Sử Thượng Đệ Nhất Phật Tu

Quyển 2 - Chương 149




*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.







Trước khi gặp Tạ Chinh Hồng, rất nhiều người đều chẳng thể hiểu nổi, vì sao Tạ Chinh Hồng lại có thể lừa gạt toàn bộ tu sĩ của cả một thế giới, hữu kinh vô hiểm cứu Văn Xuân Tương ra. Nhưng giờ phút này sau khi nhìn thấy Tạ Chinh Hồng, mới họ mới biết được, không phải những tu sĩ bị lừa gạt kia quá ngu ngốc, mà là người này trời sinh đã mang theo khí chất khiến người ta tin phục.

“Tạ thiền sư đường xa mà đến, vất vả rồi, mời ngồi.” Phúc Chân vươn tay dẫn đường, chậm rãi cười nói.

Hắn không biết Tạ Chinh Hồng thực sự không nhận ra hắn hay là giả vờ không nhận ra hắn, nhưng nếu Tạ Chinh Hồng vô tình vạch trần hắn, hắn cũng sẽ không cám ơn Tạ Chinh Hồng gây thêm cản trở. Trong tương lai bọn họ có thể vì vấn đề lập trường mà đối lập nhau, song hiện tại, vai ác nhân này vẫn chưa cần hắn đến làm.

Việc Phúc Chân phải làm, chỉ là lửa cháy thêm dầu mà thôi.

Nhưng ở trước mặt Tạ Chinh Hồng, tuyệt đối sẽ không nhiều lời nửa chữ.

“Làm phiền.” Tạ Chinh Hồng chậm rãi sải bước cùng Phúc Chân đi đến Thính Âm đình, ngồi xuống, mỉm cười chắp tay chào hỏi các Phật tu ở đây. Dù rằng mấy Phật tu này hận Tạ Chinh Hồng thấu xương, nhưng cũng không thể không đáp lễ, nhiều người nhìn như vậy, không thể để bị người ta nói này nói nọ được.

“Nghe nói Tạ thiền sư Phật pháp cao thâm, lần này luận đạo, xin Tạ thiền sư không tiếc chỉ giáo.” Phúc Chân mở màn, “Chư vị tu sĩ đồng đạo đang ngồi ở đây đều là mộ danh mà đến, mong Tạ thiền sư đừng để ý.”

Tạ Chinh Hồng lẳng lặng quét mắt nhìn những người ở đây, thu hết sắc mặt của mọi người vào trong mắt, khẽ hạ mi, nhẹ giọng đáp lời, “Nào có.”

“Còn một vài sư huynh đang gấp rút lên đường, bảo chúng ta không cần chờ.” Một Phật Đà ngồi bên trái phía sau Phúc Chân cầm một chuỗi phật châu trong tay, cao giọng nói, “Chúng ta đều là tiểu bối, làm người mở màn thì không hay lắm. Nhưng Tạ thiền sư là khách quý, chi bằng cứ để Tạ thiền sư mở đầu trước đi.”

Lời vừa nói xong, tức thì mấy Phật tu không hẹn mà cùng hướng mắt nhìn về Tạ Chinh Hồng, như thể có thể nhìn ra hoa trên mặt hắn vậy.

Đám tu sĩ xem kịch vui kia cũng nói thầm một câu trong lòng “Đến rồi”, hứng trí bừng bừng nhìn về phía Tạ Chinh Hồng.

Bọn họ cũng thực sự muốn biết, mở màn sẽ như thế nào đây?

Mở màn này khó mà nói được, nếu nói quá mức cao thâm, người kế tiếp sẽ rất khó tiếp lời, nếu nói quá mức dễ hiểu, lại không tránh khỏi bị chê cười. Nói chung, lời dạo đầu này do Phúc Chân nói là tốt nhất. Mà hiện tại Tạ Chinh Hồng là người được mời tới, dù thế nào cũng không nên để hắn nói trước. Nhưng tu sĩ kia lại mặt không đổi sắc mà ném đề tài lên người hắn, nếu từ chối thì sẽ quá cố ý.

Đây đương nhiên cũng là “chướng ngại vật” đầu tiên mà mọi người thương lượng.

Phúc Chân mỉm cười nhìn Tạ Chinh Hồng, cũng không khỏi có chút chờ mong.

Tạ Chinh Hồng còn chưa động thanh sắc, mấy tu sĩ bên cạnh liền nói chen vào, “Tạ chân nhân người tới là khách, sao có thể để ngài mở đầu? Tại hạ và mấy bằng hữu không thông Phật pháp, vừa hay có thể nhân dịp này mà lãnh giáo một chút.”

“Không sai, nếu vẫn còn không ít đại sư đang trên đường, vậy thì cứ đợi trước đã.”

Những lời này vừa lúc cắt ngang lời cự tuyệt mà Tạ Chinh Hồng đã chuẩn bị xong.

Người nói chuyện là bảy tám tu sĩ, xem ra cũng có chút quen biết lẫn nhau, khí tức trên người cũng lay động bất định, hiển nhiên đã dùng một ít pháp thuật che lấp.

