The Great Escape

Chương 7-1




Toby chạy như bay qua những cái cây, rẽ trái qua gốc cây to đã bị chặt, nhảy qua tảng đá lớn rồi phóng qua thân cây sồi đỏ bị đổ ngã trong cơn bão mùa hè năm ngoái. Cuối cùng cậu đã tới được con đường dẫn đến ngôi nhà nhỏ. Mặc dù, Toby nhỏ con hơn so với những người bạn cùng trang lứa, nhưng cậu bé lại là người có thể chạy nhanh hơn bất cứ ai trong chúng.

Bà Gram nói rằng cha của cậu cũng là một người chạy rất nhanh.

Cậu bé chạy chậm dần khi tới gần ngôi nhà. Cô ta đang ngồi hút thuốc và nhìn chằm chằm ra khoảng sân trước nhà. Cô ta vẫn luôn làm vậy kể từ khi cô ta tới đây từ 2 tuần trước. Giống như thể không có gì trên đời này để cô ta nhìn vào. Cái sân trước đổ dốc xuống tạo thành một cái rãnh và ngoại trừ những cây cà chua và cây tiêu được ông Wentzel gieo trồng thì trong vườn của bà Gram chẳng còn gì khác ngoại trừ một đám cỏ dại. Có một vài cây táo và cây lê được trồng phía sau ngôi nhà làm mật ong nhưng chúng không tốt bẳng một góc của những cái cây trong vườn cherry của ông Wentzel.

Người phụ nữ ấy nhả một ngụm khói dài nhưng không hề phát hiện Toby đã tới. Có lẽ, cô ta nghĩ rằng chỉ cần cô ta không nhìn thì cậu sẽ biến mất nhưng cô ta mới chính là người cần biến mất nhất. Cậu bé ước rằng Eli và Ethan Bayner vẫn còn sống ở đây vì lúc này cậu có thể đến nhà của họ chơi. Họ là những người bạn thân nhất của cậu – những người bạn duy nhất – nhưng họ đã rời khỏi đây vào mùa hè để dọn đến sống ở Ohio vì cha mẹ của họ có thể sẽ li dị.

Cô ta gãy tàn thuốc lá vào khóm hoa hồng của bà Gram. “Trời sắp mưa rồi” cô ta nói. “Những con ong đang trốn vào tổ” cậu bé lướt nhìn những tổ ong một cách sợ sệt. 15 trong số những tổ ong nằm gần mép sân, không quá xa lằn ranh của khu vườn ông Wentzel. Bà Gram có một tình yêu say đắm với những con ong nhưng Toby lại ghét chúng vì chúng có thể chích cậu nên cậu luôn giữ khoảng cách với đàn ong. Lúc đầu, khi bà Gram bị bệnh, ông Wentzel đã thay bà chăm sóc những tổ ong, nhưng sau đó ông Wentzel cũng bị bệnh, và thế là ông buộc phải tới sống trong ngôi nhà nghỉ dưỡng trên đất liền. Hiện tại, con trai ông ấy chính là người phụ trách chăm sóc khu vườn đó, tuy nhiên anh ta thậm chí không hề sống trên đảo, anh ta chỉ thuê người chăm sóc vườn cây giúp mình.

Không ai kiểm tra những tổ ong kể từ khi ông Wentzel rời đi. Nếu chúng phát triển quá đông, đàn ong sẽ tụ lại một bầy để chia tổ, điều mà Toby không muốn nghĩ tới.

Cậu bé không muốn nghĩ quá nhiều về mọi thứ.

Người phụ nữ đó bắt chéo chân, rít một hơi thuốc thật sâu và giữ chúng trong phổi giống như cô ta chẳng hề biết gì về sự độc hại của thuốc lá đối với sức khỏe của mình. Cô có một mái tóc dài màu đỏ, người cô cao và rất gầy với xương lộ rõ giống như có thể dùng chúng cắt đôi người bạn bất cứ lúc nào. Cô ta chẳng quan tâm rằng cậu đã đi đâu.

Và thông thường cô cũng chẳng để ý xem cậu bé đã rời khỏi lúc nào. Cậu bé giống bà Gram. Cậu không thích tiếp xúc với người lạ. Và bây giờ thì xuất hiện thêm một cô gái lạ mặt trong ngôi nhà Remington. Cô nói với cậu rằng cô tên là Viper. Cậu không thật sự tin rằng đó là tên thật của cô ấy nhưng cậu cũng không biết tên thật của cô là gì.

