Tiếu Ngạo Trung Hoa

Chương 14: Thiếu Thất Giả Cuồng Đương Ngọc Diện - Trịnh Sơn Nguyệt Dạ Khấp Thê Nhi




Nam Cung Giao không tống tiễn vì sợ ánh mắt lưu luyến của Cầm Đạm Thủy. Bọn chàng kéo đến Lâm gia trang để cáo biệt Chu Sơn đảo chủ Lâm Thu Bái.

Không thấy Bảo Thoa, Nam Cung Giao hỏi ngay:

- Lâm sư phụ! Vãn bối muốn được chào từ biệt lệnh ái.

Lâm lão cười khà khà:

- Con bé ấy đã đi Trực Lô thăm Đại di rồi! Nếu không thì lão phu đã bảo nó bắt gà làm thịt đã các ngươi.

Anh em họ Trịnh hăng hái ứng tiếng:

- Để bọn vãn bối làm cho!

Hai gã cùng Mộc Kính Thanh xuống bếp, để Nam Cung Giao hầu chuyện Lâm Thu Bá.

Lâm lão cười hỏi:

- Sao ngươi không giết Trương Phụ?

Nam Cung Giao liền kể lại mọi việc, chỉ trừ mối tình nồng cháy với Đoàn qúi phi. May mà chàng đã uống nước của món Hắc Cẩu Bát Bửu Thần, huống nên khí huyết hưng vượng, không hề hốc hác xanh xao vì mười đêm mây mưa nồng nhiệt!

Nam nhân độc thân và nghiện rượu thì thường có tài làm thức nhắm rất nhanh. Chỉ hơn khắc sau, ba món thịt gà rán, luộc, canh và cơm đã được dọn lên.

Giữa bữa, Lâm Thu Bái bỗng thở dài nói:

- Lão phu hiếu võ đến mức quên cả việc lập gia thất, năm ngũ thập mới lấy vợ, sinh ra được mình Bảo Thoa! Gần đây, lão phu nghe trong người không ổn, có lẽ là do hậu quả của việc ăn kỳ trân Hải Thượng Huyết Hoa thời trai trẻ. Muốn sống lâu, lão phu cần có ba viên Đại Hoàn đan của Thiếu Lâm tự! Vậy phiền Giao nhi và Thanh nhi mang thư đến núi Thiếu Thất gặp Phương trượng Bạch Vân thần tăng, xin hộ lão phu! Sau đó, Kính Thanh sẽ một mình mang về đây.

Nam Cung Giao vội đáp:

- Vãn bối xin tuân mệnh.

Và chàng quay sang bảo anh em họ Trịnh:

- Hai ngươi hãy về Kinh bằng đường Từ Châu, và giết gã Đông Thành Bá Vệ Cảnh giùm ta. Nhớ hành động êm thắm, tốt nhất là ngụy trang sao cho họ Vệ trông giống như đột tử hay tự sát!

Trịnh Tháo cười đanh ác:

- Công tử yên tâm! Thuộc hạ sẽ xiết cổ gã rồi treo lên, chẳng ai có thể nghi ngờ được!

Trịnh Mãng tiếp lời:

- Bọn thuộc hạ sẽ không quên đến thăm mộ Tiểu Lan cô nương và xem tình hình của thôn Giao Chỉ mới!

Nam Cung Giao hài lòng gật đầu, chưa kịp khen họ thì nghe Lâm lão nói:

- Chuyện đời như phong vân bất trắc, biết đâu lão phu mãn số trước khi linh đan luyện xong!

Lão phu không an tâm về duyên phận của Bảo Thoa nên muốn được ngươi gọi trước một tiếng nhạc phụ!

Nam Cung Giao thấy lão quá thiết tha, không nỡ từ chối, nhưng cố vớt vát:

- Lòng yêu thương của Trang chủ khiến vãn bối vô cùng cảm kích!

Tuy nhiên, vãn bối đã lỡ hứa nhường Lâm tiểu thư cho Mộc hiền đệ! Y cũng thầm yêu thương Bảo Thoa từ lâu, do mặc cảm xấu xí nên không dám thố lộ!

Lâm Thu Bái phì cười:

- Làm gì có chuyện ấy! Kính Thanh thuở nhỏ trèo cây té xuống, ngọc hành bị vỡ, đâu còn thiết tha với nữ nhân nữa?

Trịnh Mãng khoái trá cười vang:

- Thì ra việc công tử là thái giám! Hèn gì không có cọng râu nào, mông thì cong như đàn bà!

Trịnh Tháo đắc ý nói theo:

- Dường như tâm tính y cũng biến đổi, suốt ngày chỉ bám chặt lấy Nam Cung công tử!

Nam Cung Giao cũng rợn người thầm nghĩ:

- Bỏ mẹ ta rồi! Chẳng lẽ Kính Thanh ái nam, ái nữ, đã xem ta là chồng?

Mộc Kính Thanh thẹn quá hóa giận, vung tay tát vào mặt Trịnh Tháo rồi quay sang nghẹn ngào nói với Nam Cung Giao:

- Đại ca yên tâm! Tiểu đệ chẳng đến nỗi quái gở như vậy đâu? Nhưng nếu đại ca ghê tởm, tiểu đệ sẽ không bao giờ để đại ca nhìn thấy nữa!

Nam Cung Giao thấy mắt gã ướt rượt, lòng chàng cảm thương vô hạn, liền an ủi:

- Hiền đệ đừng nói thế! Dù ngươi có biến thành quái vật ta cũng vẫn yêu mến hết lòng!

Kính Thanh mỉm cười tha thứ, và nói:

- Đại ca đã biết rõ ẩn tình, xin cứ nhận lời gia sư để người được vui!

Nam Cung Giao gật đầu, rời ghế phục xuống lạy Lâm trang chủ chín lạy, miệng gọi:

- Nhạc phụ! Tiểu tế xin ra mắt.

Lân Thu Bái hoan hỉ cười dài, gương mặt đầy vẻ mãn nguyện, cao hứng.

Hôm ấy, cả đám đều say khướt, chỉ mình Kính Thanh là hơi tỉnh táo!

Sáng hôm sau, Nam Cung Giao và Kính Thanh theo hướng Tây về Bảo Định, còn anh em họ Trịnh đi đường Đông Nam, ghé qua thành Trực Cô (Tức Thiên Tân bây giờ).

Cuối tháng sáu, Nam Cung Giao vượt Hoàng Hà, cùng Kính Thanh đến thành Trịnh Châu vào giữa trưa.

Minh Đế đã tặng riêng cho Đặng Quyết, tức Nam Cung Giao, số vàng vạn lượng, nên chàng có thể yên lòng vào trọ Hà Nam đệ nhất lữ điếm.

Trịnh Châu là thủ phủ của tỉnh Hà Nam, lại nằm giữa giao điểm của hai đường quan đạo chính Bắc Nam, Đông Tây, nên trù phú, thịnh vượng hơn hẳn Từ Châu. Vì thế, chẳng có gì lạ khi giá phòng ở đây cao gấp đôi Tứ Hải đại lữ điếm.

Nghe Kính Thanh đòi hai phòng, Nam Cung Giao định cản nhưng lại thôi.

Nam Cung Giao bắt đầu cảm thấy rằng dường như mình cũng là kẻ ái nam ái nữ. Vì quá yêu mến Kính Thanh chỉ muốn ôm gã vào lòng!

Trong bửa cơm, Nam Cung Giao vui vẻ nói:

- Hiền đệ ở riêng là phải! Gần đây, tính tình ta rất quái dị, cứ nghĩ đến chuyện ôm ngươi mà ngủ!

Kính Thanh giật mình, trợn mắt vì mắc nghẹn. Gã nốc vội chung rượu lớn, nhăn mặt trách móc:

- Đại ca có bấy nhiêu vợ đẹp sao không nghĩ đến mà lại chọn tiểu đệ?