Các tu sĩ xem náo nhiệt không chê việc lớn, hơn nữa bản thân cũng không quá thích Phật tu đều biết đây là cuộc đối chọi giữa hai bên, cũng chỉ cười ứng phó vài câu.

Tốt xấu gì Tạ Chinh Hồng cũng là người thuộc phe Văn Xuân Tương, bọn họ không thể bỏ đá xuống giếng theo mấy Phật tu này được.

Tranh đấu trong Phật môn, cần phải có thế lực ngang nhau thì mới nhìn thấu được.

Lời này được một bộ phận tu sĩ tán thành, đám người Phúc Chân không thể không nghe theo, mặc dù tức giận giữa chừng lại có mấy tu sĩ xen vào, song cũng chỉ có thể gật đầu đáp ứng. Có điều lãng phí một cơ hội tốt như vậy, thật khiến người ta bất đắc dĩ.

Tạ Chinh Hồng nhìn về phía những tu sĩ kia, tu sĩ dẫn đầu khẽ nháy mắt mấy cái với Tạ Chinh Hồng, thoảng sửa sang lại y quan, lộ ra ấn ký bách hoa trên cổ áo.

Nếu hắn nhớ không lầm, đây là dấu hiệu của Hoa Lý Quần, một trong bốn thủ hạ của tiền bối.

Tạ Chinh Hồng không khỏi dâng lên một ít vui sướng trong lòng.

Khi mới đến Tà Dương đại thế giới, Văn Xuân Tương vì phân thần bị thương mà không thể không trở lại bản thể nghỉ ngơi, hai năm đó Tạ Chinh Hồng cũng một mình một người sinh hoạt. Nhưng lại có chút bất đồng với hiện tại. Thời điểm đó, vòng tay cốt châu khế ước của Tạ Chinh Hồng vẫn còn trên tay hắn, bên trong đều là dấu vết mà tiền bối từng sinh sống. Hơn nữa trong hai năm đó Tạ Chinh Hồng liều mạng nâng cao tu vi của mình, vậy nên cũng không cảm thấy tịch mịch lắm. Song hôm nay lại không giống vậy.

Tiền bối đã một lần nữa trở thành Ma Hoàng cao cao tại thượng, hằng ngày khi ở chung, hai người tuy rằng vẫn vô cùng ăn ý, nhưng dù sao vẫn không còn thân mật khăng khít như trước đây nữa. Mỗi khi Tạ Chinh Hồng thở dài trong lòng, cũng sẽ cảm thán bản thân mình vô dụng. Tiền bối bây giờ không cần hắn giúp nữa, muốn đi chỗ nào thì đi chỗ đó, lúc nào gặp lại cũng không xác định. Khi Tạ Chinh Hồng nói ra câu “Thuận buồm xuôi gió” kia, trong lòng cũng không phải không có suy nghĩ muốn đi cùng Văn Xuân Tương.

Đáng tiếc, hiện giờ hắn mới chỉ đến kỳ Hóa Thần.

Mặc dù hắn có thể đấu với tu sĩ kỳ Hợp Thể trong thời gian ngắn mà vẫn bất bại, song cũng không thay đổi được thân phận kỳ Hóa Thần của hắn.

Tạ Chinh Hồng biết, tiền bối có lẽ cũng muốn mang hắn theo cùng, tiếc là tiền bối lại chẳng đề cập nửa chữ. Tạ Chinh Hồng thông minh, đương nhiên biết nguyên nhân trong đó. Mặc dù tu vi của hắn tiến triển rất nhanh, song chung quy vẫn cách tiền bối thời gian mấy ngàn năm.

Có lẽ cuối cùng sẽ có một ngày hắn có thể cùng tiền bối đi tới bất cứ nơi đâu, nhưng không phải hiện tại.

Hôm nay, chỉ một câu nói một động tác của tu sĩ kia, Tạ Chinh Hồng liền có thể tự động tưởng tượng ra bộ dáng lúc ấy của tiền bối khi phân phó Hoa Lý Quần, nhất định là vừa sợ hắn phát hiện lại vừa chờ mong hắn phát hiện. Tiền bối vẫn luôn là người không biểu hiện cảm xúc quan tâm của mình quá mức, người bình thường thường sẽ bị bề ngoài và khí chất của tiền bối mê hoặc, nhận định y là một người cao ngạo lãnh khốc, lại không biết tiền bối chỉ là không giỏi biểu đạt mà thôi. Đương nhiên, người có thể khiến Văn Xuân Tương biểu hiện ra loại cảm xúc này, cũng ít ỏi chẳng có mấy ai.

Nếu Tạ Chinh Hồng bây giờ là trẻ con hay kẻ tâm cao khí ngạo, có lẽ sẽ mất hứng vì Văn Xuân Tương hành động như vậy, nếu phái người vụng trộm theo đuôi thì rốt cuộc vẫn là không yên lòng về an nguy của Tạ Chinh Hồng, là không quá tín nhiệm thực lực của hắn. Nhưng Tạ Chinh Hồng không phải trẻ con, cũng tuyệt đối không phải kẻ chỉ ham hư danh, hắn chỉ thấy được sự quan tâm và trân trọng từ trong hành động đó của tiền bối, trong lòng chỉ biết cảm động, sẽ không nói với Văn Xuân Tương nửa chữ “Đừng”.

