Thích Khách - Thẩm Nhạn

Chương 30




“Vương gia… Là thiên cẩu nuốt mặt trời!”

Chẳng kịp thông tri, thư đồng chạy ào vào thư phòng như con trâu hoang xông bừa đâm ẩu. Bức rèm bị đâm ra rồi lại rủ xuống, trân châu oáng ánh va chạm với nhau phát ra tiếng vang hỗn loạn nhỏ vụn.

Giang Đô vương đang nghị sự cùng phụ tá, nghe vậy lấy làm kinh hãi, bảo thư đồng mở cửa sổ ra.

Trời đen như sơn, xa xa loáng thoáng vọng tới tiếng dân chúng kêu than.

Giang Đô vương mừng rỡ: “Hay lắm, trời cũng giúp ta!”

Lần cuối thiên cẩu nuốt mặt trời là vào hơn bảy mươi năm trước, đúng lúc gặp chiến sự, Khâm thiên giám dâng tấu đề nghị tạm hoãn xuất binh đi tiểu quốc Tây Vực, hoàng đế tại vị khi đó độc đoán chuyên quyền, mắt điếc tai ngơ. Ai ngờ không bao lâu sau khi trời sinh dị tượng, tinh binh chết sạch tại Tây Vực, hiếu chiến nhiều năm, quốc khố trống rỗng, một khi chiến bại, người ngã ngựa đổ. Dân chúng lầm than, thậm chí còn xuất hiện vài cuộc khởi nghĩa của dân loạn, hoàng đế bất đắc dĩ hạ chiếu tự hặc, tiếng xấu ngàn thu.

Gương sáng ngay trước mắt, thế cục triều đình tất sẽ phải hỗn loạn một phen. Không khéo sao thành chuyện, Giang Đô vương muốn phản, đã có sẵn danh nghĩa, chỉ tiếc…

Nếu dị tượng diễn ra vào hôm qua thì đã tốt hơn.

Võ công trong thiên hạ, duy mau bất khả phá. Chuyện bức vua thoái vị như lửa sém lông mày, Giang Đô vương vỗ bàn, định ngay trong tối nay.

Chuyện xảy ra khẩn cấp, cũng may y mưu đồ nhiều năm, đã sớm có chuẩn bị. Thủ lĩnh của cấm binh là nằm vùng Giang Đô vương cài vào bên cạnh hoàng đến, giờ Tý đêm nay sẽ mở rộng cử cung đã tháo khóa đón ba ngàn tư binh của Giang Đô vương vào. Theo luật, tư binh của thân vương không được quá ba trăm, bốn thành tư binh của y được nuôi âm thầm ở Giang Đô, sáu thành còn lại đều là đệ tử Vô Nhai Tông.

“Vương gia,” Thôi Thanh Giang hỏi, “Sau khi sự thành, phải bố cáo thế nào với thiên hạ?”

Giang Đô vương chắp tay đứng trước cửa sổ: “Sáng nay Tạ tướng được phụ hoàng triệu vào cung?”

Thôi Thanh Giang gật đầu: “Vốn Đại lý tự đã định tội, cha con Tạ tướng xử trảm sau thu, vợ và con gái sung kĩ, bảy mươi hai nhân khẩu còn lại của nhà họ Tạ lưu đày Quỳnh Đài. Ai ngờ đêm qua tiệc mừng thọ vừa tan, bệ hạ bỗng truyền khẩu dụ cho gọi Tạ tướng trong ngục vào cung, đến nay chưa ra.”

Tạ tướng ngã đài quá nhanh, trong đó có không ít mờ ám, Giang Đô vương cấp thiết cầu thắng, khó tránh khỏi lộ đuôi hồ ly. Khi ấy hoàng đế thịnh nộ trước tội lớn Tạ tướng phạm phải nên không tra cứu, hiện giờ triệu tội thần tới gặp, chỉ e đã suy nghĩ kĩ lại.

“Vậy lấy…”

Giang Đô vương thoáng ngừng, chỉ thấy bầu trời tối mịt bỗng lộ ra một đường viền vàng kim hình bán nguyệt, sáng chói mắt. Viền vàng càng lúc càng rộng, biến thành một mảnh vòng cung vàng kim, không bao lâu sau, nửa mặt trời hiện ra.

Thiên cẩu lùi bước, nắng gắt như xưa.