Suốt buổi sáng, cậu cứ đi quanh quẩn quanh nhà Remington trong trường hợp Panda – người sở hữu căn nhà xuất hiện. Toby chưa bao giờ gặp Panda nhưng cậu tin chắc rằng Panda sẽ ngừng chi trả tiền cho ngôi nhà nếu Panda biết rằng chính Toby thay vì là bà Gram là người đã chăm sóc ngôi nhà kể từ khi bà Gram bị bệnh hồi tháng 1. Toby cần số tiền đó hoặc là kế hoạch của cậu sống một mình ở đây sẽ không thành hiện thực. Lần cuối cùng Panda sống ở ngôi nhà này là vào hai tháng trước và anh ta không hề tìm bà Gram để phàn nàn về bất cứ điều gì nên Toby đoán là cậu đã hoàn thành tốt công việc quét dọn của mình.

Người phụ nữ dập đầu thuốc lá vào cái đĩa nhỏ để trên bậc thềm. “Cậu có muốn tôi làm món gì cho cậu không?”

“Cháu không đói bụng”. Bà Gram sẽ không để cậu bé nói không nhưng bà đã không còn trên đời, và cậu bé muốn chắc chắn rằng cô gái này biết rằng cậu có thể tự chăm sóc bản thân mình vì thế cô ta có thể rời khỏi đây và để cậu yên.

Cô gái duỗi chân và xoa đầu gối. Nước da cô còn trắng hơn cả các cô gái da trắng. Cô có một ít tàn nhan trên cánh tay. Và cậu không thể tin được rằng cô biết nấu ăn bởi vì từ khi đến đây những gì cô làm là hâm nóng những thức ăn mà bà Gram đã đặt trong tủ đông lạnh lớn, cũng giống như cậu bé không thể tự mình nấu ăn.

Cuối cùng thì cô gái cũng nhìn cậu nhưng ánh mắt đó toát ra vẻ cô không muốn nhìn thấy cậu vậy. “Tôi không muốn ở lại đây nhiều hơn cái cách cậu muốn tôi ở lại đây.” Giọng cô ấy nghe như rất mệt mỏi nhưng cậu lại không nghĩ vậy, bởi vì cô ấy chẳng làm việc gì cả.

“Vậy tại sao cô không rời đi?” cậu nói.

“Bởi vì bà của cậu để lại cho tôi nơi này và nhờ tôi làm người bảo hộ cho cậu. Còn tôi, tôi chưa nghĩ được mình phải làm gì với công việc này”

“Cô chẳng cần phải làm việc gì cả. Cô có thể đi. Tôi có thể tự chăm sóc cho mình.”

Cô ta nhặt bao thuốc lá và nhìn về phía ngôi nhà làm mật ong. Giống như thể cô chẳng quan tâm cậu bé đang nói gì.

Cậu bé dậm chân mạnh đi qua cô rồi đi men theo những phiến đá lát đường xung quanh nhà. Tại sao cô ta không đi nhỉ?

Cậu có thể tự đến trường, tự nấu bữa ăn và tự giặt quần áo. Thế cậu đã làm gì kể từ khi bà Gram bị bệnh? Kể cả khi cậu phải ở với ông Wentzel một vài tuần sau đám tang, cậu vẫn có thể lo cho mình đấy thôi. Bà Gram tin rằng bà có thể tự chăm sóc cho mình được nên bà không có nhiều bạn ngoại trừ ông Wentzel và Big Mike – người hay chở bà đi khám bác sĩ. Toby sẽ là người lo liệu những việc còn lại.

Toby đang đứng ở mặt trước của ngôi nhà. Cậu bé và bà Gram đã sơn nó vào mùa hè ba năm trước – màu xanh trứng Robin với những đường viền màu xám nhạt. Bà Gram muốn sơn tường màu tím nhưng cậu đã nhất quyết đòi bà sơn màu khác. Bây giờ, cậu chỉ ước rằng mình đã để bà sơn bất cứ màu nào bà muốn. Cũng giống như cậu ước rằng mình đã không cãi lại lời bà hoặc cố làm bà buồn vì bà không chịu mua đồ chơi cho cậu hay là những chuyện ngỗ nghịch khác cậu đã gây ra.

Cậu ôm lấy gốc của cái cây to nhất trong sân, cây gỗ thích mà bà Gram từng nói tuổi nó còn lớn hơn cả tuổi của bà. Khi trèo lên, da cậu ma sát với vỏ cây làm xước rướm máu hết đầu gối nhưng cậu vẫn tiếp tục kiên trì leo bởi vì càng leo lên cao thì cậu cách càng xa khỏi người phụ nữ dưới kia, khỏi những con ong, khỏi những suy nghĩ về cô gái trong ngôi nhà Remington. Và càng gần hơn với bà Gram, với cha của cậu ở trên thiên đường. và cả mẹ của cậu nữa nhưng mẹ cậu đã mất khi cậu chỉ mới là một đứa trẻ sơ sinh nên cậu không nghĩ nhiều về mẹ. Bà Gram nói rằng bà rất yêu mẹ cậu nhưng bà lại chẳng thể làm gì để cứu được mẹ cậu.

