chặt này xông vào hang ổ thổ phỉ, trong lòng rốt cuộc nghĩ thế nào?”

Trường Canh: “Tử Hi…”

“Không cần Tử Hi,” Cố Quân nhàn nhạt nói, “Ngươi có thể tiếp tục gọi ‘nghĩa phụ’.”

Trường Canh cười ngượng ngùng, hôn y lấy lòng – đây là Trường Canh gần đây mới phát hiện, Cố Quân rất thích nụ hôn dính rịt như vậy, cắn nhẹ vài cái, lại dùng ánh mắt dè dặt kia chăm chú nhìn y một lúc, trên cơ bản bất kể mình nói gì Cố Quân đều ưng thuận.

Nhưng hiện giờ hình như chiêu này hết tác dụng rồi.

Cố Quân hơi nhướng mày: “Cũng không cần khách khí như vậy, vết thương của ta không đau.”

Nhạn vương trí kế bách xuất rốt cuộc vô kế khả thi, đành phải ngoan ngoãn nói tiếng người: “Ta không ngờ họ thật sự sẽ nổi dậy.”

Cố Quân nở nụ cười hết sức dung túng, dùng mu bàn tay cọ má Trường Canh, kế đó không chút lưu tình nói: “Vớ vẩn, ngươi nhất định đã nghĩ tới.”

Yết hầu Trường Canh nhích nhẹ: “Ta… Ta và Từ đại nhân lúc ấy đang trên đường đến tổng đàn, không biết họ sẽ chọn thời cơ này…”

“À,” Cố Quân gật đầu, “Sau đó ngươi thấy, cơ hội ngàn năm một thuở, chẳng dễ gì có thể tự tìm chết một lần, liền vội vàng xông tới.”

Trường Canh nghe y nói, cảm thấy tình hình không đúng lắm, vội thông minh thừa nhận sai lầm: “Ta sai rồi.”

Cố Quân buông tay, trên mặt không rõ hỉ nộ, đôi mắt hoa đào nửa mở nửa khép, Trường Canh nhất thời không rõ y đang nghĩ gì, không tự chủ được căng thẳng hẳn.

Song đợi cả buổi, Cố Quân lại không nổi giận, chỉ đột nhiên hỏi: “Là vì hôm đó ta hỏi ngươi ‘Khi nào có thể ổn định lưu dân, khi nào có thể giành lại Giang Nam’, đã tạo áp lực cho ngươi sao?”

Khi y nói câu này, trên trán hằn một nếp nhăn như có như không, mà thần sắc gần như cô đơn, biểu cảm như vậy, Trường Canh mới thấy đúng một lần trên hồng đầu diên đêm Trừ tịch năm xưa, Cố Quân lúc ấy dùng ba chén rượu tế ngàn vạn vong hồn, trên mặt cũng là sự thanh tịch bình đạm như thế, cả đế đô đèn đuốc sáng trưng đều không chiếu sáng nổi khuôn mặt nghiêng của y.

Trường Canh nhất thời cơ hồ hơi hoảng, nói năng lộn xộn: “Ta không phải… ta… Tử Hi…”

Lúc trẻ, Cố Quân rất không thích nói với người ta về cảm giác của mình – không vì điều gì khác, chỉ bởi y cảm thấy trưng hết hỉ nộ ai lạc lên mặt, chẳng khác nào tùy thời vén quần áo lên cho người ta nhìn da thịt mình, hết sức bất nhã, người ta cũng chưa chắc thích xem, điều này không liên quan đến tính tình dễ chịu hay chăng, đơn giản là vì gia giáo, ban ngày một đám người ngồi chè chén với nhau, chẳng có gì bất đồng, tới khi say mèm mới có thể hiện ra khác biệt – có kẻ sẽ gào khóc ầm ỹ, có kẻ cùng lắm là gõ nhịp hát hò thôi.

Lời không hợp cảnh lăn qua lăn lại vài lần trên đầu lưỡi Cố Quân, nổi lên lại chìm xuống, rốt cuộc, y mở miệng như hơi thăm dò: “Trên đường ta từ kinh thành chạy tới đây…”

Trường Canh rất giỏi xem sắc mặt, chớp mắt khi cảm giác được y muốn nói gì, đồng tử khó mà ức chế hơi co lại, nhìn Cố Quân vừa kích động vừa chờ mong.

Cố Quân chắc cả đời chưa từng nói lời nào khó khăn như vậy, suýt nữa lâm trận lùi bước.