Xa xa loáng thoáng vọng tới tiếng dân chúng hoan hô.

Bàn tay chắp sau lưng năm chặt thành quyền, Giang Đô vương nhấn từng chữ: “Vậy lấy ‘Xin giết Tạ tặc, giữ danh minh quân’ làm hiệu.”

Hơn ngàn người giang hồ vào thành, canh phòng cổng thành không thể không biết, khó tránh bứt dây động rừng, ngoại trừ một số ít đệ tử tinh anh đã lục tục vào Lạc Dương, đệ tử Vô Nhai Tông còn lại đợi hết ở ngoài thành đợi lệnh. Tô Ngạo ở lại chủ trì đại cuộc, để Tôn Chính Hạc ra khỏi thành tiếp ứng đệ tử tông môn.

Phố chợ náo nhiệt đông kịt chen chúc, xôn xao ồn ào, nam nữ gái trai tấp nập rời nhà lên phố, trên mặt đều là niềm vui tai qua nạn khỏi.

Muôn người đổ xô ra đường, đám đông như một tấm lưới dệt kín kẽ, thân ở trong đó, dẫu là tuyệt thế cao thủ cũng nửa bước khó đi. Tôn Chính Hạc buộc phải rời đường cái, đi vòng qua ngõ hẻm.

Đối diện chạm mặt một cô gái áo vải đầu đội mũ mành, trên tay áo thêu đỗ quyên đại đóa.

Ngõ hẻm chật hẹp, Tôn Chính Hạc nghiêng người tránh, đối phương cúi đầu đi tới, bước chân vội vã, như chẳng chú ý tới y mà đâm thẳng tới. Mắt thấy hai người sắp va vào nhau, tiếng chuông cảnh giác réo gắt trong đầu y, xoay người lệch hẳn sang một bên.

“Đinh!”

Mũi dao đụng vào tường đá, phát ra tiếng giòn giã, cô gái ngẩng đầu, sa đen che mặng rủ xuống từ mũ mành tản ra dọc theo sống mũi tới hai gò má.

Tôn Chính Hạc đang ôm vết thương sau hông, trợn trừng mắt: “Là ngươi!”

Y đã thấy gương mặt này mấy lần, toàn thể Vô Nhai Tông đều khắc ghi nó trong tâm khảm: Mắt mày nhạt như nước, ngũ quan cân đối, chẳng chút diễm lệ choáng ngợp, nhan sắc gân gà ăn không ngon bỏ thì tiếc, nếu không quan sát cẩn thận thì có lẽ nhìn rồi quên ngay.

Phùng Thiếu Mị thu bàn tay bị tường đá phản lực tê rần, sải chân đứng tấn bày thế, dao mổ cá giơ ngang cạnh mắt phượng hẹp dài: “Hoài lão gia tử cũng chỉ đến thế, chẳng biết Tôn tiền bối có trò giỏi hơn thầy?”

Tôn CHính Hạc buông tay bịt vết thương, lấy khăn gấm ra lau máu trên tay, thuận tay vứt đi.

“Chỉ là hạng nữ lưu mà thôi, chẳng qua dựa vào phô trương nhan sắc nên mới thuận lợi đánh lén chứ có mấy phần công phu là thật?” Y rút cặp mai hoa câu giắt bên hông ra, “Lão phu không tới tìm ngươi ngươi lại tự mình đến cửa, cũng tốt, trước khi tông môn rực rỡ vinh quang, để lão phu thay sư phụ quá cố báo thù.”

Gió mạnh ập tới, Phùng Thiếu Mị nghiêng đầu tránh mai hoa câu, búi tóc bung ra, mũ mành đội trên đầu bị chém xuống, rơi “bộp” xuống đất.

Né tránh đòn đánh của đối phương, nàng chỉ thủ không công.

Con hẻm chỉ rộng chừng hai người, Tôn Chính Hạc đã quen ra chiêu trong không gian rộng mở, nhất thời bó tay bó chân. Phùng Thiếu Mị tránh né không chiến, song lại cứ quấn chặt lấy, tốc độ nàng tiếp chiêu biến chiêu quá nhanh, khó lòng vùng thoát, khiến y tiến thoái không đặng. Hơn ngàn đệ tử Vô Nhai Tông ngoài cổng thanh đang đợi tin tức của y, thành bại phục hưng tông môn chỉ trong hành động này, binh quý ở thần tốc, không chấp nhận trì hoãn, trong lòng không khỏi nóng nảy.