Cảm giác được người thời khắc quan tâm thế này, thật giống như tiền bối đang lẳng lặng ngồi phía sau mình vậy.

Tâm tình Tạ Chinh Hồng không khỏi vui vẻ hơn.

“Bần tăng bất tài, Phật pháp cao thâm, không dám nói thẳng hai chữ ‘Tinh thông’. Nếu đạo hữu có vấn đề gì, bần tăng có thể thử giải đáp một hai.” Tạ Chinh Hồng chắp tay thành chữ thập, ôn hòa nói.

“Tạ chân nhân khách khí rồi.” Tu sĩ nọ liên tục xua tay, “Tại hạ chẳng qua là gần đây ra ngoài du lịch, chợt có sở cảm mà thôi. Trên đường tới đây, bần đạo có gặp một nữ tử đang lên núi, nhìn bộ dáng thì mới chỉ mười lăm mười sáu tuổi, chính là độ tuổi động lòng người. Nhưng đôi giày dưới chân nàng lại rách nát không chịu nổi, sắc mặt cũng khô vàng, chỉ có đôi mắt sáng là chưa từng dao động nửa phần. Hơn nữa trên người nàng chẳng có lấy nửa điểm linh khí dao động, rõ ràng chỉ là một phàm nhân bình thường. Bần tăng có điều khó hiểu, bèn hóa thành một tiều phu sơn dã tiến đến hỏi thăm. Ra là thiếu nữ này tình cờ nhặt được một bản chép tay của tổ tiên ở sau núi.”

Nói đoạn, tu sĩ nọ không khỏi dừng một chút, thấy mọi người đều chăm chú lắng nghe, mới tiếp tục kể.

“Vị tổ tiên kia của nàng vốn là một tu sĩ Trúc Cơ nho nhỏ, vì tư chất dung tục, không có triển vọng, nên đã tự tuyệt đạo đồ quay về nhân gian hưởng thụ vạn trượng hồng trần. Nào ngờ con cháu của ông ta đều ra đi trước ông ta, chỉ có mình ông ta vô bệnh vô tai, sống hơn hai trăm năm. Lúc thiên nhân ngũ suy, trong lòng người này còn hối hận không thôi, liền lưu lại một bản chép tay để cảnh tỉnh hậu nhân. Cũng để lại một pháp khí kiểm tra đo lường linh căn và hai ba đan dược, tặng cho con cháu đời sau. Đáng tiếc thời gian đã lâu, đan dược đã sớm mất đi hiệu lực, pháp khí kia cũng chỉ chợt lóe một chút rồi chẳng có động tĩnh gì. Thiếu nữ này rốt cuộc có linh căn hay không chính nàng cũng không biệt, nhưng nàng cứ khư khư cố chấp, từ biệt phụ lão trong nhà, mang theo bản chép tay nọ đi đến chốn thâm sơn này bái sư, đến nay đã được hai năm, đạo tâm vẫn không thay đổi. Bần tăng thấy thế, cảm thán tâm trí này, có lòng muốn thu đồ đệ, không ngờ lúc kiểm tra mới biết nàng chẳng có nửa điểm linh căn trong người.” Tu sĩ nọ nói xong, trên mặt hiện lên vẻ thương hại, “Tại hạ ngu dốt, xin hỏi chư vị, người không thể học đạo mà lại có lòng hướng đạo thì phải cầu đạo như thế nào?”

Tu sĩ nọ nói xong, mọi người đều cùng suy tư.

Loại chuyện này bọn họ bình thường cũng không hiếm thấy, nhưng cũng chỉ cảm thán một câu “Vô duyên” rồi thôi, nào có cẩn thận ngẫm nghĩ nhiều thứ vì một người không liên quan như vậy? Nhưng hôm nay vấn đề này lại bị mang ra, bọn họ không thể không suy nghĩ được.

“Đã là người vô duyên, đương nhiên là nên quay lại đường cũ, làm việc thiện tích đức, kiếp sau lại dấn thân vào làm người hữu duyên.” Một Phật Đà đứng dậy trả lời.

Cái gọi là Phật độ người hữu duyên, đương nhiên là người hữu duyên được Phật cứu giúp, thế nhưng những người vô duyên này, tất nhiên không nằm trong số đó.

Bốn chữ duyên phận, nhân quả vốn là lời mà các đạo thống lớn thường dùng để giải quyết hết thảy những vấn đề không thể nói được. Bởi vì rất ít tu sĩ sẽ đi truy tìm nguyên nhân, cũng chẳng ai có thể truy tìm nguyên nhân.

Lời của Phật Đà này mặc dù khó nghe, song lại chính là ý nguyện của không ít tu sĩ.

