Thủy Thần

Chương 8: Tà đế




Ban đêm ở ma giới…

Đèn lồng muôn sắc muôn kiểu được treo sáng rực khắp cả thành U Đô, đình đài lầu các đan xen nhau nối dài trên con đường lợp đá ngay ngắn, rất nhiều gian hàng được bầy bán trên phố vô cùng náo nhiệt, yêu ma qua lại tấp nập, người thì hiện luôn nguyên hình, người thì nữa người nữa yêu, khung cảnh phồn hoa nhộn nhịp ấy chẳng khác gì nhân gian, U Đô được tái hiện lại một cách chân thật nhất, cũng đầy đủ nhất, sợ rằng còn tuyệt mĩ hơn trần thế kia mấy phần. 

Còn nhớ một vạn mấy trăm năm trước, ma giới giống như một nơi thâm sơn cùng cốc, ngày thì hẻo lánh, tối thì âm u đáng sợ, một nơi chỉ toàn sự chết chóc gắn liền với cả tin đồn một khi đã vô tình bước vào sẽ chẳng thể toàn thây mà trở ra, thần dân nơi đó luôn phải nhận lấy sự dị nghị khinh thường của thiên giới, sự dè chừng của lục giới, mất mát hơn cả chính là tang lễ lớn nhất của Ma Tôn và Nhị Điện. Ma tộc sau trận đại chiến kinh thiên động địa với thiên tộc năm đó tưởng chừng như sụp đổ, yêu ma phần lớn đều rời bỏ quê hương lưu lạc đến nhân thế trốn tránh sự dòm ngó, ma giới vốn hẻo lánh giờ đây càng thêm hẻo lánh. Cho đến một ngày Tà Đế Dương Vương lên ngôi trị vì, chỉ vọn vẹn một năm ngắn ngủi, Ma Tộc vực dậy với thành quả đáng kinh ngạc cả về binh lực lẫn sự thịnh vượng. Tà Đế cho phép mở rộng giao lưu buôn bán cùng Điểu Tộc, Yêu Tộc và Thanh Khâu cũng như giữ vững hiệp ước nước sông không phạm nước giếng với Thiên Tộc. Thần dân Ma Tộc lưu lạc mọi nơi cũng lần lượt kéo về, U Đô từ vẻ hoang vu ban đầu trở thành nơi phồn hoa bậc nhất vang vọng khắp tứ hải bát hoang khiến Thiên Tộc cũng phải kinh ngạc với sự vực dậy không thể ngờ này.

Tà Đế khiến tất cả con dân Ma Tộc đều kính trọng hắn, khiến họ một lòng một dạ xem hắn như vị thần tối cao nhất, cũng là tín ngưỡng duy nhất của họ, đó là điều mà từ thuở hồng hoang đến nay chưa một Ma Tôn nào có thể làm được. Điều tự hào nhất của họ chính là làm con dân Ma Tộc, chính là có được một vị đế vương như Tà Đế.

Lại nghe những lời đồn truyền tai nhau rằng, Tà Đế là người sở hữu nhan sắc mà khắp tứ hải bát hoang này không một ai sánh bằng cũng như không thể nào tin nổi được sự ưu ái của tạo hóa, sự tồn tại của hắn là chứng minh sống duy nhất cho sự bất công của thiên địa này. Những người may mắn được thấy dung mạo của hắn bất kể là nam hay nữ đều như si mê đến khắc cốt ghi tâm, nhưng tiếc là không biết vì nguyên do gì mà một ngàn năm trước hắn lại dấu đi nhan sắc thiên phú ấy, lại không biết tại sao hắn lại luôn để trống ngôi vị đế hậu bên cạnh, còn tỏ ra vô cùng chán ghét xa lánh đối với nữ nhân.

“…”

Ánh trăng mờ nhạt tịch mịch rọi đến những cánh hoa lê trắng bay tan tác trong gió, U Minh Điện mang một khung cảnh bình yên khác hẳn với chốn phồn hoa ngoài kia của U Đô, hai chiếc đèn hoa treo bên mái đình khẽ đung đưa theo gió khiến ngọn lửa yếu ớt bên trong nó cũng chực chờ muốn tắt đi. Trong màn đêm tịch mịch cứ ngỡ sẽ kéo dài vô tận ấy bỗng dưng vang lên tiếng tiêu ngọc thanh nhã cô độc.

Na tắc ngoại đích phong vũ phồn hoa thanh

Bất kinh ý triển chuyển nhất sinh,

Hồi đầu kháng trứ phong cảnh thủy chung vi nhĩ đẳng.