Cặp mai hoa câu lực đạo có thừa, linh hoạt lại không đủ, mười mấy lần tung móc đều hụt.

Nóng nảy dâng trào, Tôn Chính Hạc đang sải bước về phía trước, vung cặp móc về phía người đàn bà thì bất đồ, nàng lộn ngược ra sau, xoay lưng phóng lướt qua đỉnh đầu y, đuôi tóc đen xõa xượi vụt qua trước mắt y, lật mình rơi xuống đất. Tôn Chính Hạc kinh hãi, vội vàng vặn người trong không trung, cặp móc giao nhau chắn trước người.

Phản ứng rất nhanh nhưng vẫn chậm nửa bước, dao mổ cá “phụt” một tiếng đâm xuyên qua lồng ngực.

Tôn Chính Hạc ngã xuống cạnh chiếc mũ mành bị chém thành hai nửa, môi run rẩy hết mở lại đóng, như con cá mở mang ra hô hấp.

Phùng Thiếu Mị cúi người, ghé vào tai y, nhẹ nhàng nói: “Tôn tiền bối, tiểu nữ không hiểu những cái khác, chỉ thông suốt một đạo lí – nước chát đông đậu phụ, vật này khắc vật khác.”

Lấy sở trường của mình công sở đoản của người khác, xưa nay nàng chưa bao giờ đọ sở trường với đàn ông.

Móc tẩu thuốc làm từ trúc tương phi trong ngực áo ra, Phùng Thiếu Mị dùng ống lửa châm sợi thuốc lá, ghé vào miệng hút một ngụm. Mùi vị gay mũi xộc thẳng vào cổ họng, bỏ tẩu thuốc ra, nàng che miệng ho khùng khục.

Xem Hoắc Hạnh Nhi nuốt mây nhả khói khoan khoái nhường nào mà sao làm thế nào nàng cũng chẳng học được.

Cảm giác cay rát trong họng dịu xuống, Phùng Thiếu Mị mân mê đốm lệ trên cán tẩu, khom người đặt tẩu thuốc lên ngực thi thể bên chân.

Thu dao mổ cá lại, giơ tay buộc mái tóc đen xõa trên vai, nàng chẳng ngoảnh lại đầu.

***

Sắp đến giờ Tý, chờ mãi Tôn Chính Hạc không tới, mí mắt phải của Tô Ngạo máy không ngừng, chắp tay đi qua đi lại.

Trên đường có hai phu canh đang xách đèn lồng đi tuần, một người tay cầm thanh la, một người tay cầm mõ, thanh la đồng vang một tiếng, mõ trúc gõ hai tiếng: “Choang… Đốc! Đốc!”

Đánh rất có nhịp điệu, một chậm hai nhanh, đã là canh ba.

Vẻ mặt phu canh mệt mỏi, gõ mõ trúc cái có cái không, dài giọng hô: “Đêm khuya người vắng, đóng kĩ cửa nhà…”

Vừa dứt lời, cổng cung đóng chặt bỗng hé ra một khe.

Thạch Lãng ngẩng đầu lên: “Sư huynh, đến giờ rồi.”

“Rắc” một tiếng, hòn đá dưới chân Tô Ngạo vỡ tan, y dừng bước.

Tư binh Giang Đô vương nuôi sau lưng đã sẵn sàng phát động từ lâu, hơn một ngàn tám trăm đệ tử Vô Nhai Tông và Tôn Chính Hạc thì lại không một ai xuất hiện.

Mũi tên rời cung không thể quay đầu.

Tô Ngạo nhắm mắt rồi lại mở ra: “Đi!”

Một ngàn hai trăm tinh binh im ắng nối đuôi nhau đi vào cổng cung mở rộng, khẽ khàng đánh ngã cấm binh trong cung, gió nhẹ sóng nhỏ. Tiến lên được một nửa thì chạm trán quân địch, quân số của đối phương nhiều áp đảo, binh mã dưới quyền Giang Đô vương vừa đụng độ đã vỡ.

Tô Ngạo kinh ngạc: “Không phải cấm binh đã điều đi hơn nửa rồi sao?”

Thạch Lãng chạy lên trước loạn quân rồi chạy về, nói: “Sư huynh, không phải cấm vệ trong cung mà là tư binh của thái tử.”

Bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình ngay sau.