Nam Cung Giao cười khà khà:

- Ta cũng chằng hiểu vì sao?

Mệt mỏi vì đường xa nên họ chỉ ăn lấy lệ, lăn ra ngủ đến cuối giờ mùi.

Kính Thanh sang rũ Nam Cung Giao dạo phố:

- Đại ca! Anh em ta dạo một vòng, rồi ghé vào Thánh Thủy đại tửu lâu. Nơi ấy thức ăn ngon và có loại rượu đặc chế lừng danh Trung Thổ!

Nam Cung Giao nhăn mặt:

- Nắng thế này đi dạo làm gì, cứ lên quách chỗ ấy mà ngồi cho mát! Ta đang đói đây!

Kính Thanh phì cười:

- Đại ca quả là xấu nết ăn. Lỡ gặp năm đói khát, không chừng sẽ ăn thịt cả vợ con!

Nam Cung Giao gật đầu, bất ngờ phát vào chiếc mông tròn trịa của họ Mộc, rồi cười nham nhở:

- Đúng thế! Ta đang muốn ăn cả mông của ngươi đấy! Trông mà phát thèm!

Kính Thanh đau đớn xoa chỗ bị đánh, mắt láo liên tìm cách trả đũa.

Gã đổi giọng yểu điệu:

- Đại ca đừng mạnh tay, tiểu đệ thích được nhẹ nhàng thôi!

Ánh mắt gã đầy vẻ tình tứ, lả lơi khiến Nam Cung Giao rợn tóc gáy, bối rối lùi xa, miệng ấp úng:

- Hiền đệ đừng làm ta sợ! Ta là đàn ông mà!

Mộc Kính Thanh ôm bụng cười ngất, và hăm dọa:

- Đại ca còn dám ăn hiếp tiểu đệ nữa không?

Nam Cung Giao cười khổ:

- Té ra ngươi đùa! Thế mà ta tưởng ngươi đang muốn lấy ta! Từ nay ta xin chừa!

Hai người rời lữ điếm, đi thẳng về hướng Nam, lên tầng chót của Thánh Thủy đại tửu lâu ăn nhậu.

Trịnh Châu là địa bàn của Hồ bang, nên trước khi đến sông Hoàng Hà, Nam Cung Giao và Kính Thanh đã phải cải trang thành hai hán tử rậm râu.

Giờ đây, họ có thể ung dung ăn uống, dù chung quanh có rất nhiều khách võ lâm, vì ngay bàn bên cạnh là bốn gã đệ tử Hồ bang.

Không phải do bọn này dán chữ lên mặt, mà là vì Nam Cung Giao thính tai, nghe được cuộc đối thoại dù rất khẽ, lúc này Kính Thanh đã rời bàn, ôm bụng nhân nhó:

- Tô đường chủ! Tiểu đệ nghe anh em kháo nhau rằng Bang chủ phu nhân Đinh Tử Phượng bị tống vào ngục khi đang mang thai, chẳng hay việc ấy có thực hay không?

Gã Đường chủ họ Tô kia đắc ý gật đầu, ra vẻ quan trọng:

- Đúng thế! Đây là bí mật quan trọng của bổn bang, ta chỉ nói riêng cho mình ngươi biết, tuyệt đối không được để hở ra nghe chưa! Sài bang chủ đang luyện thần công nên kiêng nữ sắc đã hơn nửa năm nay, khi phát hiện Đinh phu nhân có thai, ông ta biết ngay vợ mình đã dan díu với gã Nam Cung Giao, trong lúc thực hiện chiến dịch đòi tiền chuộc Thất vương gia! Sài bang chủ định giết ngay Đinh phu nhân, nhưng nhị vị lão nhân gia Hồ Ly song tiên đã ngăn cản. Kế hoạch của họ là sẽ gởi thư nói rõ việc này, dụ Nam Cung Giao mang vàng đến chuộc Đinh Tử Phượng và bào thai, rồi giết gã! Nhưng phải sau khi hợp lực cùng Vô Thanh cốc tấn công Kim Diện cung vào đầu tháng tám tới, thì mới tính đến vụ này!

Nam Cung Giao nghe xong, lòng lo lắng vô hạn, thương cho Tử Phượng và đứa con của mình trong bụng nàng!

Chàng cố bình tâm lắng nghe tiếp, vì gã mặt choắt kia đã lại hỏi họ Tô:

- Sao chúng ta không tự mình ra tay để gom gọn số tài sản khổng lồ của Kim Diện cung mà lại phải nhờ đến Vô Thanh cốc?

Tô đường chủ lên mặt:

- Ngươi quả là ngu xuẩn! Cuộc tập kích này phải chớp nhoáng, kết liễu trước khi quan quân Từ Châu kéo đến. Do vậy mới cần lực lượng sát thủ thiện chiến của Vô Thanh cốc! Nghe nói lần này cả Hồ Ly song tiên và Long Giác Thần Quân đều ra tay để đảm bảo thành công.

Nam Cung Giao không ưa gì Cung chủ Kim Diện cung Tiền Phong Vân, nhưng dẫu sao lão ta cũng là nhạc phụ, chàng thầm mừng vì đã may mắn nghe được tin tức quí giá này.

Gã thứ ba, có hai nhánh râu cá chốt đểu cáng, chợt xen vào:

- Tô đường chủ. Sao Đinh phu nhân không trốn đi trước khi bị phát hiện? Để lâu bụng phướn ra tất nhiên sẽ lộ!

Họ Tô gật gù:

- Chắc chắn bà ta đã nghĩ đến việc đào tẩu nhưng do mắc kẹt mẫu thân đang lâm trọng bệnh nên không nỡ bỏ đi. Nửa tháng trước, Đinh lão thái từ trần, phu nhân ngất xỉu nên mới bị phát hiện là đang nịt bụng để giấu cái thai!

Có lẽ đã no say, bốn gã tính tiền rồi đi xuống.

Kính Thanh cũng đã ra đến, mặt phởn phơ, nhẹ nhõm.

Gã cau mày hỏi:

- Sao sắc diện đại ca lại u ám như vậy?

Nam Cung Giao gượng cười, chọc ghẹo gã để giấu diếm tâm sự:

- Ta đang lo ngươi rơi xuống hố xí chết mất tiêu rồi! Sao đi lâu thế?

Chắc chư vị độc giả vẫn thường thắc mắc, tự hỏi rằng người thời cổ nói chung, các hiệp khách nói riêng, đã đi vệ sinh như thế nào? Và vì sao Nam Cung Giao lại sợ Kính Thanh chết đuối trong hố xí?

Vậy thì xin chư vị bịt mũi mà đọc đoạn này!

Số là, hố xí có từ rất sớm, tên chữ Hán là xí sở (xí có nghĩa là bên cạnh, hàm ý là nó được làm ở chỗ kín đáo).

Thời Tần, Hán, hố xí thường liền với chuồng lợn, để tích trữ phân bón ruộng! Hố chứa phân rất sâu nên thường có người không cẩn thận, trượt chân ngã xuống đấy mà chết. Trong Tả Truyện, hồi Thành Công Thập Niên có viết: “Tấn Hầu là Tương Thực Trương vào hố xí rơi xuống mà chết!”

Chết thế này quả không thơm tho chút nào cả, và chắc là khó đầu thai vì ngay âm phủ cũng chẳng dám tiếp nhận!

Thời Ngụy Tấn, bọn quí tộc làm hố xí rất sang trọng, hào nhoáng ngay trong nhà, có cả nô bộc túc trực hầu hạ, khiến khách ở địa vị hèn kém ngại ngùng chẳng dám vào, cố mà nín!

Người xưa thường mặc áo dài, vào nhà vệ sinh rất bất tiện, phải cởi ra. Do vậy, đi vệ sinh được gọi khéo là canh y (thay áo).

Và sau khi đại tiện thì họ làm sao?