Trường Canh: “Ngươi trên đường thế nào?”

Cố Quân: “… Lòng như lửa đốt.”

Trường Canh sửng sốt nhìn y.

Năm đó khi thủy quân Giang Nam bị diệt sạch, Huyền Thiết doanh mất quá nửa, Cố Quân mới được Lý Phong vội vã thả khỏi đại lao, từng nói bốn chữ “lòng như lửa đốt” chưa?

Chưa từng.

Cố Quân tựa hồ vĩnh viễn chắc chắn, vĩnh viễn không bối rối, nếu bối rối, quá nửa cũng là giả vờ thôi.

Y mạnh đến hơi giả dối, khiến người ta luôn có cảm giác không thật, hoài nghi một ngày nào đó y sẽ như hoàng thành cửu môn nguy nga, đột nhiên đổ sụp.

Cố Quân như bị mở một miệng cống đóng chặt đã lâu, bốn chữ ấy vừa ra thì câu kế tiếp liền trôi chảy hẳn: “Nếu chuyến này ngươi thực sự có chuyện gì… bảo ta phải làm thế nào đây?”

Trường Canh nhìn y, thở mạnh cũng không dám.

Cố Quân: “Trường Canh, ta thực sự không còn sức đi… đặt ai khác ở trong lòng nữa.”

Trường Canh chấn động.

Cố Quân còn sức để bình định nam bắc, còn sức để non sông chưa yên chết không nhắm mắt, còn sức cả đêm không ngủ tranh luận với Chung lão tướng quân chuyện biên chế của thủy quân Giang Bắc.

Nhưng độc không còn sức để yêu một người nữa.

Mấy năm nay, bên cạnh Cố Quân ngoại trừ một bằng hữu vào sinh ra tử như Thẩm Dịch, hình như cũng chỉ còn lại một hầu phủ đất rộng người vắng, chút tâm huyết chắt bóp ra đều dồn hết vào thiếu niên mẫn cảm nghĩ nhiều năm đó tiên đế giao vào tay này.

Xã giao trên quan trường, không tránh khỏi tâng bốc lẫn nhau, tâng đến Cố soái, đại để đều là một câu “cúc cung tận tụy, chí công vô tư”. Nhưng kỳ thực Cố Quân không hề chí công vô tư thuần túy, chỉ là nghĩ kỹ lại thì y thật sự không có gì để “tư” cả.

Nỗi tịch mịch này, thời thiếu niên Cố Quân không hề có cảm xúc sâu sắc lắm, khi đó y là An Định hầu của Huyền Thiết tam bộ, dù có muôn vàn tủi hờn oán phẫn, một bầu rượu nóng dốc xuống, là hôm sau lại có thể hăng hái bò dậy quên sạch sành sanh. Mà nay tuổi tác lớn dần, suy nghĩ nhiều hơn, y lại phát hiện sự tiêu sái năm xưa không biết từ khi nào đã tiêu mòn không ít, đặc biệt là dạo gần đây, y cảm thấy mình đặc biệt dễ mệt, do mệt mỏi trên người, trong lòng cũng thường hay không vui theo.

Nếu không phải còn một Nhạn vương lúc thì tính toán chu toàn, lúc lại điên điên khùng khùng khiến y nhọc lòng bận tâm, thì cuộc sống không khỏi cũng chẳng còn ý nghĩa gì.

Vẻ mệt mỏi và cô đơn thoáng qua trên mặt Cố Quân, chẳng qua chớp mắt đã bị y thu lại, y nhẹ nhàng đặt Trường Canh ngay ngắn xuống.

Y kéo một tấm chăn mỏng để bên cạnh đắp cho Trường Canh, thở dài nói: “Nằm yên đi, lưng cũng thẳng không nổi mà còn muốn chuyện đó, ngươi có đứng đắn không vậy?”

Trường Canh nắm tay y, tay Cố Quân vĩnh viễn chẳng ấm nổi, vĩnh viễn như mới lấy ra khỏi cát phong nhận, khô khốc, lạnh cứng: “Tử Hi, nằm với ta một lúc được không?”

Cố Quân chẳng rằng chẳng nói cởi áo ngoài nằm ngay bên cạnh, cách lớp chăn mỏng ôm lấy Trường Canh, không bao lâu liền thiếp đi.

