Tử Thư Tây Hạ

Quyển 3 - Chương 13: Cổng đồng bọc vàng




Đường Phong cũng không hiểu lại sao lúc này tim mình đập nhanh như vậy. Anh lại liến lên phía trước nửa bước, và đột nhiên, mắt anh mở to, đèn pin trong lay suýt nữa thì rơi xuống đất. Anh trông thấy... anh trông thấy trước mặt là phần dưới của bộ hài cốt bị kẹp trung cánh cửa đồng bọc vàng nặng trịch.

1

Hàn Giang nhìn lối đi thênh thang phía bắc. Hình như lối đi chưa đục đẽo xong, nên chỉ sâu chưa tới chục mét, trong lối đi còn chất đống rất nhiều đá vụn, thậm chí còn có cả hai chiếc xẻng sắt đã gỉ sét.

“Anh không phát hiện thấy sao? Lối đi này rộng rãi hơn lối đi chúng ta đã đi qua”, Đường Phong ở bên cạnh nhắc nhở Hàn Giang.

“Chỉ dựa vào điều này mà nói rằng lối đi nảy không đơn giản ư?”

“Không! Quan trọng hơn là đống đá vụn đó!”

“Đá vụn?”, Hàn Giang không hiểu.

Đường Phong dẫn Hàn Giang, Makarov, ba người đi vào lối đi rộng rãi này, đi mãi cho tới tận cuối đường. Ba người cẩn thận rón rén di chuyển về phía trước vài bước, mũi chân Đường Phong chạm vào một viên đá hình bầu dục. Anh dùng đèn pin soi xung quanh, vách đá được mài kĩ lưỡng, gần như không khác gì so với vách đá trong thạch điện, nhìn tiếp phía trước, chặn đứne đường đi của họ không phải là vách đá, mà là những hòn đá vụn được chất đống như núi.

Đường Phong nhặt một hòn đá dưới đất lên, nhìn ngắm một lúc, nói: “Những hòn đá này xem ra không phải là đá vụn thông thường mà là những viên đá hình tròn hoặc hình bầu dục đã được mài giũa kĩ lưỡng.”

Hàn Giang gật gù: “Hình như là được mài giũa, nhưng điều này cũng không thể thay đổi được sự thật đây là một ngõ cụt.”

“Đối với chúng ta là ngõ cụt, nhưng đối với lối đi này mà nói thì nó không phải là ngõ cụt. Từ tình hình xung quanh phán đoán, lối đi vẫn trải dài về phía trước, chỉ có điều hiện giờ đang bị những hòn đá này chặn đứng mà thôi.”

“Ý anh là lối đi này chưa hết, phía sau những hòn đá vẫn còn đường?”, Hàn Giang ngạc nhiên.

“Phía sau những hòn đá này sẽ có gì nhỉ?”, Makarov hỏi.

“Không biết, có lẽ đằng sau vần là một vách đá, vậy thì lối đi này đúng là một ngõ cụt. Nếu là như vậy thì những hòn đá này chỉ là những vật liệu kiến trúc vứt bừa bãi mà thôi!”, Đường Phong suy đoán.

“Nhưng tôi thấy không giống. Nếu phía sau đống đá này chính là một vách đá, vậy thì tại sao còn phải đục đẽo mở thêm hướng bắc để làm gì? Hình thế của phía bắc đều khác ba mặt phía đông, nam, tây, nên chắc chắn là ban đầu làm vậy đều có ý cả!”, Hàn Giang cũng cảm giác có điều gì đó bí ẩn phía sau những hòn đá này.

“Tôi cũng nghĩ như vậy, bởi vậy mới nói phía sau những hòn đá chắc chắn có điều gì đó hay ho”.

Đường Phong vừa nói vừa nhìn Hàn Giang, hỏi ý kiến: “Anh xem chúng ta hiện giờ nên làm thế nào?”

“Ý cậu là gì?”

“Ngu công dời núi thôi!”

“Cậu điên rồi! Cậu có biết chỗ đá này nhiều thế nào không? Hiện giờ còn chưa trông thấy phía sau có bao nhiêu đá nữa!”

Tính ngang ngạnh của Đường Phong lại trỗi dậy, khiến Hàn Giang cũng không neãn được. Chỉ thấy Đường Phong xắn tay áo, vung tay khởi động, bắt đầu bê những hòn đá trước mặt, anh xếp ngay ngắn từng hòn từng hòn đá dọc theo lối đi. Chẳng mấy chốc hai bên lối đi đã hình thành hai bức tường đá.