Xin thưa rằng, các cụ nhà ta dùng một mảnh tre mỏng để lau chùi, dùng xong rửa sạch mà xài cho lần khác! Ôi ghê quá!

Sau khi phát sinh ra giấy, đại đa số người Trung Hoa cổ vẫn cứ dùng mảnh tre, vì giấy quá đắt! Còn giấy viết rồi thì cũng không được đem ra chùi đít, vì phải tôn trọng chữ nghĩa của thánh hiền!

Cho đến thời nhà Nguyên, trong chính sử mới có ghi chép về việc dùng giấy vệ sinh.

Thời Minh-Thanh, cũng chỉ những nhà đại phú, quan quyền và trong các khách sạn lớn mới dám xài giấy xấu. Tất nhiên phải được vò cho thật mềm!

Giờ chúng ta có thể buông tay, trở lại Thánh Thủy đại tửu lâu, nghe Kính Thanh cười khúc khích:

- Đại ca chỉ giỏi nói bậy! Hầm phân ở tầng trệt, hố xí trên này chỉ là một bệ gạch thông xuống dưới, lỗ nhỏ xíu làm sao chui lọt được?

Nam Cung Giao xua tay:

- Thôi! Ngươi đừng diễn tả nữa, ta ăn mất ngon!

Chàng cố tỏ thái độ vui vẻ để gã nghĩa đệ tinh ranh kia không nghi ngờ, vặn vẹo. Chàng đã quyết mạo hiểm, xâm nhập Tổng đàn Hồ bang trên núi Trịnh Sơn để cứu Tử Phượng, chín phần chết, một phần sống, nên không thể cho Kính Thanh đi theo được. Nhưng phải chờ lấy xong Đại Hoàn đan, Kính Thanh lên đường mang về Bắc Kinh, thì chàng mới quay lại mà ra tay!

Đêm ấy, Nam Cung Giao thao thức mãi, mới ngủ và nằm mộng thấy Đinh Tử Phượng, bụng to vượt mặt đang ngồi dựa vách trong ngục đá.

Lạ thay, nàng lại mỉm cười và bảo:

- Trăng chưa tròn, tướng công đến đây làm gì?

Nổi xong, nàng biến mất!

Nam Cung Giao kinh hãi gọi vang, chạy nhanh tìm kiếm. Và rồi chàng giật mình tỉnh giấc, mồ hôi toát ra như tắm.

Chàng rời giường, uống một tách trà nguội, ngồi thừ người suy nghĩ.

Chàng nhẩm tính, biết rằng Tử Phượng mang thai đã được bốn tháng rưỡi, trước Sở Nhu nửa tháng. Câu nói lạ lùng của Tử Phượng trong giấc mơ lúc nãy cứ ám ảnh chàng mãi.

Chàng tự hỏi:

- Phải chăng đêm rằm tháng bảy này Hồ bang sẽ tổ chức cúng cô hồn?

Nhưng nghĩ đến việc Tử Phượng vẫn còn sống chứ chưa thác, làm sao báo mộng được, chàng chẳng biết nên tin hay không.

Sáng ra, Nam Cung Giao và Kính Thanh rời Trịnh Châu, đi đến núi Tung Sơn trên đất Đăng Phong!

Trưa hôm sau hai người đã có mặt ở chùa Thiếu Lâm.

Đọc xong thư của Chu Sơn đảo chủ, Bạch Vân phương trượng vui vẻ nói:

- Té ra nhị vị thí chủ đây một người là rể, một người là đồ đệ của Lâm đảo chủ!

Ông vuốt chòm râu bạc trắng như cước ngắm nghía Nam Cung Giao rồi gật gù khen:

- Nam Cung thí chủ khí chất phi phàm, cốt cách anh hùng, quả xứng đáng làm rể một bậc kỳ nhân như Chu Sơn đảo chủ!

Ông nhìn sang Mộc Kính Thanh, chưa kịp nhận xét đã bị gã cướp lời:

- Đệ tử vốn chẳng ra gì! Xin đại sư đừng nói ra khiến kẻ hèn này thêm tủi hổ!

Thiền sư mỉm cười:

- Thí chủ không cho phép thì lão nạp cũng chẳng dám nhiều lời!

Ông nâng chung trà mời khách, nhấp một hớp rồi nghiêm giọng:

- Nhị vị đến đây quả là đúng lúc! Lão nạp có điều muốn thỉnh giáo!

Kính Thanh mau miệng:

- Xin đại sư cứ dạy.

Bạch Vân thiền sư hắng giọng hỏi:

- Mộc thí chủ ở đảo Chu Sơn khá lâu có biết gì về cháu trai của Đông Hải thần tăng, trụ trì chùa Phổ Đà này không?

Mộc Kính Thanh đảo nhanh cặp mắt hắc bạch phân minh, ngập ngừng đáp:

- Bẩm đại sư! Người ấy tên gọi Trương Sĩ Hạo, ba mươi bốn tuổi, chưa vợ nổi tiếng khắp vùng duyên hải, có biệt danh là Ngọc Diện Thần Kiếm.

Họ Trương tiếp thu được hết sở học của Đông Hải thần tăng, kiếm pháp cực kỳ cao siêu, chưa biết bại là gì!

Gã đổi hơi rồi hỏi lại:

- Nhưng vì sao đại sư lại hỏi thăm về gã ấy?

Bạch Vân thiền sư nghiêm giọng:

- Phật pháp chỉ một nhưng giáo phái Trung Hoa lại chia nhiều nhánh, từ đấy sinh ra việc tranh giành thanh danh, nói ra thực xấu hổ!

Đầu năm ngoái, trong đại hội tăng thống toàn quốc vua Minh Anh Tông đã ngỏ ý muốn tặng chùa Thiếu Lâm danh hiệu Hộ Quốc Vĩnh Thọ Thiếu Lâm thiền tự.

Song Đông Hải thần tăng, Phương trượng chùa Phổ Đà đã đứng lên nói rằng Phổ Đà tự mới xứng đáng được nhận tấm bông vàng ấy. Đã nhiều năm nay, tăng lữ chùa Phổ Đà tham gia bảo vệ Đảo Chu Sơn trước sự tấn công của bọn hải tặc Phù Tang.

Còn Thiếu Lâm tự thì chẳng có công lao gì cả!

Thiền sư thở dài, kể tiếp:

- Đông Hải Phật huynh còn công khai phê phán rằng võ học Thiếu Lâm tự đã sa sút, chẳng thể sánh với Phổ Đà Tự!

Để chứng minh, Thần tăng đã hẹn tháng bảy này cử đệ tử là Trương Sĩ Hạo đến bổn tự so tài? Chỉ cần chùa Thiếu Lâm có đệ tử nào tuổi dưới bốn mươi mà đả bại được Sĩ Hạo thì Phổ Đà tự sẽ không tranh giành danh hiệu vua ban nữa.

Thánh thượng không muốn xen vào chuyện nội bộ của Phật Giáo nên đã chuẩn tấu cuộc phó ước!

Mộc Kính Thanh bực bội nói:

- Đông Hải thần tăng bề ngoài trang nghiêm, hiền hòa, không ngờ bên trong lại đầy đủ tham sân si!

Nam Cung Giao tủm tỉm cười:

- Ngươi cũng khôn nên sớm đào tẩu nếu không sẽ trở thành cháu rể của lão sư hổ mang ấy rồi!

Kính Thanh giật mình, nói lảng sang chuyện khác.

Gã giả vờ ngây thơ hỏi:

- Bẩm đại sư! Trước giờ đệ tử cứ ngỡ Phổ Đà tự cũng từ chùa Thiếu Lâm mà ra!