Tu sĩ cũng thường sinh ra đời sau không có linh căn, lúc này bọn họ cũng chỉ có thể đưa con cái đến nhân gian, tặng cho nó phú quý bình an, bảo vệ nó trăm năm mạnh khỏe mà thôi, không thì còn có thể làm thế nào được? Người không có linh căn muốn tu luyện pháp thuật, phải có đại năng từ kỳ Hợp Thể trở lên dùng bí pháp, lấy linh mạch cực phẩm làm vật dẫn, rót vào trong đan điền người này, tạo ra một bộ “ngụy linh căn”. Cho đến kỳ Nguyên Anh, thoát khỏi nhục thân, chịu thiên lôi quán đỉnh, mới có thể trở thành linh căn chân chính, không khác gì tu sĩ bình thường. Nhưng trong ba ngàn thế giới tổng cộng mới có bao nhiêu tu sĩ kỳ Hợp Thể, bao nhiêu linh mạch cực phẩm chứ, nguyện ý tiêu phí một cái giá lớn như vậy để tạo nên một cơ duyên có thể tùy thời tiêu tan theo gió vì một hậu bối vô linh căn, lại có mấy ai có thể làm được?

Tu sĩ đặt câu hỏi nghe được lời ấy, sắc mặt không khỏi chùng xuống, cất giọng khàn khàn, “Chỉ có thể như vậy thôi sao?”

Giữa sân không ai tiếp lời, hiển nhiên đa phần đều nghĩ như vậy.

“Cũng không phải không còn cách nào.” Tạ Chinh Hồng bỗng lên tiếng.

“Mong Tạ thiền sư nói rõ.” Tu sĩ nọ nghe vậy thì vui vẻ, vội vàng chắp tay hỏi.

“Phật nói: Sơ học Phật giả, tiên tập ngũ giới[2], tự quy vu tam[3]. Ngũ giới nhất vi từ tâm, ân nhân bất sát. Nhị vi thanh liêm, tiết dụng bất đạo. Tam vi trinh lương, tiên khiết bất nhiễm. Tứ vi đốc tín, tính hòa bất khi. Ngũ vi yêu đạt, chí minh bất loạn[1]. Nếu lòng cầu đạo của nàng nhiệt thành, ngũ giới trong người, đương nhiên có thể tìm được đạo cho mình.” Tạ Chinh Hồng nhìn tu sĩ nọ, khẽ cười nói, “Pháp nhập môn của Thần đạo, nếu có thể được hưởng hương khói nhân gian, tín đồ đông đảo, liền có thể tăng tiến tu vi, cũng không yêu cầu có linh căn hay không, nàng có thể đi theo con đường này.”

“Nếu nàng không có cơ duyên này, chôn xương nơi thâm sơn thì sao?”

“A Di Đà Phật, nếu nàng không hối hận, vậy liền xem như được đền đáp mong muốn.” Tạ Chinh Hồng khẽ cười nói, “Có thể chết vì tìm đạo, đã là chuyện mà không ít tu sĩ đều không làm được. Các hạ tu vi cao thâm, cũng khiến bần tăng vô cùng bội phục.”

Lời này vừa nói ra, nhất thời mọi người đều hướng ánh mắt về phía tu sĩ đặt câu hỏi.

Đạo thống của Thần đạo vẫn luôn có chút thần bí, vả lại còn khác xa những đạo thống khác. Nhu cầu của bọn họ đối với linh khí vô cùng ít, hơn nữa cũng rất ít xuất hiện trong Tu Chân giới, đa phần là ở nơi phàm nhân tụ tập để thu thập hương khói tín ngưỡng. Bởi vậy, tu sĩ Thần đạo thường có nhiều ở trung tiểu thế giới, ở đại thế giới thì rất ít, phương thức truyền thừa của bọn họ cũng càng thêm thần bí, gần như không có tiêu chuẩn nhất định nào, những đạo thống còn lưu lại hiện nay cũng chỉ còn lại vài nhánh, muốn phục hưng chỉ e sẽ phải đi một đoạn đường cực kỳ gian nan. Mà tu sĩ Thần đạo tu luyện có thành quả ở đại thế giới lại càng ít ỏi, vậy nên cũng không thường qua lại nhiều với các tu sĩ, cảm giác tồn tại cũng gần như không có.

Bởi vậy khi nhắc tới việc “Không có linh căn”, mọi người đều theo bản năng lấy đạo thống của mình làm tiêu chuẩn, hoàn toàn không hề nghĩ đến tu sĩ Thần đạo.

Nhưng Tạ Chinh Hồng nói vậy, hiển nhiên là có đầy đủ tự tin.

“Tạ thiền sư lợi hại, không sai, tiểu nữ tu luyện theo Thần đạo.” Tu sĩ vừa dứt lời, liền nhanh chóng biến hóa, hóa thành một cô gái mặc hoa phục tay áo rộng, đai lưng trắng, váy dài chạm đất, “Tiểu nữ Phương Vinh Gia, đa tạ thiền sư giải đáp.”

Mọi người bấy giờ mới bừng tỉnh, vậy ra tu sĩ đặt câu hỏi chính là bản thân nữ tử kia.