Trường Canh bấy giờ mới len lén mở mắt ra, chỉ cảm thấy mỗi một sợi lông trên người đều run rẩy muốn kéo người bên gối lại triền miên thỏa thích một phen, song nhất thời lại không đành lòng phá hoại bầu không khí yên tĩnh ấm áp này, đành phải không hề nhúc nhích bị dục hỏa thiêu đốt, vừa khó nhịn vừa hạnh phúc mà chịu đựng.

Cố Quân nhặt y từ Nhạn Hồi tiểu trấn về đến bây giờ đã sắp mười một năm rồi, trong mười một năm, Cố Quân thường niên ở biên cương và sa trường, bên nhau thì ít mà xa cách thì nhiều… nhưng chưa từng một ngày rời khỏi tâm hồn y.

Nhiều lúc Trường Canh không biết mình nên yêu người ấy như thế nào, luôn cảm thấy dốc hết sinh mệnh cũng khó mà đền đáp nổi, nhưng bỗng nhiên, y ý thức được rằng, thay vì nói Cố Quân là việc tốt đáng chờ mong duy nhất đời này y gặp được, nên nói tất cả khó khăn từ khi ra đời y bắt đầu gặp phải, đều là để tích đủ vận may gặp người này.

Vừa nghĩ như thế, khúc mắc nhiều năm lại buông ra như kỳ tích.

Nhạn vương bị thương ở Giang Bắc, sự vụ lớn nhỏ do Từ Lệnh ra mặt xử lý, Từ đại nhân là một kẻ mềm cứng đều không nghe, bên cạnh không biết lại đào đâu ra công tử Đỗ Lãng của Đỗ tài thần, Đỗ công tử nói không nhiều, nhưng rất khó lừa gạt, độ khó trong việc đút lót cũng quá cao – nhà họ nứt đố đổ vách, Hoàng thượng cũng làm bao nhiêu phiếu nợ họ, tí chút quà vặt căn bản không dám cầm đến trước mặt vị này.

Cuối tháng Chín năm ấy, Từ Lệnh nhờ Nhạn vương đứng sau chỉ vẽ và đại doanh Giang Bắc dốc sức ủng hộ, bình định bạo dân phản loạn, một lần nữa thu xếp cho nạn dân Giang Bắc, sau đó do Diêu Trấn tạm thay chức Tổng đốc Lưỡng Giang, Từ Lệnh về kinh phục mệnh, mang theo tấu chương của Nhạn vương.

Đến đây, vụ đại án oanh động cả nước đã hạ màn.

Bản thân Nhạn vương còn lề mề vừa dưỡng thương vừa dạo bộ về kinh thành, chưa từng lộ diện, mà cuộc vận động “hành lang vận hà” oanh oanh liệt liệt do y khởi xướng đã bám rễ, bản tấu của y vào cung chỉ giữ lại hai ngày thì đại triều hội đã đến, Sở quân cơ dốc sức ủng hộ, hai viện hiếm khi không một tiếng động, mấy đại thế gia vội vàng dồn thế lực nội bộ lại, nhất thời không rảnh để ý chuyện khác, Phương Khâm tạm thời ngủ đông, Hoàng đế Long An cùng ngày liền có ý kiến phúc đáp.

Sở quân cơ sớm đã nắm được trong lòng biểu hiện ra sức hành động khó tin, chỉ hai ngày đã đưa ra một phương án hoàn chỉnh, khiến người ta cơ hồ hoài nghi họ đã chuẩn bị sẵn.

Chưa đầy một tháng, thành lập Ban vận hà ngoài lục bộ, Ban vận hà toàn quyền thay mặt triều đình bàn bạc với Đỗ Vạn Toàn và các nhân sĩ thương hội, Đỗ tài thần kia lắc mình biến thành đại hoàng thương chân chính, sớm đã âm thầm điều phối sẵn các loại tư nguyên, vật liệu liên tục đưa đến vùng mở xưởng, cả triều trên dưới không ngủ không nghỉ suốt một tháng ròng, làm rất nhiều quan văn bình nhật chỉ biết dựa bàn phải mệt lử, cả Đại Lương đều bị một ngọn lửa lớn đốt lên, giống như muốn bù lại hết cái sự ngồi không ăn bám của hai triều.

Rốt cuộc, trước khi rét đậm đến, gom lưu dân Lưỡng Giang tới các lán của nhà xưởng bước đầu dựng thành.

Nhạn vương Lý Mân thì vừa mới về đến kinh thành.