Na phạ ái nhĩ thị kiếp mộng dịch lãnh,

Nguyện bồi nhĩ lãng tích nhất sinh.

Na thanh sơn giá cô thành,

Nhân vi nhĩ nhi biến đắc bất đồng.(1)

Tà Đế đứng dưới ánh trăng thổi lên một khúc hồng trần triển đầy bi thương, áo lụa mỏng lỏng lẻo để lộ từng đường nét rắn chắc trên thân thể trắng như bạch ngọc của hắn, suối tóc đen tuyền dài ngang lưng tùy tiện tung bay phiêu dật trong gió đêm, khiến hắn tựa như một thánh nhân đầy thoát tục cũng đầy tà mị câu hồn, chỉ tiếc cho bóng lưng cao lớn ấy lại trông vô cùng cô độc trải dài trên thềm đá lạnh lẽo dưới chân.

Hắn là một người cao quý, là người có tất cả mọi thứ mà người khác luôn ướt ao thèm khát, nhưng những điều ấy lại chẳng khiến hắn có chút nào gọi là thỏa mãn, chẳng hề có chút gì gọi là khoái lạc, cơ thể như bị ai đó khoét một lỗ thật sâu khiến lòng trở nên trống rỗng lạnh lẽo, cảm giác như hắn đã vô tình quên đi điều gì đó mà đối với hắn vô cùng trân quý, hắn cũng không biết tại sao bản thân hắn lại như thế. Chỉ biết từ lúc hắn tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài của ngàn năm trước thì bản thân đã mang nặng cái cảm giác ấy, cái cảm giác lạnh lẽo trống không mà mọi thứ trước mắt đều trở nên vô vị, cảm giác ngóng đợi ai đó cũng bắt đầu từ lúc ấy. 

Mỗi một đêm hễ hắn nhắm mắt đều sẽ mơ thấy bóng lưng của một nữ tử đứng trong vườn hoa lê nở rộ, một thân bạch y thuần khiết như tuyết đầu mùa, như hòa lẫn giữa rừng hoa trắng xóa, nàng ngoảnh đầu mỉm cười ôn nhu nhìn hắn nói “ta sẽ quay lại”, nụ cười mà đối với hắn không có thứ gì khắp thiên địa này có thể sánh bằng, câu nói mà không một ai có thể khiến hắn trông chờ hy vọng nhiều đến mức không tưởng. Hắn muốn bước đến ngăn nàng đừng đi, giữ nàng lại cạnh hắn, nhưng đôi chân không nghe lời cứ đứng bất động ở đấy nhìn nàng đi xa dần rồi tan biến trong màn mưa hoa kia, trái tim hắn chùng xuống mỗi lúc một sâu rồi như đau đến mức không thể thở nổi nữa mà giật mình tỉnh mộng, tỉnh mộng rồi lại chẳng thể nhớ nổi gương mặt nữ tử trong giấc mộng ấy trông như thế nào. 

Một vạn năm, hắn cứ thế chờ nữ tử vô hình vô ảnh mà hắn không thể nhớ được ấy một vạn năm, sự trống rỗng mang theo tương tư lạ thường ấy bám theo hắn dai dẳng những một vạn năm.

Thanh tiêu ngọc rời khỏi cánh môi mỏng anh đào trả lại sự tĩnh lặng cho màn đêm, Tà Đế vẫn đứng đấy, giữa vườn hoa lê trắng thanh tịnh duy nhất nơi U Đô, chiếc mũi cao thẳng tấp bị che đi một nửa bởi chiếc mặt nạ sala dát vàng, đôi con ngươi màu xám tro đầy tà mị như ẩn như hiện sau lớp mặt nạ ấy nhìn thẳng lên bầu trời đầy sao.

“Chuyện ta sai ngươi làm tới đâu rồi?”

Tà Đế chợt cất tiếng khiến nữ nhân đang thẫn thờ, tay cầm áo choàng đứng cạnh lan can đằng sau hắn giật mình sực tỉnh, nàng mau chóng cất đi vẻ mặt không an phận ấy rồi nhanh chân bước đến chỗ hắn, cúi đầu hành lễ, nói: “Mị Giả theo lệnh Vương đã chuyển lời đến Quách Trứ đại nhân, cho phép việc mở rộng khu vực phía tây làm doanh binh, ngài ấy trông có vẻ rất háo hức.” Đoạn dùng áo choàng lông hạc khoác lên người Tà Đế, nói tiếp “Ngoài trời gió lạnh, vương đừng nên ăn mặc phong phanh như vậy.”

“Binh sĩ hiện giờ như thế nào?”