Phương Vinh Gia khẽ phúc lễ với mọi người, “Năm đó tiểu nữ tìm khắp thâm sơn, rất nhiều tu sĩ đều khuyên ta rời đi, trong lúc tuyệt vọng mới có một tu sĩ Thần đạo dẫn ta nhập môn, nhiều năm trôi qua, cũng coi như có chút thành quả. Chỉ là mấy ngày trước khi đang đả tọa, bỗng mơ thấy chuyện xưa, tâm trạng phức tạp, nên cố ý đến đây tìm cách giải đáp. Tu hành lâu ngày, mà quên đi sơ tâm, thật sự không nên. Hôm nay nghe Tạ thiền sư giải đáp, tiểu nữ nguyện lấy ngũ giới làm giới, tự quy phạm bản thân.”

“Chúc mừng đạo hữu.”

“Chúc mừng chúc mừng.”

Các tu sĩ ở đây lần lượt chúc mừng nàng, bản thân Phương Vinh Gia cũng vô cùng thoải mái.

Cũng không phải là nàng không hiểu, chỉ là thiếu một người cho nàng một khẳng định mà thôi.

Nàng là thủ hạ của Yêu Vương Hoa Lý Quần, lại là Tiên tu đứng đắn, được phái tới tương trợ Tạ Chinh Hồng. Nghe Yêu Vương nói, Phật tu Tạ Chinh Hồng là một người đặc biệt, có thể tỏ rõ nỗi băn khoăn trong lòng nàng. Không lâu trước đây, nàng cũng từng hỏi người khác vấn đề này, đáng tiếc chưa bao giờ có người nguyện ý khẳng định cho nàng một câu. Cho dù người nàng hỏi là tu sĩ Thần đạo, cũng chưa từng có câu trả lời thuyết phục.

Hôm nay gặp được Tạ Chinh Hồng, mới biết lời Yêu Vương nói không phải là giả.

Tạ Chinh Hồng cười khẽ, “Nào có, lời của đạo hữu cũng đã cởi bỏ khúc mắc nhiều ngày của bần tăng.”

Năm xưa hết thảy những gì hắn tâm niệm đều là cố gắng để cứu tiền bối thoát trói, bây giờ hắn cũng đã được đền đáp mong muốn, cớ sao lại như đàn bà con gái, vì hai người không còn thân mật như xưa mà phiền não, vì một chút việc nhỏ mà vui mừng, chỉ cần tiền bối khỏe mạnh, những chuyện khác, tất nhiên không cần để ở trong lòng.

Tâm thần Tạ Chinh Hồng vừa động, lại liên hệ với Văn Xuân Tương.

“Tiền bối, ngài hiện tại thế nào?”

“Không có gì cả, sao vậy tiểu hòa thượng, có kẻ bắt nạt ngươi sao?” Giọng nói ngạc nhiên của Văn Xuân Tương truyền đến, dù sao Tạ Chinh Hồng sẽ không chủ động lợi dụng quan hệ khế ước để truyền tin tức gì cho y, hiện giờ hình như có điểm khác thường? Y có phái người ngầm đi theo bảo hộ tiểu hòa thượng, hẳn là không đến mức chịu thiệt chứ.

“Không, chỉ là muốn trò chuyện với tiền bối thôi.” Tạ Chinh Hồng suy nghĩ, lại bổ sung một câu, “Trước đây khi tham gia hội họp, bần tăng cũng quen nói chuyện như vậy, bây giờ vẫn chưa sửa được, nếu có gì quấy rầy thì…….”

“Không quấy rầy!” Thanh âm của Văn Xuân Tương có hơi lớn, vội vàng hắng giọng, “Bổn tọa gấp rút lên đường cũng có chút nhàm chán, nhân lúc nhàn rỗi, ngươi cũng có thể nói chút chuyện về yến hội, giống như trước đây là được.”

Văn Xuân Tương thi triển một pháp thuật, bịt miệng tu sĩ đang xông đến, một chưởng đánh ra ngoài, mỉm cười nói, “Chỗ bổn tọa phong cảnh tươi đẹp, chẳng có kẻ nào ngáng chân hết, rất an toàn.”

“Tiền bối, chỗ bần tăng……..”

Văn Xuân Tương nghe Tạ Chinh Hồng dùng giọng quen thuộc lẳng lặng thuật lại chuyện ở yến hội, khi nghe Tạ Chinh Hồng nói đến tên Ma Phật tên Phúc Chân kia, kẻ mà năm xưa sử dụng bí pháp dùng Xá Lợi để ngụy trang thành Phật tu, trên mặt không khỏi hiện ra vẻ tươi cười.

Cùng lúc ấy, tốc độ xuống tay của y cũng càng trở nên sắc bén hơn.

Đám Gia Ngọc và Phi Dực cho rằng dùng mấy tên tôm tép này là có thể ngăn cản bước đi của y sao? Thế này cũng quá coi thường Văn Xuân Tương y rồi đấy!

Thời điểm Tam Tư mượn cớ cùng vài vị đệ tử Phật tu nội môn của Chỉ Luật tông đi tới nơi, vừa nhìn liền thấy Tạ Chinh Hồng đang ung dung trò chuyện.