Bà Gram và mẹ cậu bé đều có nước da trắng nhưng da cậu bé lại có màu đen giống ba. Cậu nhớ bà rất nhiều nhưng ngay lúc này cậu lại nhớ ba nhiều hơn thế nữa. Ba cậu đã mất khi cậu vừa lên bốn.

Ba cậu là người sửa cột điện, một công việc nguy hiểm nhất trên thế giới và ông đã hi sinh khi cứu một người bị mắc kẹt trên trụ điện thoại lớn ở vịnh Treverse. Đó là vào mùa đông, khi nhiệt độ giảm xuống dưới 0 độ và kèm theo một trận bão tuyết. Toby sẽ làm tất cả mọi điều kể cả đánh đổi tay và chân mình miễn sao cha cậu có thể sống lại.

--

Lucy tìm thấy một chiếc xe đạp địa hình đắt tiền trong nhà để xe và một chiếc thuyền kayak dành để đi biển với màu sắc bắt mắt trong nhà để thuyền, cả hai đều trông quá mới, không thể là đồ bị gia đình Remington bỏ lại được. Khi nhận ra rằng việc khám phá thị trấn quá mức phức tạp từ sau việc bị lạc từ chiều tới tối ngày hôm qua, cô dùng chiếc xe đạp làm phương tiện di chuyển của mình, mang theo vài món đồ và để chúng trong balo. Trên đảo Charity có tất cả mọi kiểu người và cô với những lọn tóc dread màu cam, xỏ khuyên mũi và đi giày combat cũng không thu hút quá nhiều sự chú ý.

Sau một vài ngày, cô bắt phà trở lại đất liền để đem trả lại chiếc xe đã thuê. Trong khi ở đó, cô đi sắm một vài phụ kiện phù hợp với phong cách mới – ở đây là một hình xăm tạm thời trông vô cùng kì cục.

Cho tới cuối của tuần đầu tiên cô ở đây, cô đã dọn dẹp nhà bếp từ đầu tới chân. Mỗi lần vào đây, cô càng ghét thêm chiếc bàn ăn lớn. Nó không chỉ trông gớm ghiếc và quá khổ so với cái góc phòng mà còn được chọn sơn màu bạc hà xấu xí nhằm mục đích hợp với màu tường nhưng thực tế thì không một chút nào.

Thậm chí cô còn nướng vài ổ bánh mì.

Với những cái nhìn loáng thoáng qua thỉnh thoảng cô nhận được từ nhóc-gián-điệp-12-tuổi ẩn núp sau mấy cái cây, cô cũng không quá phân tâm, điều này khiến cho thời gian này trở thành lúc hoàn hảo để bắt đầu viết kế hoạch cho cuốn sách của ba cô. Kể từ khi cô quyết định không tiếp tục công việc vận động hành lang của mình cho tới tháng 9, cô đã bắt đầu những dự định đầu tiên để bắt tay với việc này sớm nhất có thể sau khi cô quay lại từ tuần trăng mật. Mat nói ông đã chán ngấy với việc những người khác luôn tìm hiểu về tài sản của Nealy và ông tin rằng thế hệ tương lai xứng đáng được biết nhiều hơn về câu chuyện cuộc đời của vị tổng thống nữ đầu tiên của đất nước nhiều hơn.

Ba cô vốn là một nhà báo có kinh nghiệm và ông đã từng dự định viết một cuốn sách, nhưng sau vài tháng bắt tay vào thực hiện, ông đã quyết định rằng một quan điểm là quá gò bó.

Ông muốn nhiều góc nhìn hơn, mỗi góc nhìn sẽ làm nổi bật một khía cạnh khác nhau về cuộc đời của Nealy, vì thế ông đề nghị ông ngoại viết một phần và Terry Ackerman, người phụ tá lâu năm của Nealy, viết một phần khác. Quan trọng nhất là ông muốn biết quan điểm của Lucy. Cô là một nhân chứng trong cuộc kể từ khoảng thời gian Nealy lần đầu tiên tranh cử ở thượng nghị viện tới khi bà trở thành tổng thống, và cô sẽ viết về Nealy trong vai trò của một người mẹ. Lucy chộp lấy ngay cơ hội này nhưng cho tới giờ, cô vẫn chưa viết được một chữ nào. Dù rằng hạn cuối của cô không phải là tới tháng 9, nhưng bây giờ sẽ là lúc thích hợp để bắt đầu.