“Số lượng binh của ta giờ cũng đã tăng lên con số mấy vạn, đều là những binh sĩ được Hạ Lan đại nhân đích thân huấn luyện đặc biệt.” 

“Ừm.”

“Người… Lại nhớ đến nữ nhân ấy ư?” Mị Giả lớn gan lên tiếng hỏi nhưng Tà Đế cứ im lặng chẳng ừ hử trả lời, nàng mím chặt môi nhìn bóng lưng hắn từ phía sau, đau lòng nói: “Sao người lại tự dày vò bản thân chỉ vì một giấc mộng trong khi nữ nhân ấy vốn không hề tồn tại, mà cho dù nữ nhân ấy có tồn tại thật sự thì cũng không đáng cho người phải vì nàng ta mà chờ đợi thế này, nàng ta vốn chưa bao giờ đến tìm người thì tại sao người phải hoài công phí sức nhớ nhung một kẻ như thế, giấc mộng kia biết đâu chỉ là… Hộc” Mị Giả còn chưa kịp nói hết câu đã nhận ngay một chưởng văn người ra xa, máu tươi chợt trào ra nơi khóe môi.

“Tự bao giờ ngươi lại có gan xen vào chuyện của ta?”

Giọng nói âm lãnh của Tà Đế khiến Mị Giả bất giác run người, nàng cắn răng nuốt ngụm khí lạnh vào trong đoạn một tay ôm lấy ngực, một tay chống đất nửa quỳ nửa ngồi, nói: “Mị Giả biết sai, xin Vương trách tội.”

Tà Đế quay người, đôi con ngươi màu xám tro như sáng lên giữa màn đêm, hắn lãnh huyết nhìn Mị Giả quỳ dưới đất rồi hờ hững bước qua nàng, đi thẳng một mạch ra khỏi vườn hoa lê trở về thư phòng, để lại nàng một mình quỳ gối ở đấy mặc kệ gió lạnh. Bởi vì chưa được sự cho phép của hắn, nàng sẽ không dám đứng dậy. Là hắn đang phạt nàng vì tội không an phận, là bởi vì nàng lo lắng cho hắn, là bởi vì nàng đau lòng khi thấy hắn như thế.

Mị Giả biết Tà Đế ghét nhất chính là người lắm chuyện, biết hắn không thích bất kì ai lên tiếng dạy dỗ hay khuyên bảo hắn bất cứ điều gì bởi vì hắn vốn là bậc chí tôn luôn xem mình là đúng, và nhất là không thích ai nhắc đến nữ nhân vô thực ấy mặc dù chuyện đó chỉ có mỗi mình nàng biết. Nàng đã theo hắn từ lúc hắn còn là một tiểu ma vương cho đến khi hắn đứng đầu cả Ma Giới này, hắn trong ký ức của nàng là một người chỉ biết đến việc phải mạnh lên bằng bất cứ giá nào, bởi vì tham vọng trở thành người quyền lực nhất tứ hải bát hoang này là tâm nguyện duy nhất của hắn, cũng bởi vì người xem chữ ái là một thứ vô hữu vô năng như hắn vốn không thể nào để cho bất kì hạt bụi nào có thể vươn được vào mắt. Một người như thế bỗng dưng thay đổi chỉ sau một giấc ngủ dài khi lịch kiếp tu luyện, đôi mắt màu xám tro ấy giờ đây mang nặng vẻ tịch mịch chứa đựng nhân ảnh của ai đó.

Mị Giả còn nhớ rất rõ lần ấy khi Tà Đế tỉnh dậy, hắn cứ bất động nằm im trên giường không nhúc nhích cũng không hề mở miệng nói bất cứ gì, đôi mắt một màu tang thương cứ thế nhìn thẳng lên trần nhà trong vô định như đang nghĩ gì đó, lại như đang nhìn thứ gì đó khiến nàng và Đông Nô rất đỗi ngạc nhiên, điều đó khiến nàng cảm thấy sợ hãi và lo lắng, có vẻ như lần lịch kiếp này hắn đã trải qua chuyện gì đó mà bản thân vẫn còn vương vấn không buông bỏ được.