Những đệ tử Phật tu bên cạnh gần như đều trở thành nền cho hắn, mà những Pháp tu Kiếm tu còn lại đều đang hết sức chuyên chú nghe Tạ Chinh Hồng nói chuyện, trên mặt hoặc nhiều hoặc ít đều có vẻ khen ngợi và sùng bái.

Cảnh tượng như vậy, không khỏi khiến Tam Tư nhớ tới khi xưa mình và Tạ Chinh Hồng cùng luận đạo.

Bản thân Tạ Chinh Hồng là người cực có mị lực, ở chung cùng hắn lâu dài, sẽ không tránh khỏi bị Phật tính trên người hắn hấp dẫn. Tạ Chinh Hồng dường như vĩnh viễn đạm nhiên an tĩnh, nói chuyện không nhanh không chậm, có lý lẽ có bằng chứng, tựa như chẳng điều gì có thể làm dao động tâm trí hắn. Lời từ miệng hắn bao giờ cũng mang theo ma lực khiến người ta tin phục, như thể vốn nên là như vậy. Tam Tư không biết Tạ Chinh Hồng và Văn Xuân Tương rốt cuộc có quan hệ gì, thế nhưng y biết con người Tạ Chinh Hồng vẫn không có gì thay đổi, người khác bất mãn và chửi rủa hắn, hắn cũng tuyệt đối chẳng để trong lòng.

Tạ Chinh Hồng chợt có sở cảm, ngẩng đầu nhìn lại, trông thấy trong những Phật tu cưỡi mây bay đến, có một người mỉm cười đáp lại, vẻ tươi cười tạo nên sự đối lập rõ ràng với người bên cạnh, chính là Tam Tư đã nhiều năm không gặp.

Tha hương ngộ cố tri, đây quả thực là một việc khiến người ta vui mừng. (Tha hương ngộ cố tri: nghĩa là xa quê gặp bạn cũ, trích trong bài “Tứ Hỷ Thi”.)

Trái lại mấy đệ tử nội môn của ngũ đại Phật môn thấy thế, không khỏi rét lạnh trong lòng.

Tuy rằng bọn họ đã làm tốt chuẩn bị rằng đám đệ tử nội môn này không thể gây thương tổn đến một sợi lông của Tạ Chinh Hồng, nhưng tình thế cũng không thể nghiêng về một phía như thế được.

Đại đạo tranh đấu, không chết không ngừng.

Nếu Tạ Chinh Hồng lựa chọn đứng ở bên đối lập với bọn họ, đương nhiên sẽ là kẻ địch của bọn họ.

“A Di Đà Phật.”

Những Phật tu đi đến không hẹn mà cùng hô một câu, kéo lại lực chú ý của phần đông các tu sĩ trong Thính Âm đình.

Đám người Phúc Chân mừng rỡ, đứng dậy khỏi bồ đoàn, cũng chắp tay chữ thập hành lễ với các đồng đạo Phật tu trên không trung.

Những đệ tử trên không trung đông hơn rất nhiều mấy đệ tử ở đây.

“Các sư huynh cuối cùng cũng đến rồi.” Một Phật tu không khỏi cao hứng nói.

Mấy người bọn họ đã quá coi thường Tạ Chinh Hồng.

Từ sau khi nữ tu Phương Vinh Gia kia nói xen vào, tiết tấu dường như đã bị Tạ Chinh Hồng khống chế, mấy tu sĩ vốn muốn đến đây xem náo nhiệt lũ lượt tham khảo Tạ Chinh Hồng, ném bọn họ sang một bên. Càng đáng sợ hơn là, dù cho những tu sĩ kia hỏi gì, Tạ Chinh Hồng đều có thể trích vài câu từ kinh điển Phật giáo để trả lời bọn họ, khiến đám đệ tử Phật tu này xấu hổ muốn rời đi.

Bọn họ thế mà còn chẳng hiểu kinh văn nhiều bằng một Phật tu không quy y!

Những kinh văn mà bọn họ ngâm tụng đã quen ra là có thể dùng như vậy sao?

Văn Xuân Tương bởi vì tinh thông tạp học nên được phong hào Cửu Châu, được xưng là Cửu Châu chi sự không phải có thể biết, Cửu Châu chi học chẳng phải có thể thông. Tạ Chinh Hồng và Văn Xuân Tương ở cùng nhau trăm năm, hai người cũng đã chậm rãi học xong không ít thứ. Hơn nữa hai người vì có khế ước nên có thể truyền lời từ xa, không người nào có thể nghe được. Cho dù có vấn đề chùa miếu gì mà Tạ Chinh Hồng không trả lời được, Văn Xuân Tương cũng có thể hỗ trợ giải đáp, Tạ Chinh Hồng trích ra vài câu từ số kinh Phật phong phú kia dùng làm câu trả lời, thực sự là quá dễ dàng.

“Sở học của tiền bối, thật sự khiến tiểu tăng bội phục.” Tạ Chinh Hồng không khỏi tán thưởng.