Tô Ngạo giậm chân thét dài: “Rút lui…!”

Tiếng huýt sáo vang khắp nửa cung điện, dư âm nổi lên từng đợt.

Tiếng vọng hãy còn, đằng sau bỗng xuất hiện tư binh của thái tử đã mai phục từ sớm, ước chừng hơn ngàn người. Binh mã dưới quyền Giang Đô vương tiến thoái lưỡng nan, trước sau giáp công, chưa đến nửa giờ đã chẳng còn dư lại bao nhiêu, những người còn lại đều bị bắt sống.

Trên nóc cung điện sừng sững bên đường, Thạch Lãng và Tiết A Ất đứng sóng vai, cúi đầu xem cảnh cung loạn.

Tô Ngạo còn sống, y đang vùng vẫy giữa mấy ngàn quân địch như hạt thóc trong biển, trường đao vung múa, nửa người đẫm máu. Người đứng đầu võ lâm sau Hoài Vô Nhai, thủ lĩnh Vô Nhai Tung, dẫu lực bạt núi non, sức của một người chung quy cũng đến lúc cạn.

Võ công cái thế phỏng có ích gì?

Sau nửa giờ, tư binh của thái tử rút lui như thủy triều, để lại hài cốt đầy đất, đi về phía tẩm cung hoàng đế. Giang Đô vương đã dẫn đầu mưu nghịch, thái tử đương nhiên sẽ không bỏ qua loạn cục như vậy.

Tiết A Ất nhảy xuống nóc nhà, đi tới trước cái xác bị đâm thủng lỗ chỗ của Tô Ngạo, cúi người nhặt trường đao trong tay y.

Thạch Lãng bám theo sau, sửng sốt: “Đây là…”

“Vốn là quà biếu của cha tôi tặng Hoài lão gia tử nhân đại thọ sáu mươi,” Tiết A Ất tháo hộp đao sau lưng xuống, bỏ đao vào trong, “Sau khi Hoài lão gia tử bỏ mạng, Tô Ngạo lấy làm của riêng.”

Vốn tưởng là băng sinh từ nước lạnh hơn nước, ngờ đâu chỉ là tu hú chiếm tổ chim khách. Khi ấy nghèo túng bần hàn, hai miếng vàng lá đổi di vật của Tiết Côn Ngọc gửi trong tay Tô Ngạo năm tháng, cũng xem như đáng giá.

Đeo hộp đao lên, Tiết A Ất cất bước đi ra ngoài cung, đi được chừng mười bước thì bị gọi lại: “A Ất.”

Hắn quay đầu, Thạch Lãng đứng tại chỗ, không đuổi theo, từng là đồng môn, hắn còn phải nhặt xác cho Tô Ngạo. Hai tay ôm quyền thi lễ: “Quen biết anh là may mắn của Thạch mỗ, núi không dời nước dời, tương lại còn dài, chúng ta về sau gặp lại.”

Tiết A Ất vén vạt áo đáp lễ: “Về sau gặp lại.”

***

Trước khi đệ tử Vô Nhai Tông vào cung, Thôi Thanh Giang đã mượn cớ rời khỏi Giang Đô vương phủ. Trong cung đại loạn, dân chúng tầm thường dẫu khó thăm dò được kết quả, trong lòng cũng có cảm giác. Trấn an xong mẫu thân và chị dâu đang hoảng hốt bất an, hắn về phòng thay quần áo.

Trong phòng đèn đuốc sáng choang, trên bàn dài bày chỉnh tề hơn mười món ăn Triều Sán, hãy còn bốc hơi nóng. Thúy Thúy mặc áo váy hôm về nhà lại mặt, cổ áo rất cao, che kín hơn nửa cần cổ, cô ngồi ngay ngắn trước bàn, thất thần.

Nghe thấy tiếng bước chân, Thúy Thúy rùng mình, ngẩng đầu khẽ mỉm cười với hắn.

Thôi Thanh Giang liếc đồng hồ nước một bên, đã là canh năm.

Hắn xắn ống tay áo, ngồi vào bàn, cầm đũa lên: “Sao còn chưa nghỉ ngơi?”

Thúy Thúy đứng dậy gắp thức ăn cho hắn: “Phu quân trắng đêm vất vả, thiếp lo lắng khó an, trằn trọc trở mình, bèn dứt khoát dậy đợi phu quân.”