Bạch Vân thiền sư lắc đầu, từ tốn giải thích:

- Không phải thế, vào năm Trinh Minh thứ hai, đời Hậu Lương, một đoàn tăng nhân Nhật Bản đến Ngũ Đài sơn rước tượng Phật Quan Âm về nước thờ phụng. Nhưng thuyền của họ ra đến vùng đảo Chu Sơn thì gặp bão dữ dội, đành phải ghé vào núi Lạc Ca Sơn. Cho rằng đức Phật Quan âm không muốn rời Trung Hoa các tăng lữ Nhật Bản đành về tay không, còn tượng Phật gởi lại một nhà dân.

Ngôi nhà ấy sau này được đặt tên là Quan Âm Bất Khẳng Khứ Phật Viện (Viện Quan Âm không chịu đi).

Có một vị Thiền sư Nhật Bản ở lại với tượng Phật, và chính ông đã xây nên chùa Phổ Đà hiện nay. Vị Thiền sư này tên là Từ Dũ Kỳ, rất giỏi kiếm pháp và nhu thuật của Phù Tang. Ông ta đã nghiên cứu kiếm pháp Trung Hoa, phối hợp với sở học, sáng tạo nên pho Lạc Ca kiếm pháp, truyền lại cho đến bây giờ!

Tóm lại, Phổ Đà tự không có quan hệ gì với bổn tự!

Mộc Kính Thanh gật gù ra vẻ đã hiểu, rồi nghiêm trang nói:

- Không phải đệ tử xem thường quí tự, song Trương Sĩ Hạo đã được gia sư tặng cho một cánh Hải Thượng Huyết Hoa, nên hiện nay gã sở hữu đến bốn mươi năm chân khí! Đệ tử sợ rằng trong độ tuổi dưới bốn mươi, phái Thiếu Lâm không có ai hơn được gã!

Lời tiết lộ này đã khiến Bạch Vân thiền sư bàng hoàng.

Ông rầu rĩ xác nhận:

- Thí chủ nói không sai! Đệ tử giỏi nhất của lão nạp cũng chỉ có độ ba mươi năm tu vi!

Và ông cau mày hỏi:

- Nhưng sao Lâm đảo chủ lại tặng kỳ trân cho Trương Sĩ Hạo!

Kính Thanh ấp úng nói:

- Gia sư bắt đệ tử lấy cháu gái của Đông Hải thần tăng, đệ tử không chịu nên trốn đi. Gia sư phải bồi thường nhà họ Trương bằng một cành của đóa Hải Thượng huyết hoa!

Thiền sư mỉm cười:

- Lão nạp hiểu cả rồi!

Nam Cung Giao lên tiếng:

- Cũng tại ngươi nên giờ đây Thiếu Lâm tự gặp khó khăn. Hay là ngươi cứ ở lại đây, gặp Trương Sĩ Hạo gọi gã là Đại Cửu Tử rồi năn nỉ gã bãi binh!

Kính Thanh cười hì hì:

- Không phải tiểu đệ mà là chính đại ca sẽ phải gánh vụ này! Xét ra, đại ca cũng là đệ tử của Thiếu Lâm tự đấy!

Nam Cung Giao ngớ người:

- Sao ngươi lại nói thế?

Kính Thanh đắc ý nói:

- Pho quyền mà mỗi sáng đại ca thường múa may chính là công phu Kim Cang Phục Hổ quyền của phái Thiếu Lâm!

Nam Cung Giao ngượng ngùng, lẩm bẩm:

- Vậy mà ta cứ tưởng là gia học của họ Nam Cung!

Bạch Vân thiền sư hiền hòa nói:

- Thiếu Lâm tự có truyền thống lâu đời võ học phổ biến khắp thiên hạ, sau nhiều lần bổ khuyết thì thành của riêng, Nam Cung thí chủ không biết cũng là phải!

Riêng pho Kim Cang Phục Hổ Quyền thì ngay trong bổn tự cũng ít người luyện, vì lối đánh của môn võ này cực kỳ cương mãnh, hao tổn sức lực, song lại rất thích hợp với người có tứ chi dài như thí chủ!

Kính Thanh ngắt lời ông:

- Đại sư! Vì mối giao tình giữa quí tự và gia sư, đệ tử đề nghị được giúp một tay. Đại sư cứ cho Nam Cung đại ca đấu thử với lệnh đồ, nếu y thắng thì sẽ đại diện Thiếu Lâm tự đấu với Ngọc Diện Thần Kiếm!

Bạch Vân thiền sư đăm chiêu lưỡng lự, chậm rãi nói:

- Lão nạp cũng biết Nam Cung thí chủ đây đã từng giết Dạ Hồ Sài Tốn, đuổi chạy Hàn Đan tam kiếm, đả bại Thiếu cốc chủ Vô Thanh cốc, bản lãnh đứng đầu trong lớp thanh niên.Song việc này nguy hiểm đến tính mạng Nam Cung thí chủ, cũng như tổn hại thanh danh bổn tự, nên lão nạp chẳng dám nhận lời!

Kinh Thanh xua tay:

- Đại sư yên tâm! Nam Cung đại ca đã được gia sư truyền thụ tuyệt học, chẳng thể thua được. Còn về danh nghĩa thì đại sư chỉ việc nhận y làm đệ tử là xong! Y chưa hề nhận ai làm sư phụ!

Nam Cung Giao đang nóng ruột rời đây để lo việc cứu đại Đinh Tử Phượng nên bực bội cằn nhằn Kính Thanh:

- Sao ngươi lắm lời thế? Ta đâu phải con gái của ngươi mà lại chịu cảnh đặt đâu ngồi đấy?

Kính Thanh quay lại, buồn rầu bảo:

- Nếu Trương Sĩ Hạo chính là người đã đánh què chân tiểu đệ thì đại ca tính sao?

Nam Cung Giao nhảy dựng:

- Có việc ấy ư? Nhưng sao giả nhạc phụ là thầy của ngươi mà lại chịu để yên?

Kính Thanh hậm hực đáp.

- Đông Hải thần tăng có ơn một lần cứu mạng gia sư nương nên sư phụ đâu dám mở miệng?

Nam Cung Giao gật gù, nở nụ cười lạnh lẽo:

- Nếu thế thì ta sẽ chặt đứt hai chân của Sĩ Hạo để trả thù cho hiền đệ.

Bạch Vân phương trượng nghiêm giọng:

- Lão nạp rất hiểu tấm lòng của Mộc tiểu thí chủ. Lão nạp sẽ phụng ý thi hành, nhưng không dám chịu trách nhiệm trước Lâm đảo chủ!

Kính Thanh vui vẻ trấn an:

- Đại sư yên tâm! Gia sư đã từng bàn với đệ tử về việc đem Nam Cung đại ca đến học nghệ ở Thiếu Lâm tự. Nếu y thụ giáo pho nội công Liên Hoa tâm pháp và được chỉ điểm thêm về kiếm đạo, thì sau này mới mong giết nổi Long Giác Thần Quân!

Nam Cung Giao sợ hãi la lên:

- Tạ. ta không chịu cạo đầu làm sư đâu!

Kính Thanh phì cười:

- Làm đệ tử tục gia thì đâu cần phải cạo đầu! Chẳng lẽ gia sư lại muốn con rể xuất gia để ái nữ ở giá?

Gã quay sang bảo Bạch Vân thiền sư:

- Bẩm Phương trượng! Trước lúc rời Trung Nguyên trở về Chu Sơn, gia sư đã so tài với Khương lão quỷ. Ông có cơ hội để khẳng định rằng Long Giác Thần Quân năm ấy đã luyện được ba thành Dịch Cân kinh. Họ Khương trúng một roi vào huyệt phục thố trên đùi phải mà chẳng hề hấn gì! Đấy chính là phép Di Huyệt trong Dịch Cân kinh, suy ra, lão ta chính là kẻ đã vào Tàng Kinh các giết người cướp kinh. Gia sư không nói ra vì sợ đại sư nóng ruột báo thù sẽ uổng mạng!

Bạch Vân thiền sư run lẩy bảy, khẽ lẩm bẩm:

- Thì ra tiên sư chết dưới tay Long Giác Thần Quân!