“Thứ bổn tọa biết còn nhiều lắm, tiểu hòa thượng về sau không hiểu gì thì cứ việc hỏi, học hơn vạn năm cũng đủ.” Văn Xuân Tương nhịn không được mà khoe khoang một chút, trong lòng lại âm thầm lau mồ hôi.

Trước kia y cái gì cũng biết cái gì cũng học là không sai, nhưng từ khi bước lên ngôi vị Ma Hoàng, y liền một lòng một dạ đi tìm mấy con lừa trọc kia gây sự. Mấy thứ đồ và pháp thuật bắt đầu từ một trăm năm này, y nửa điểm cũng không biết. Không thể dùng nền tảng cũ nữa, ngộ nhỡ một ngày nào đó tiểu hòa thượng hỏi tới vấn đề mà y không trả lời được, mất mặt là một chuyện, nếu làm hỏng hình tượng của mình trong lòng tiểu hòa thượng thì phải làm sao đây?

Văn Xuân Tương có bản thể là hoa mẫu đơn, mặc dù hiện tại đã thu liễm nhiều, song sâu bên trong vẫn rất để ý hình tượng của mình.

Nhất là hình tượng của y trong lòng Tạ Chinh Hồng.

Lại không biết rằng, kể từ lúc y bắt đầu hát《Thập bát mô》, hình tượng của y đã chẳng còn tí tẹo nào nữa rồi.

Văn Xuân Tương thầm thề trong lòng khi trở về phải học thêm vài thứ, thuận tay đập một đống tu sĩ thất linh bát lạc luôn.

“Nếu các ngươi còn không ra, vậy thì đừng trách bổn tọa hủy đi tông môn của các ngươi!” Trong tay Văn Xuân Tương hội tụ ma khí, một thân uy áp ép cho hết thảy sinh linh chung quanh không có nửa điểm động tĩnh.

“Ma Hoàng sao phải tức giận như thế, mấy thứ này chẳng qua chỉ là lễ gặp mặt, để Ma Hoàng làm nóng người mà thôi.” Gia Ngọc tiên tử hiện ra từ trong hư không, đôi mắt đẹp chớp chớp với Văn Xuân Tương, “Ngày đó tại Thiên Khuyết cung còn chưa thấy rõ, phong thái của Ma Hoàng ngày càng hơn xưa, thật sự khiến người ta bội phục.”

“Còn tên nào nữa, cũng ra luôn đi.” Văn Xuân Tương cũng chẳng thèm nhìn tới Gia Ngọc tiên tử, quay đầu nhìn về phía bên kia, nói.

Phi Dực và Quy Nguyên tán tiên đồng thời bước ra từ hai hướng khác nhau, trên mặt bọn họ mang theo nụ cười chẳng khác Gia Ngọc tiên tử là bao.

Văn Xuân Tương khẽ nhướn mày, quay đầu nhìn về hướng chính Bắc, trông thấy lão giả áo xám nọ, “Ồ, ngọn gió nào đưa tán tiên tam kiếp tới đây thế này?”

———————————–Tiểu phiên ngoại————————————

“Phụ hoàng……. Con sợ quá QAQ” Cửu công chúa thấy con dao phay trong tay Lưu đồ tể, bị dọa sắp khóc đến nơi.

Hoàng đế vội vàng xoa đầu con gái, lập tức các hoàng tử và công chúa khác cũng lũ lượt làm nũng cầu vuốt ve.

Hoàng đế đành phải khổ bức lần lượt xoa đầu từng đứa.

“Đúng lúc giết gà tẩm bổ cho con trai.” Lưu đồ tể chẳng buồn nhìn hoàng đế bị dọa ở bên ngoài, xoay người túm lấy một con gà bị cột ở cửa, nhấc lên, “Ngoan nào, chớ kêu.”

Sau đó Lưu đồ tể thuần thục nắm cổ gà, dùng dao phay cứa một đường trên cổ gad.

Tóc tóc.

Lưu đồ tể vội vàng rót máu vào cái bát đặt dưới đất, tiết gà này có thể làm được một bữa ngon đây.

“Oa oa oa, phụ hoàng, ông ta đáng sợ quá.” Mấy hoàng tử càng khóc dữ dội hơn. Bọn nhóc đâu từng chứng kiến hình ảnh tàn nhẫn thế này?

“Ngoan nào, đừng khóc đừng khóc, ông ấy chỉ giết gà thôi mà.” Hoàng đế vội vã trấn an.

Đương nhiên, ông cũng mới thấy lần đầu tiên.

Cảnh tượng như vậy, không ai để ông trông thấy cả.

Nụ cười tươi hiện ra trên khuôn mặt Lưu đồ tể, lâu rồi chẳng động đao, quên hết cả nấu ăn rồi. May mà tay cũng không gượng lắm, chỉ chốc lát đã giết gà xong.

Các hoàng tử nhìn thấy đại hán này sau khi giết gà xong còn tươi cười, đều nháo nhào đòi về.

“Cha, cha xong chưa?” Phật Tử từ cửa đi ra, mỉm cười hỏi.

“Xong rồi đây.” Lưu đồ tể thấy con trai đi ra, vội vàng giấu gà ra sau lưng, không để cho con trai nhìn thấy.