Ngày đăng cơ trị vì Ma Tộc, hắn xuất hiện với chiếc mặt nạ sala dát vàng che nửa mặt, một trong những món đồ cổ thuở hồng hoang mà Ma Tôn đời trước cướp được từ tay Thiên Đế, nhìn bề ngoài nó chỉ là một chiếc mặt nạ bình thường nhưng linh lực của nó thì lại không tầm thường chút nào. Bởi vì không có bất cứ một thuật chú hay nhãn thần nào có thể nhìn thấu được gương mặt thật sự của người đeo nó, Tà Đế chính là đã dùng nó che đi gương mặt yêu nghiệt của bản thân, cũng từ lúc đó hắn điên cuồng gây dựng lại Ma tộc theo ý của hắn, U Minh Điện cũng bị hắn thay đổi mọi thứ từ kiến trúc trong lẫn ngoài, cũng không biết tự lúc nào hắn lại có sở thích về hoa lê. U Minh Điện của hắn, khắp nơi không hề tồn tại một cành hoa ngọn cỏ nào khác ngoài những cây hoa lê đang nở rộ. Mỗi ngày như một thói quen, nàng lại thấy hắn đứng giữa vườn hoa lê như đang đợi ai đó khiến nàng càng lúc càng không giấu nổi sự tò mò. Cho đến một ngày khi nàng vô tình nghe hắn nói chuyện với ai đó, giọng có vẻ không được ổn khiến nàng lo lắng không yên phận mà đẩy cửa bước vào phòng hắn, đến khi quan sát mọi thứ quanh phòng vốn chẳng có ai ngoài ánh nến còn lay lắt trên bàn, nàng lại bất giác nghe hắn nói gì đó. Lúc ấy nàng mới ngớ ra rằng, thì ra hắn chỉ là đang nằm mộng mà thôi. 

Mị Giả tiến đến gần giường Tà Đế, đôi mắt đầy ưu tư nhìn hắn, nghe hắn gọi hai từ “Minh Nhi” dịu dàng đến nỗi khiến nàng nghe xong cũng phải giật mình bàng hoàng, hắn nói nữ nhân ấy đừng đi, đừng rời bỏ hắn và rồi mở mắt tỉnh dậy như vừa thoát khỏi cơn ác mộng, đôi mắt lại vô thức nhìn về một phía khiến nàng bị sự đột ngột ấy của hắn làm cho bất ngờ kinh sợ, mà nhanh chóng quỳ gối cúi gầm đầu xuống.

“Xin Vương tha tội, nô tì… Nô tì nghe có tiếng... Nô tì tưởng rằng có người lạ vào phòng nên đã vô phép vào, xin vương tha tội…”

“Ra ngoài.”

Giọng nói trầm thấp đầy băng hàn đấy như cắt ngang lời biện bạch của Mị Giả, nàng nuốt một ngụm khí lạnh, lén nâng mắt lên nhìn Tà Đế, thấy hắn vẫn nằm bất động trên giường, nàng mím môi đứng dậy đoạn cúi đầu lui nhanh ra ngoài.

Tà Đế chưa từng gọi tên một nữ nhân nào ngoài Mị Giả nàng, chưa từng tiếp xúc với nữ nhân nào như nàng, cũng chưa từng có nữ nhân nào có cơ hội được bên cạnh hắn lâu như nàng, vậy nữ nhân hắn gọi tên là ai?

Mỗi ngày trừ việc thiết triều nghị sự cùng các đại thần, tướng sĩ, còn lại toàn bộ thời gian hắn đều nhốt mình ở U Minh Điện mà không hề bước chân ra ngoài dù là nửa bước, mỗi đêm hắn đều ngủ không ngon giấc mà bất giác tỉnh dậy, đều sẽ đứng ở vườn hoa lê đầy ưu tư ngắm trời đêm, lại như đang đợi ai đó. Những biểu hiện đó của Tà Đế khiến Mị Giả nghĩ ngay đến cái tên “Minh Nhi” mà nàng từng nghe hắn gọi, chắc chắn là liên quan đến nữ nhân đó, nhưng điều khiến nàng cảm thấy kì lạ là hắn không hề rao tin tìm kiếm khắp lục giới, cũng không hề cho thuộc hạ đi tìm nữ nhân ấy, không để bất cứ bức họa của nữ nhân nào trong thư phòng, càng im lặng giữ kín bí mật chuyện này.

Lẽ nào nữ nhân kia đã không còn sống nữa? Có tìm cũng vô ích? Hoặc là nữ nhân ấy không hề tồn tại? Lẽ nào thật sự chỉ là một nhân ảnh trong mộng của hắn?

(1)Gió mưa ngoài thành âm thanh phồn hoa

Không tránh khỏi ân hận một đời

Ngoảnh lại nhìn quang cảnh vì đợi người không thay đổi

Chỉ sợ yêu người là mang giấc mơ lạnh lẽo

Nguyện một đời ở bên theo dõi người

Núi xanh đó Cô thành nơi này

Bởi vì người mà không thay đổi.

[Hồng trần triển]