Hơn ba mươi năm trước, sư phụ của Bạch Vân là Nhất Hối thiền sư, phụ trách Tàng Kinh các.

Một đêm nọ, có kẻ đã giết ông một cách êm thắm và lấy đi quyển Dịch Cân kinh. Thiếu Lâm tự giấu kín mối nhục này, dốc hết lực lượng ra âm thầm điều tra, nhưng không hề có manh mối!

Bạch Vân thiền sư vốn là trẻ mồ côi, bị quăng bỏ nơi chân núi Thiếu Thất, được Nhất Hối thiền sư nhặt về nuôi dưỡng, dạy dỗ. Do vậy, Bạch Vân vẫn xem Nhất Hối như cha mình. Ông đã rời chùa lang bạt khắp nơi để tìm hung thủ, gặp gỡ Chu Sơn đảo chủ, kết tình bằng hữu.

Sau mười năm truy tìm vô vọng ông trở về chùa khổ công tu luyện, rồi trở thành Chưởng môn phái Thiếu Lâm!

Do quá đau lòng vì cái chết của ân sư, râu tóc và lông mày của Bạch Vân đều bạc trắng, dù tuổi mới sáu mươi lăm!

Nay phát hiện lai lịch kẻ thù, Thiền sư nổi lòng sầu hận, lát sau mới bình tâm được. Ông biết mình không có chứng cứ cụ thể và cũng chẳng đủ bản lãnh báo thù. Song, nếu sử dụng Nam Cung Giao như phương tiện phục hận thì ông cũng chẳng nhẫn tâm.

Thiền sư điềm đạm nói:

- Lão nạp và đệ tử chùa Thiếu Lâm sẽ tìm cách đòi lại Dịch Cân kinh, chẳng dám để cho Nam Cung Giao thí chủ phải đương đầu với một đại cao thủ như Long Giác Thần Quân!

Kính Thanh cười xòa:

- Thôi được! Việc ấy sẽ tính sau, giờ lo chuyện dành tấm bảng sắc phong trước đã!

Bạch Vân thiền sư lắc đầu:

- Sau khi biết ai là hung thủ sát hại tiên sư, lòng lão nạp đã nguội lạnh với thanh danh. Ngày mai dẫu đệ tử Thiếu Lâm có bại thì cũng không sao!

Nam Cung Giao mừng rỡ tán thành:

- Đại sư nhạt mùi danh lợi như thế là đúng tôn chỉ của Phật môn. Xin đại sư ban cho Đại Hoàn đan để anh em đệ tử sớm trở lại Bắc Kinh!

Bạch Vân thiền sư gật đầu, đi vào trong hậu xá để lấy thuốc.

Ở đây, Mộc Kính Thanh giận dữ đay nghiến:

- Đại ca quả là người ngu ngốc, không biết chụp lấy cơ hội ngàn vàng. Nếu học được Liên Hoa tâm pháp, bản lãnh đại ca sẽ tăng tiến vượt bậc, vài năm nữa dư sức tranh chức Minh chủ võ lâm!

Nam Cung Giao cười mát:

- Ta cần quái gì cái chức Minh chủ? Lúc ấy suốt ngày ăn cơm nhà, vác ngà voi, bỏ mấy em vợ trẻ đẹp cho ai!

Kính Thanh tức hộc máu, trợn mắt hỏi:

- Vậy là đại ca cũng chẳng hề nghĩ đến chuyện báo thù cho tiểu đệ?

Nam Cung Giao nheo mắt đáp:

- Ngươi ngu thực? Ngày mai, chờ Trương Sĩ Hạo đánh nhau với Thiếu Lâm tự xong, ta sẽ đứng ra khiêu chiến. Hà tất phải lạy lão sư già kia làm thầy?

Kính Thanh hài lòng nói:

- Như thế cũng được! Nhưng đại ca nhớ đừng nói nguyên do, nếu không, gã họ Trương sẽ kiện gia sư đấy! Tiểu đệ cũng ẩn mặt!

Nam Cung Giao gật đầu:

- Được rồi! Ta sẽ mồm loa mép giải vu oan giá họa cho gã để gây sự! Nhưng ngươi cũng phải cho ta biết vài yếu điểm của Sĩ Hạo để dễ bề công kích?

Kính Thanh thở dài:

- Khó đấy! Trương Sĩ Hạo tướng mạo anh tuấn như cây ngọc trước gió, tính tình trầm tĩnh, trang nghiêm, khí độ rộng rãi, dù vô cớ bị chửi cũng không thèm chấp!

Tóm lại, dường như con người gã không hề có khuyết điểm!

Nam Cung Giao phì cười:

- Một người toàn mỹ như vậy đến giờ vẫn chưa có nữ nhân nào tóm cổ thì cũng lạ? Hay là gã quá tốt đẹp nên không còn là người nữa?

Kính Thanh cười khổ:

- Đại ca nói đúng! Trương Sĩ Hạo như kẻ thuộc về thế giới thần tiên, lạnh lùng cao quí tựa pho tượng ngọc bích, chỉ có thể ngắm nghía chứ không thể ôm mà ngủ được!

Nam Cung Giao ngao ngán:

- Gã nầy khó chơi thực! Ta lấy cớ gì để khiêu khích đây!

Kính Thanh ấp úng nói:

- Đại ca cứ nói rõ việc mình là rể của gia sư, và giả vờ nổi giận về việc gã đã rình Lâm Bảo Thoa tắm hồi ba năm trước!

Nam Cung Giao giật mình than:

- Có việc ấy sao? Thế là lỗ vốn rồi, ta chưa được thấy gì mà người ngoài đã xem mãn nhãn! Chán thực!

Kinh Thanh hốt hoảng biện minh:

- Không phải! Đêm ấy trăng khuyết y chỉ thấy lờ mờ phía sau thôi!

Nam Cung Giao lừ mắt:

- Phải chăng hôm ấy ngươi cũng rình Bảo Thoa nên mới biết rõ như vậy?

Kính Thanh cuống quít đáp:

- Tiểu đệ nào đến nỗi khốn nạn như thế! Điều này do Lâm sư muội kể lại thôi!

Nam Cung Giao bỗng nhớ ra một điều:

- Thế Bảo Thoa tắm ở đâu mà để Sĩ Hạo nhìn trộm?

Kính Thanh nói lí nhí:

- Ngoài bờ biển.

Nam Cung Giao than trời:

- Chết ta rồi! Nếu thế thì chắc gì một mình gã họ Trương nhìn thấy? Nàng ta có thói quen tắm khỏa thân dưới trăng đã nhiều năm, khoảng chừng một nửa dân đảo Chu Sơn đều có cơ hội thưởng lãm! Ta phải quay lại Bắc Kinh hỏi cho ra lẽ mới được?

Kính Thanh hồn phi phách tán, quì này xuống khóc và lạy lục:

- Tiểu đệ xin đem tính mạng ra thề rằng suốt đời Lâm sư muội chỉ sơ xuất có một lần như thế! Đại ca mà khinh khi nàng thì tiểu đệ sẽ chết không nhắm mắt.

Nam Cung Giao phá lên cười sặc sụa, kéo Kính Thanh ôm vào lòng vỗ:

- Ta chỉ đùa mà ngươi tưởng thực sao? Lòng này còn rộng rãi hơn gã Trương Sĩ Hạo kia nhiều!

Kinh Thanh điên tiết, há miệng cắn mạnh vào ngực Nam Cung, khiến chàng đau đớn thét lên.

Kính Thanh nhảy lùi, cười đắc ý:

- Lần sau đại ca còn dám hí lộng tiểu đệ nữa không?

Bạch Vân thiền sư ra đến, trao lọ sành đựng ba viên Đại Hoàn đan và một phong thư cho Kính Thanh.

Hai người quì xuống đảnh lễ rồi rời núi Thiếu Thất, trở về phòng trọ trong thành Đăng Phong!