Cô đã tìm được một chiếc laptop trong phòng làm việc – một chiếc máy tính đã được tẩy xóa sạch sẽ không còn bất cứ thông tin cá nhân nào – tới sau khi cô làm xong bữa sáng, cô mang nó ra phía bên ngoài thềm ngoài. Khi cô đã yên vị trên một trong những chiếc ghế dài mà cô đã phủ lên một lớp khăn lót đầy màu sắc, cô kiểm tra lại chỗ hình xăm những mũi gai rớm máu chạy vòng quanh bắp tay mình. Nó vẫn chưa khô hẳn và cô yêu nó, hoặc có thể đơn giản là cô thích cái ý tưởng được thể hiện những thứ kiểu như vậy, tất nhiên là chỉ khi nó chỉ là xăm tạm thời. Gói hướng dẫn sử dụng viết rằng có thể giữ được khoảng 2 tuần, nhưng cô đã mua cái thay thế và cả vài cái mẫu hình xăm khác để dùng nếu cô muốn hoặc cũng có thể không muốn nữa.

Cô đảo mắt nhìn hình xăm với những mũi gai rớm máu và nghĩ về thứ cô muốn viết. Cuối cùng cô đặt tay lên bàn phím.

Khi mẹ tôi còn đang đương nhiệm…

Một con sóc gây ra vài tiếng lạch cạch ngay sát bên tai khiến cô chú ý. Cô cố tập trung lại vào màn hình.

Khi mẹ tôi còn đang đương nhiệm, một ngày làm việc của bà bắt đầu mỗi sáng trước sáu giờ với những công việc nhất định được giao như mọi ngày…

Lucy ghét những không việc cứ lặp đi lặp lại. Cô muốn đi ra ngoài đương đầu với nắng mưa bão tuyết hơn là với một chiếc máy.

Mẹ tôi tin tưởng vào lợi ích của việc tập luyện.

Lucy cũng vậy nhưng không có nghĩa là cô thích vận động. Mánh là ở chỗ tìm được thứ gì đó bạn không ghét thực hiện.

Có một huấn luyện viên thiết kế những bài tập nhưng bà và ba tôi vẫn thường xuyên tự tới phòng tập gym.

Lucy cũng không thích mấy phòng tập gym.

Họ bắt đầu công việc thường ngày một mạch rồi sau đó…

Cô cau mày. Có ai lại viết những câu văn nhạt nhẽo như thế này không cơ chứ. Mat muốn thứ gì đó riêng tư hơn mà những thứ cô viết thì hoàn toàn không phải.

Cô xóa hết đi rồi tắt máy tính. Thực ra thì buổi sáng quá đẹp để mà dùng vào việc ngồi viết lách. Cô túm lấy chiếc mũ bóng chày của mình rồi chèo xuống phía dưới qua những bậc thang bằng gỗ ọp ẹp tới chỗ đậu thuyền. Chỗ ngồi trên chiếc thuyền kayak khá lớn so với cô nhưng cô tùy tiện ngồi thật chắc chắn rồi đẩy thuyền xuống nước.

Kể cả cho tới khi cô đã trèo thuyền ra khỏi bãi đá chạy quanh vịnh Goose rồi, cô vẫn không thể tin nổi mình đã trốn tới một hòn đảo ở Great Lakes.

Cô tới đây để khám phá những bí mật của người đàn ông được ba mẹ cô thuê để giữ cô được an toàn nhưng ngôi nhà chẳng tiết lộ chút gợi ý nào, vậy tại sao cô vẫn còn ở đây?

Bởi vì cô không muốn rời đi.

Gió bắt đầu nhanh hơn vì cô đã tới vùng nước sâu của hồ, rồi cô để cho thuyền tự trôi theo những con sóng. Cô thả lỏng hai tay một chút rồi chà nhẹ lên hình xăm gai máu. Cô không biết mình đang là ai nữa. Sản phẩm của một tuổi thơ hỗn loạn? Đứa trẻ mồ côi phải nhận lấy trách nhiệm chăm sóc đứa em gái bé bỏng của mình? Một đứa trẻ nổi tiếng – một thành viên trong gia đình tượng trưng của Mỹ? Cô đã từng là một học sinh gương mẫu, một người hoạt động xã hội tận tụy và cô cũng là một người vận động hành lang xuất sắc. Cô đã huy động được rất nhiều tiền ủng hộ cho những mục đích có ích cho xã hội và xúc tiến đưa ra những đạo luật đã thay đổi cuộc sống của nhiều mảnh đời. Bỏ qua việc cô bắt đầu trở nên không thích công việc này ra sao. Gần đây nhất là khi cô là một cô dâu loạn trí bỏ lại người đàn ông định mệnh của đời mình lại rồi bỏ trốn.