Thức ăn xuống bụng, Thôi Thanh Giang cau mày: “Ai làm vậy?”

“Không phải phu quân chê đồ ăn Giang Đô quá ngọt à?” Hôm qua thiếp học mẹ làm đồ ăn Triều Sán,” Thúy Thúy gắp cho hắn cái bánh xuân, “Phu quân nếm thử xem thế nào?”

Thôi Thanh Giang đứng dậy đi lấy lọ muối đặt giữa bàn, rắc lên bánh xuân: “Vị hơi nhạt.”

Thúy Thúy cầm lấy lọ muối: “Để thiếp.”

Thôi Thanh Giang chợt tóm cổ tay cô, một vết sẹo nhỏ dài mới đóng vảy kéo dài từ cổ tay vào trong áo: “Bị thương do đâu?”

Thúy Thúy rụt vội tay về như bị phải bỏng, mím chặt môi: “Hôm qua không cẩn thận bị ngã, để phu quân lo lắng rồi.”

Ăn cơm xong, Thôi Thanh Giang toan ra cửa vào cùng, bị Thúy Thúy cản lại: “Phu quân ở bên ngoài đã hai ngày hai đêm, phong trần mệt nhọc, không bằng tắm rửa rồi hẵng đi?”

Để Thúy Thúy hầu hạ cởi y phục, Thôi Thanh Giang nhảy vào thùng gỗ chứa đầy nước nóng, chợt thấy không đúng.

Lấy tay làm muôi múc chất lỏng trong thùng lên, đậm đặc dính nhớp: “Tiết thị, đây không phải là nước, nàng đổ cái gì vào?”

Không nghe thấy tiếng đáp.

Thôi Thanh Giang cau mày: “Tiết thị?”

Thúy Thúy cất giọng trả lời: “Tới đây.”

Cô bưng giá cắm nến vào, nhổ một cây nến bạch đang cháy lên ném vào thùng gỗ. Ngọn lửa chạm vào chất lỏng trong đó, “đùng” một tiếng bốc thành ngọn lửa cao nửa người, Thôi Thanh Giang gào rống thảm thiết.

Mượn cớ nấu thức ăn Triều Sán cho Thôi Thanh Giang, Thúy Thúy tìm toàn bọ dầu sau bếp lại.

Ngọn lửa hừng hực cháy trên làn da tẩm dầu, Thôi Thanh Giang bị đốt thành người lửa, thần gào quỷ khóc. Lảo đảo bò dậy, nhào về phía Thúy Thúy, giọng khản đặc như nồi hơi mẻ nấu nước: “Tiết thị… cô điên rồi…”

Thúy Thúy cười với hắn, nụ cười rạng rỡ như lúc gặp nhau trước một bàn món ngon đêm nay, trên khuôn mặt có nét hồn nhiên của thiếu nữ, ngây thơ mà tàn nhẫn.

Lúc ngọn lửa thiêu thân, trong lòng Thôi Thanh Giang bỗng hiện lên một câu: Chim cùng thì mổ, thú cùng thì húc, người cùng thì lừa.

Tức nước vỡ bờ, là hắn khinh suất.

Không ngờ Thôi Thanh Giang hắn bày mưu lập kế cả đời, tính toán từng bước, lúc công lớn sắp thành thì lại toi mạng trong tay một nữ lưu bé nhỏ, quả thực nực cười khôn cùng.

Lúc người lửa khó khăn lắm mới gần chạm được vào Thúy Thúy, cô lùi lại một bước, đóng cửa, sau lưng “ầm” một tiếng, như thuyền ô bồng không kịp hãm, đâm mạnh vào đá ven bờ.

Tiếng kêu thảm thiết dần tắt, sóng nhiệt đập vào mặt.

Thúy Thúy trở lại buồng trong, xách bọc hành lí đã thu xếp từ sớm lên, đội mũ mành, rảo bước ra khỏi phòng. Tất cả a hoàn phục vụ đều đang hầu hạ mẹ chồng và chị dâu ở nhà trước, chưa nhận ra có gì khác thường, cô nhanh chóng rời đi từ cửa hông.

Đường phố vắng lặng, như đồng hoang vừa bị lửa đốt.

Thúy Thúy nhớ nhà, cô muốn trở lại bến đò Qua Châu, tiếp tục làm con gái người đánh cá của mình.

Đáng tiếc không đợi được mẫu đơn Lạc Dương nở.