Sáng hôm sau, ăn điểm tâm xong, Kính Thanh ân cần dặn dò:

- Tiểu đệ có mặt không tiện! Đại ca cứ một mình lên núi, cố mà thắng cho được Trương Sĩ Hạo, dù không chặt chân gã thì cũng chẳng sao. Điều chủ yếu là phải đả bại gã, tuyệt đối không được thua! Nếu đại ca mà thua thì tiểu đệ sẽ không bao giờ nhìn đại ca nữa?

Ánh mắt lo lắng của gã khiến Nam Cung Giao áy náy, vội hứa:

- Hiền đệ cứ yên tâm đem thuốc về cho Lâm sư phụ! Đại ca hứa sẽ làm cho hiền đệ hài lòng!

Kính Thanh nghiêm nghị nói:

- Trương Sĩ Hạo là một kiếm thủ bẩm sinh, trình độ kiếm thuật dễ đạt đến cảnh giới kiếm đạo. Đại ca nhất thiết không được xem thường! May mà đại ca đã luyện được bốn thành của pho Hư ảo Thần Bộ nên tiểu đệ mới yên tâm để đại ca so tài với gã!

Hai người hẹn gặp lại nhau ở Nam Kinh rồi chia tay.

Kính Thanh đi rồi, lát sau Nam Cung Giao lững thững xách kiếm lần đến chân núi Thiếu Thất. Chàng không thượng sơn mà nhảy lên chặng ba ẩy cổ thụ đầu sơn đạo nằm hát nghêu ngao, chờ Ngọc Diện Thần Kiếm đến.

Trong hai mươi mấy ngày xuôi Nam, những lúc dừng chân dọc đường, chàng đã cùng Kính Thanh luyện tập pho Hư Ảnh Thần Bộ, đạt đến bốn thành hỏa hầu. Với thân pháp kỳ tuyệt này, Nam Cung Giao rất tự tin vào bản lãnh của mình.

Chàng thầm biết ơn Chu Sơn đảo chủ đã cất giùm gánh nặng trong lòng mình.

Mấy tháng nay, tuy không nói ra nhưng tâm hồn chàng luôn chua xót khi nghĩ đến cảnh thảm bại và chết dưới tay Khương Thư Hàn!

Nghĩ đến Bảo Thoa và Tử Phượng, chàng mỉm cười tự nhủ:

- Mới xuất đạo chưa đầy một năm mà ta đã có đến năm cô vợ, biết ăn nói thế nào với mẫu thân đây?

Chàng lẩm nhẩm thành tiếng:

- Không sao! Ba lần ba lần chín, cứ cãi chày cãi cối là xong!

Bản cửu chương là do người Trung Hoa sáng tạo ra, đứa trẻ nào bắt đầu học toán cũng đều phải thuộc.

Quá đầu giờ Thìn, Nam Cung Giao nghe tiếng vó ngựa vọng đến, liền nhỏm dậy xem.

Trong đoàn kỵ mã kia còn cách xa đến bẩy tám trượng, song đôi mắt tinh ranh của chàng vẫn nhận ra hai người quen. Đó là Địa Thượng Song Lôi, hộ pháp của Tứ Hải hội, đã từng xuất hiện ở nhà Đặng Kiệm đất Tô Châu!

Hai lão quỷ này có dung mạo cổ quái chẳng thể nào lẫn vào đâu được. Giờ đây, họ đi sau lưng một hán tử Bạch Y dung mạo tuấn tú như Phan An tái thế, chắc là Ngọc Diện Thần Kiếm Trương Sĩ Hạo.

Chẳng khó gì để hiểu rằng Song Lôi là thủ hạ của họ Trương, họ không dám thúc ngựa đi ngang hàng với gã.

Một ý niệm lóe sáng trong đầu Nam Cung Giao:

- Chẳng phải Trương Sĩ Hạo là Hội chủ Tứ Hải hội!

Chàng vui mừng khôn xiết vì đã nắm nước thóp đối phương. Do tin rằng không ai biết Địa Thượng Song Lôi là người của Tứ Hải hội nên Trương Sĩ Hạo mới đưa họ theo. Xui cho gã là Nam Cung Giao lại vô tình có mặt và khám phá ra chân tướng.

Phía sau thầy trò Sĩ Hạo còn có một toán quân triều đình đông độ ba mươi tên, đang hộ tống một chiếc kiệu phủ sa tanh, có lẽ là Tri huyện Đăng Phong. Lão ta đến đây để giám sát cuộc so tài. Rồi báo kết quả về Bắc Kinh!

Nam Cung Giao nhanh chân chuyền sang cây khác, chạy thẳng lên chùa Thiếu Lâm.

Các tăng lữ gác cổng Tam quan vui vẻ hỏi:

- Sao thí chủ còn quay lại đây làm gì?

Chàng cười đáp:

- Để chặt chân Ngọc Diện Thần Kiếm! Gã đã đến!

Một tăng nhân vội vã vào chiếc khánh đồng, báo hiệu cho người trong chùa biết mà chuẩn bị!

Đang chờ đợi, nên Bạch Vân thiền sư và các cao tăng mau mắn ra sân trước của tòa Đại Hùng bảo điện, ngạc nhiên vì thấy Nam Cung Giao.

Chàng lướt đến vòng tay chào rồi nói:

- Trương Sĩ Hạo chính là Hội chủ Tứ Hải hội, đang bị triều đình truy nã. Lát nữa, đại sư cứ mời phe địch vào dùng trà, rồi tìm cách dẫn lão Tri huyện vào quí tăng xá. Phen này thì bảng vàng sắc phong kia chắc chắn là của Thiếu Lâm tự.

Thiền sư kinh ngạc trước diễn biến bất ngờ và thuận lợi này, nhíu mày hỏi lại:

- Tiểu thí chủ có nhìn lầm không?

Nam Cung Giao mỉm cười:

- Chắc đại sư cũng phong phanh biết đệ tử còn là rể của Nam Kinh Hình bộ Thượng thư, xin cứ để đệ tử lo liệu là mọi việc sẽ chu toàn! Đại sư xem nhẹ hư danh, nhưng hai ngàn tăng lữ Thiếu Lâm sẽ không vui khi thua kém Phổ Đà tự.

Bạch Vân thiền sư cảm động đáp:

- Thiện tai! Thiện tai! Nam Cung thí chủ quả có tấm lòng Bồ tát. Xin cứ tùy nghi hành động!

Các cao tăng đứng sau cũng nhất tề chắp tay vái tạ!

Nam Cung Giao hổ thẹn rảo bước về phía hậu tự!

Lát sau, Ngọc Diện Thần Kiếm Trương Sĩ Hạo và Tri huyện Đăng Phong là Phương Khiên lên đến.

Địa Thượng Song Lôi và toán sĩ tốt đều ở lại chân núi để gữ ngựa, chỉ có gã sư gia của huyện đường đi theo Phương Khiên.

Bạch Vân thiền sư lập tức nhận ra Trương Sĩ Hạo cốt cách phi phàm, thần thái trang nghiêm, đạo mạo, cử chỉ ung dung, đáng mặt nhân tài.

ông cố tìm tướng xấu trên gương mặt đẹp và đoan chính kia mà chỉ hoài công. Phải chăng trong thân thể y còn có ẩn tướng kỳ dị, nếu không thì chẳng thể là kẻ đại ác được?

Ông chợt giật mình với ý nghĩ:

- Lạ thực! Sao ta lại có cảm giác rằng đang chiêm ngưỡng, thẩm định một pho tượng cổ chứ chẳng phải người? Ánh mắt y dường như vô cảm, nhìn ta mà không thấy ta, miệng cười mà mắt không cười?

Thiền sư cố dẹp bỏ niềm nghi hoặc, tươi cười mời mọc:

- Chẳng mấy khi Tri huyện đại nhân giá lâm tệ tự, xin mời ngài và Trương sư diệt vào khách xá dùng chén trà nhạt!