Đứng giữa công việc, gia đình và quá trình chuẩn bị cho đám cưới của mình, cô quá bận rộn để dành thời gian nhìn lại chính mình muốn gì. Bây giờ cô đã có thời gian để làm việc đó, cô không thích cái cách nó ảnh hưởng tới suy nghĩ của cô nên cô quay thuyền lại và trở về ngôi nhà. Cô đang trèo thuyền ngược dòng và cô cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa nhưng nó làm cô cảm thấy ổn.

Cô đã gần tới được bến tàu nên dừng lại để nghỉ.

Đó là lúc cô nhìn thấy một hình dáng cô độc đứng ở phía cuối bến tàu.

Những điểm đặc trưng của anh không quá rõ ràng nhưng cô có thể nhận ra được hình bóng đó ở bất cứ nơi nào. Bờ vai rộng và hông hẹp. Đôi chân dài săn chắc được sinh ra để vận động thể thao và mái tóc bị gió thổi tung của anh.

Trái tim cô bắt đầu đập mạnh. Cô cố trì hoãn việc quay lại bờ bằng cách rẽ con thuyền để kiểm tra một cách không cần thiết những cái tổ của hải ly, rồi sau đó là xem xét một thân cây bị rơi xuống nước. Chầm chậm chầm chậm. Cô cố gắng khiến mình bình tĩnh lại.

Đáng lẽ ra anh không bao giờ nên hôn cô ở sân bay Memphis. Không bao giờ nên nhìn cô cái kiểu đó. Nếu anh không hôn cô – không nhìn cô với tất cả những cảm xúc hỗn độn khuấy tung trong ánh mắt như vậy – có lẽ cô đã trở về Washington – trở về với công việc của cô – và anh sẽ không là gì đối với cô hơn một người tình một đêm.

Càng tới gần anh hơn, cô càng cảm thấy giận dữ, không chỉ là giận dữ với anh mà còn là với chính bản thân cô. Sẽ ra sao nếu anh nghĩ cô đuổi theo anh? Nó hoàn toàn không phải là sự thật nhưng nhìn bề ngoài thì đúng là cô đã đuổi theo anh tới đây.

Cô thả cho chiếc kayak trôi tới khi chạm bờ. Bờ biển sỏi đá khiến cô gặp khó khăn trong việc mang chiếc thuyền lên bờ, cho tới khi thời tiết vẫn còn tốt như hôm nay, cô thường buộc nó vào bậc thang. Nhưng hiện tại thì cô chẳng biết phải làm như thế nào nữa. Thay vào đó, cô buộc chiếc thuyền không chắc chắn – thậm chí là quá lỏng lẻo – vào một chiếc cọc.

Cuối cùng cô cũng ngước lên nhìn anh.

Bóng anh to lớn phủ lên cô. Anh mặc bộ đồng phục tiêu chuẩn của mình với quần bò và áo phông, chiếc áo này có hình ảnh của phù hiệu Sở Cảnh sát Detroit. Cô nhìn anh, nhìn gò má cao, sống mũi ương ngạch kia, nhìn đôi môi mỏng và môi mắt xanh sắc lẹm. Anh trừng trừng nhìn xuống cô.

“Cái quỷ gì với tóc của em vậy? Và em đang làm cái gì ngoài hồ một mình như thế? Chính xác thì em nghĩ ai sẽ cứu em nếu em rơi xuống nước?”

“Hai tuần của anh đã chấm dứt rồi,” cô cãi lại, “vì thế nên anh không còn phải lo về bất cứ thứ gì nữa. Giờ tôi sẽ đánh giá cao nếu anh giúp thôi leo lên. Tôi bị chuột rút rồi.”

Anh đáng lẽ ra nên hiểu điều này sẽ tới. Nhưng anh chỉ biết về Lucy, không phải Viper. Anh bước tới mép bến thuyền, một con cừu non sẵn sàng lên thớt, và với tay xuống cho cô nắm lấy. Cô túm lấy cổ tay anh – cố gắng hết sức – và rồi, với tất cả sức lực mình có, cô kéo anh một cú thật nhanh và mạnh.

Chết tiệt. Anh lao thẳng xuống nước. Cô cũng vậy, nhưng cô chẳng quan tâm. Cô chỉ quan tâm xem trả thù anh bằng bất cứ cách nào mình có thể.