“Cha à, không cần giấu đâu. Mẹ bảo dạo này cha thèm ăn cánh gà, nên đã làm xong nước tương rồi.”

“Hà hà.” Lưu đồ tể cười cười, “Vậy chúng ta vào đi thôi.”

Hoàng đế nhìn tiểu trạng nguyên mà chính mình chọn và cha hắn cùng đứng chung một chỗ, chỉ cảm thấy tiểu trạng nguyên cũng chẳng kém con gà trong tay đại hán kia là bao.

Đây nhất định không phải ruột thịt!

Hoàng đế cảm thấy trở về mình phải tra xét cẩn thận mới được.

******

★Chú thích:

[1]Phật nói: Sơ học Phật giả, tiên tập ngũ giới, tự quy vu tam. Ngũ giới nhất vi từ tâm, ân nhân bất sát. Nhị vi thanh liêm, tiết dụng bất đạo. Tam vi trinh lương, tiên khiết bất nhiễm. Tứ vi đốc tín, tính hòa bất khi. Ngũ vi yêu đạt, chí minh bất loạn: Câu trên là trích trong “Diễn Đạo Tục Nghiệp Cấp”, vì không tìm được bản dịch tiếng Việt nên mình tạm edit một đoạn này cho các bạn, có gì sai sót thì chỉ mình với nhé:

“Người mới học đạo, nên bắt đầu như thế nào?

Phật nói: Người mới học đạo, trước tập ngũ giới, tự quy được tam.

Ngũ giới là gì?

Một là từ tâm, tạo ơn không giết hại.

Hai là thanh liêm, tiết kiệm không trộm cắp.

Ba là trinh lương, trong sạch không uế bẩn.

Bốn là vững tin, hòa ái không giả dối.

Năm là có lòng tiến tới, sáng suốt không loạn.

Thế tam quy là gì?

Một là quy Phật, chân chính tột cùng.

Hai là quy Pháp, làm theo cái tâm.

Ba là quy Chúng, ở trong các thánh, cho nên quảng đại; tựa như biển lớn, không gì không bao bọc được.”

[2]Ngũ giới: là năm điều ngăn cấm do Đức Phật bảo các Phật tử phải tuân theo. Ngũ giới là cơ bản đạo đức của người Phật tử, khi bắt đầu bước chân trên con đường giác ngộ giải thoát. Ngũ giới bao gồm: không sát sinh, không trộm cướp. không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.

[3]Tam quy: nói đủ là Quy y Tam Bảo. Tam Bảo là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Phật là chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, do trước kia ngài tu hành giác ngộ thành Phật. Pháp bảo là giáo pháp do Đức Phật nói ra chỉ dạy đường lối tu hành. Tăng bảo là những vị tu hành theo giới luật và chánh pháp của Đức Phật.

Quy là trở về, y là nương tựa. Trở về nương tựa với Phật, Pháp và Tăng gọi là Quy y Tam Bảo. Từ lâu chúng ta mãi chạy theo dục lạc, tạo nghiệp đau khổ, nay hồi tâm thức tỉnh nhất định trở về nương tựa với Tam Bảo.

Quy y Phật là quỳ dưới chân Phật phát nguyện trọn đời y cứ nơi Ngài, cầu mong Ngài hướng dẫn dắt dìu đến chỗ giác ngộ, nếu Phật còn tại thế. Trường hợp Phật đã nhập Niết bàn, quy y Phật là đến chùa quỳ trước Phật đài chí thành tưởng niệm như Phật hiện ngự trên đài sen, phát nguyện trọn đời theo gương sáng của Ngài. Phật sẽ chứng minh tấm lòng thành kính của mình đời đời tu hành không lui sụt.

Quy y Pháp là y cứ theo Kinh, Luật, Luận của Phật mà đọc tụng tu trì. Những quyển kinh luật ấy ghi chép lời vàng ngọc mà Phật đã dạy. Học hỏi tu tập theo dần dần sẽ đủ sức ngự trị tâm mình, diệt tận phiền não.

Quy y Tăng là chọn lựa những vị sư đầy đủ đức hạnh, có khả năng hướng dẫn ta trên đường giải thoát, thỉnh cầu những vị đại diện chư Tăng truyền trao quy giới cho ta. Từ đó về sau tôn kính những vị ấy là thầy, chẳng riêng gì mấy vị ấy, mà tất cả vị sư chân chính đều là bậc thầy ta cả. Vì vị nào có khả năng hướng dẫn, có đức hạnh gương mẫu đều là người đáng cho ta nương theo học hỏi.

Editor: Mong mọi người thông cảm cho mình vì các bạn thấy đó, mấy chương này dài, vô cùng dài, dài tít tắp…… Nhìn là đã nản rồi, lại còn thuật ngữ Phật giáo các kiểu nữa, và mấy chương sau nó cũng sẽ dài không lối về như thế này…….. Chap này có tình tiết đánh mặt nhể, dù mình ko thích cái đánh mặt tẹo nào, thôi vả nhẹ kệ vậy.