Tri huyện Phương Khiên đã hai lần nhờ Thiếu Lâm tự lo tang ma, cúng kiến cho song thân nên rất kính trọng Bạch Vân phương trượng. Vả lại ông cũng muốn ngôi chùa trong địa hạt mình được sắc phong chứ chẳng phải chùa Phổ Đà xa xôi, lạ lẫm!

Phương tri huyện vui vẻ đáp:

- Phương trượng đã có lời mời, bổn chức đâu dám từ chối!

Bạch Vân hài lòng, cùng sáu cao tăng đi trước dẫn đường.

Trương Sĩ Hạo vẫn thản nhiên đi theo, chẳng hề tỏ vẻ nôn nóng. Gã khoan thai bước đi trong bộ võ phục gấm trắng tinh.

Trộng gã xinh đẹp và trang nghiêm như một đóa sen trượng đang trôi!

Lạc Ca, theo tiếng Phạn có nghĩa là Bạch Liên. Trương Sĩ Hạo sinh ra, lớn lên trên núi Lạc Ca, có lẽ vì thế mà nhiễm sắc hương.

Vào đến khách sảnh, Bạch Vân thiền sư giới thiệu sáu cao tăng, rồi hỏi thăm gia cảnh Phương tri huyện, chẳng hề đá động gì đến cuộc so tài.

Thấy Sĩ Hạo vẫn an nhiên, chậm rãi nhấp từng hớp trà thơm, ông thầm khen định lực của y.

Nửa khắc sau, Bạch Vân thiền sư nói với Phương tri huyện:

- Phương đại nhân! Lão nạp vừa được Phương trượng chùa Phật Quang ở Ngũ Đài sơn tặng cho bức cổ họa Trường Giang Vạn Lý Đồ của Hạ Khuê thời nhà Tống. Chẳng hay đại nhân có muốn thưởng lãm hay không?

Phương Khiên cũng là tay nho học tài hoa, và rất mê tranh cổ. Vì vậy, lao đứng phắt lên, mừng rỡ nói:

- Quả là dịp may hiếm có. Từ lâu bổn chức đã khao khát được chiêm ngưỡng nét bút của thần họa thời nhà Tống!

Thế là lão lôi xộc Bạch Vân phương trượng về tăng xá, cách đấy không xa, bỏ mặc Ngọc Diện Thần Kiếm ngồi lại!

Đến nơi Phương Khiên say sưa ngắm nghía bức tranh, xuýt xoa khen ngợi từng nét thắng bút.

Lão chưa mãn nhãn thì có người thứ ba vào đến.

Chàng trai râu rậm, thân hình cao lớn này mặc bộ võ phục gấm đen thượng hạng, thần thái rất oai vệ. Chàng ta nhìn họ Phương mỉm cười chẳng thèm cúi chào.

Phương Khiên bỡ ngỡ hỏi Bạch Vân:

- Đại sư! Chẳng hay người này là ai vậy?

Bạch Vân chưa biết đáp sao thì chàng râu rậm kia đã lạnh lùng tự giới thiệu:

- Tại hạ là Nam Cung Giao người của Đô Sát viện.

Và chàng dí mãnh Kim Bài đáng sợ vào mặt Phương Khiên.

Kẻ làm quan, ít người dám tự hào mình tuyệt đối trong sạch, không hề tơ hào công quĩ và của dân. Phương Khiên cũng có chấm mút chút đỉnh nên sợ đến nhũn cả người khom lưng vái dài:

- Ty chức Phương Khiên, Tri huyện Đăng phong, xin bái kiến đại nhân.

Nam Cung Giao hờ hững đáp:

- Phương túc hạ bất tất phải đa lễ. Tại hạ chỉ có vài điều muốn hỏi!

Họ Phương cung kính nói:

- Xin đại nhân chỉ giáo!

- Túc hạ đã nhận được công văn truy nã Tứ Hải hội của Triều đình hay chưa?

Phương Khiên cố nén tiếng thở dài, té ra đối phương đến đây vì chuyện này chứ chẳng phải để sách hạch mình!

Lão vội đáp:

- Bẩm đại nhân có! Ty chức đã dốc sức điều tra, có thể đoan chắc rằng Tứ Hải hội không hề hiện diện trong địa phận này! Vả lại, bọn tà bang kia chẳng dại gì lập sào huyệt hay hoạt động ở gần chùa Thiếu Lâm!

Nam Cung Giao cười nhạt:

- Túc hạ sai rồi! Gã Trương Sĩ Hạo và hai lão già áo xanh mồm thiên lôi kia chính là người của Tứ Hải hội! Tại hạ đã bám theo họ từ Chiết Giang đến tận đây, do Sĩ Hạo là cháu ruột của Đông Hải thần tăng chùa Phổ Đà nên tại hạ chẳng thể công khai bắt trói khi chưa tìm ra chứng cớ xác thật. Do vậy, hôm nay tại hạ sẽ dùng thân phận khác đánh đuổi gã, rồi bám theo để tìm sào huyệt. Nhiệm vụ của túc hạ là phải nhất nhất ủng hộ cho ta!

Chàng bất ngờ quắc mắt hỏi:

- Hay là túc hạ đã nhận hậu lễ của Tứ Hải hội rồi!

Ngón đòn chụp mũ của quan trên đã khiến Phương Khiên tá hỏa tam tinh, mặt tái mét, run giọng mà biện bạch:

- Khải bẩm đại nhân? Ty chức có giao tình với Thiếu Lâm tự, lẽ nào lại nhận lễ của đối phương! Xin đại nhân minh xét!

Tội tư thông vời cường đạo bị xử rất nặng nên Phương Khiên run bần bật, tự nhủ rằng mình đã may mắn khi chẳng nhận được gì của Sĩ Hạo!

Thực ra, nếu họ Trương đưa ra vài nén vàng, để tranh thủ tình cảm thì lão cũng không chê!

Nam Cung Giao gật gù:

- Làm quan mà giữ được đạo liêm chính thì chẳng thể sợ mất đầu! Túc hạ hãy quay lại khách xá, nói cười tự nhiên, không được để họ Trương sinh nghi!

Nói xong, chàng kể sơ qua kế hoạch của mình!

Phương Khiên vâng dạ, vái dài rồi cùng Bạch Vân thiền sư rời phòng!

Phương tri huyện năm nay đã sáu mươi, làm quan được ba chục năm, thạo nghề giữ sắc diện để làm vui lòng quan trên. Dẫu mẹ sắp chết, lão cũng có thể tươi cười đón tiếp Tri phủ Hà Nam, huống hồ gì là việc che mắt Trương Sĩ Hạo?

Thế là Phương Khiên vui vẻ bảo Sĩ Hạo:

- Bổn chức mê tranh cổ hơn cả vợ con, làm mất thời giờ của Trương thiếu hiệp! Thôi thì chúng ta ra sân tiến hành ngay việc tỷ võ cho xong.

Hai phe đi sang mảnh sân rộng cạnh đình Đạt Ma. Đây là nơi luyện võ hàng ngày của đệ tử Thiếu Lâm.

Ngoài sư sãi, trong chùa lúc nào cũng có gần ngàn đệ tử tục gia, từ bốn phương đến học võ. Thiếu Lâm tự là trường dạy võ lớn nhất, nổi tiếng nhất Trung Hoa!

Nền của sân luyện võ được lát bằng những viên đá núi. Sau mấy trăm năm, bàn chân người đã làm mòn lớp đá sù sì, có chỗ còn lõm hẳn xuống, trở thành điểm đánh dấu đường lối bộ pháp cho những người mới nhập môn!

Lúc này, trên sân tụ tập rất đông người. Họ cổ vũ cho hai kẻ đang đánh nhau chí chóe!

Một bên là nhân sư trọc đầu, tuổi gần bốn mươi, to lớn, vạm vỡ, sử dụng trường côn. Bên kia là một tăng nhân cao lớn, y phục thùng thình, lem luốc, râu ria rậm rạp và mái tóc bù xù xoã dài.

Thật khó xác định người này có phải hòa thượng hay không?

Song vì gã mặc tăng bào xám, nên chúng ta cứ xem như sư sãi!

Gã ta không xử dựng vũ khí mà ngang nhiên dùng quyền cước chống cự với cây côn gỗ cứng rắn, đen bóng.

Pho quyền pháp mà nhà sư tóc dài thi triển chính là Kim Cương Phục Hổ quyền của Thiếu Lâm.

Đôi tay dài thượt của gã đôi lúc biến thành trào hổ, dũng mãnh uy hiếp lồng ngực đối phương. Còn hai cước thì liên tục búng ra những đòn đá chớp nhoáng, tấn công từ bụng đến gối kẻ địch. Quyền phong vù vù xé không gian, biểu hiện một sức mạnh phi thường!

Nhà sư đầu trọc cũng lợi hại không kém, trường côn vun vút bay lượn, đòn nào cũng nặng nghìn cân!

Thế mà, nhà sư toc dài vẫn đủ sức vừa đánh vừa la hét:

- Đại Lực sư huynh không làm gì được tiểu đệ đâu, mau nhường chỗ cho Vô Dụng Sa Di này thôi.

Té ra nhà sư không tóc là Đại Lực, vì ông ta khỏe như voi, còn người tóc dài, râu rậm là Sa Di Vô Dụng.

Thấy Phương trượng Bạch Vân và khách xuất hiện, Vô Dụng tấn mạnh một trảo, đánh bạt trường côn ra rồi nhảy lùi, quì xuống gọi:

- Sư Bá Chưởng môn! Xin người cho phép đệ tứ được đấu với gã kiếm khách mặt trắng kia! Nếu để Đại Lực sư huynh xuất trận, chắc chắn sẽ bại thôi!

Đại Lực cũng quì lạy:

- Bẩm sư phụ! Gã điên này không chấp hành mệnh lệnh của Chưởng môn, cứ lằng nhằng tranh giành với đệ tử? Đã tên là Vô Dụng thì còn làm gì được nữa?

Vô Dụng nghe xong, bất ngờ vung quyền đấm vào vai, khiến đối phương lăn ra!

Đại Lực giận dữ thọc cước trả đũa, song Vô Dụng đã nhảy lùi cười hể hả:

- Sư huynh có giỏi thì ra đây đấu tiếp.

Đại Lực chụp côn nhảy đến đánh liền. Gã không còn nương tay nên Vô Dụng liên tiếp phải khoá hậu, miệng oang oang kêu đau!

Quần tăng đứng ngoài ôm bụng cười ngất trước cảnh náo nhiệt. Đất Phật trang nghiêm, có bao giờ họ được chứng kiến màn kịch khôi hài thế này đâu?

Bạch Vân thiền sư cũng cười, nhưng phải bóp bụng quát:

- Dừng tay!

Ông quay sang nhìn Sĩ Hạo, hài lòng khi thấy ánh mắt gã có lửa giận.

Họ Trương biết phái Thiếu Lâm bày trò hí lộng mình, nhưng không đoán ra chủ ý. Gã cố nhẫn nhục vì tin vào bản lãnh siêu việt của mình.

Trong lúc Bạch Vân rời chỗ, đi quở mắng hai đệ tử thì Phương tri huyện trổ tài cài bẫy:

- Nhà sư quái dị đầu tóc bù xù kia là đệ tử của Bạch Hải thiền sư, đã quá cố! Gã bị mang pháp danh Vô Dụng cũng vì tính nết gàn dỡ, điên khùng, võ nghệ thì không sánh bằng Đại Lực! Phái Thiếu Lâm chắc chắn sẽ chọn Đại Lực chứ không chọn Vô Dụng!

Phía xa xa, cái giọng oang oang của Vô Dụng cứ vang lên:

- Xin Chưởng môn sư bá giữ đạo công bằng cho! Để đệ tử đánh với Đại Lực sư huynh xem ai xứng đáng đại diện bổn tự?

Nói dứt lời, gã lén đá vào mông Đại Lực rồi bỏ chạy!

Đương nhiên, Đại Lực lại rượt theo!

Bạch Vân thiền sư bối rối, thở dài tỏ vẻ bất lực. Người ngoài sẽ tưởng ông niệm tình sư đệ đã chết nên không dám nặng tay với gã sư diệt điên khùng!

Thực ra, ông bối rối vì không quen diễn kịch, và thầm hổ thẹn.

Ở đây Phương tri huyện nhẹ nhàng thọc mũi đao mưu kế vào sâu hơn:

- Thiếu hiệp tính sao? Trời đã sắp trưa rồi hay là thiếu hiệp cứ lần lượt đả bại từng người cho phái Thiếu Lâm phải tâm phục khẩu phục? Thú thực là bổn chức cũng chẳng ưa gì họ.

Năm ngoái tiên mẫu từ trần, bổn chức đến nhờ họ lập trai đàn, ma chay thì họ từ chối khéo rằng mình là Thiền Tông chứ chẳng phải Tỉnh Thổ Tông!

Trương Sĩ Hạo dù là kẻ cơ trí bậc nhất võ lâm cũng phải lầm trước thủ đoạn của một lão quan già! Quan trọng còn khốc liệt hơn chốn giang hồ bội phần!

Trương Sĩ Hạo suy nghĩ một lúc, gật đầu đồng ý.

Phương tri huyện cao giọng gọi:

- Mời Phương trượng đến đây. Trương thiếu hiệp đã đồng ý lần lượt tỷ đấu với Đại Lực và Vô Dụng.

Bạch Vân thiền sư liền quay lại.

Hai đệ tử cứng đầu kia cũng lót tót treo sau!

Ông ngượng ngùng nói:

- Khí độ rộng rãi của Trương thí chủ khiến lão nạp phải hổ thẹn! Chỉ vì lão nạp dạy dỗ đệ tử không chu đáo nên mới có cảnh rối rắm này. Thôi thì, lão nạp sẽ cho Đại Lực đánh trận đầu, nếu gã thua, Vô Dụng sẽ đánh trận thứ hai! Trương thí chủ toàn thắng cả hai, bổn tự nhận bại! Giữa hai trận, thí chủ có quyền nghỉ ngơi bao lâu cũng được.

Sĩ Hạo điềm đạm đáp:

- Nếu đệ tử có lỡ tay, mong đại sư lượng thứ cho!

Không hiểu sao, Bạch Vân thiền sư lại nghe rợn người! Ông thở dài, ra hiệu cho Đại Lực, lòng lo lắng không nguôi!

Vì thanh danh của Thiếu Lâm, ông mong mỏi Đại Lực thắng trận, không cần đến bàn tay của Nam Cung Giao. Song giờ đây, ông linh cảm rằng mình đã quá cố chấp! Đại Lực không những thua mà còn có thể tàn phế hay bỏ mạng, dưới lưỡi kiếm của Sĩ Hạo.

Gã không còn là người khi đã hòa lẫn với thanh thép lạnh lẽo trong tay! Và thép thì không có lòng nhân!

Thay vì dặn dò đệ tử phải tận lực thắng, Thiền sư lại nghiêm giọng bảo:

- Đại Lực! Con không được hiếu thắng mà uổng mạng! Nếu thấy nguy thì phải bãi chiến ngay. Tấm bảng sắc phong kia tuy quí nhưng không thể sánh với mạng người!

Đại Lực là con của đôi vợ chồng tiều phu dưới chân núi Thiếu Thất. Năm gã mười tuổi, song thân bị cây ngã đè chết, được Bạch Vân thiền sư đem lên núi nuôi dạy.

Đại Lực tuy lỗ mãng nhưng rất hiếu thuận, chẳng bao giờ dám trái ý sư phụ.