Hàn Giang và Makarov cũng đành phải đen giúp Đường Phong bê đá. Đường Phong bò lên đống đá, chẳng mấy chốc đã vạch ra được một lối đi trên đó. Lại bê tiếp thêm một lúc, anh đứng trên đống đá, bỗng hưng phấn hét lên với Hàn Giang và Makarov: “Ở đây, phía sau không phải là đá, đã có thể nhìn thấy đằng sau rồi!”

“Phía sau là gì vậy?”, Hàn Giang đứng dưới hỏi.

Đường Phong vẫn đứng trên đống đá, nhưng mãi một hồi lâu không thấy trả lời...

“Rốt cuộc cậu trông thấy gì vậy?”, Hàn Giang lại thúc giục hỏi.

“Không nhìn rõ lắm, hình như... hình như lại là một cái cổng...”, Đường Phong ngập ngừng nói.

“Cổng?!”, Hàn Giang và Makarov giật mình.

“Đừng quan tâm nhiều nữa, dọn đống đá này đi đã!”, Đường Phong kêu lên.

May mà đống đá này không nhiều lắm, ba người mất hơn nửa tiếng đồng hồ mới dọn được hơn một nửa đống đá. Tuy đá dưới đáy vẫn chưa dọn sạch nhưng họ đã trông thấy một điều bất ngờ - một cánh cổng bằng vàng hiện lên trước mặt họ.

2

“Gì vậy?”, Hàn Giang ngạc nhiên tới nỗi há hốc mồm kinh ngạc.

“Cổng bằng vàng ròng?”, Makarov cũng bất ngờ tới nỗi không khép được miệng.

Ngược lại Đường Phong trấn tĩnh hơn, anh đeo găng tay, vuốt lớp bụi trên cánh cổng đi, tỉ mẩn quan sát. Anh phát hiện ra có vài chỗ trên cánh cổng vàng bị bong tróc, lộ ra gỉ đồng màu xanh, anh cười: “Đây không hẳn là một cánh cổng bằng vàng ròng đâu.”

“Đó là gì vậy?”

“Cổng đồng bọc vàng. Bên ngoài mạ một lớp vàng, bên trong được làm bằng đồng.”

“Như vậy cũng hoành tráng lắm rồi!”, Hàn Giang nói.

“Đúng vậy! Quý giá hơn những cánh công gỗ sơn vàng bên ngoài nhiều!”, Đường Phong nhìn cánh cổng đồng bọc vàng trước mắt, không khỏi cảm phục, “Không ngờ trong lối đi âm u sâu hun hút như thế này, mà lại có một cánh công lớn quý giá như vậy. Nếu tôi nhìn không lầm thì đây là một cánh cổng bằng đồng được chế tác tinh xảo, bên ngoài mặt đồng là một lớp vàng, rồi lại vẽ tranh trên lóp vàng đó. Chỉ có điều bao năm đã trôi qua rồi, nên hiện giờ chúng ta rất khó có thể nhìn thấy được toàn bộ diện mạo của cánh cổng này. Nhưng chúng ta vẫn có thể tưởng tượng ra, năm đó cánh cổng bằng đồng bọc vàng này lấp lánh huy hoàng thế nào trong lối đi âm u hun hút này.”

“Tại sao phải dựng một cánh cổng quý giá như vậy ở đây làm gì nhỉ?”, Makarov hỏi.

“Cái này thì phải hỏi Nguyên Hạo thôi. Nhưng chúng ta có thể thử nghĩ một chút, cánh cổng này quý báu như vậy, vậy thì đằng sau nó chắc chắn còn có những thứ đáng để kinh ngạc và quan trọng hơn!”, Đường Phong không che giấu được sự hưng phấn trong lòng.

“Vậy tại sao trước cửa cánh cổng này lại chất nhiều đá như vậy?”, Hàn Giang không hiểu.

“Có lẽ vì thế mà có thể so sánh với đống đá chặn cửa trước địa cung lăng mộ, điều này càng thể hiện rõ tính quan trọng của không gian phía sau cánh cổng lớn này”, Đường Phong nói.

“Vậy thì còn chờ gì nữa, mau bê những viên đá còn lại đi thôi!”, Hàn Giang phấn khởi hét lên.

“Đợi đã... tôi bỗng nhớ ra một chuyện, nếu như đã có người vào đây từ trước đó rất lâu rồi, thì tại sao lại không mở cánh cổng bằng đồng bọc vàng này ra?”, Đường Phong bỗng nhớ ra vấn đề mấu chốt.

“Mặc kệ nó? Có lẽ họ vốn không phát hiện ra phía sau những hòn đá vẫn còn một cánh cổng hoành tráng như vậy! Chúng ta mở cánh cổng này ra thì sẽ rõ hết mọi chuyện thôi!”, Hàn Giang thúc giục.

Không biết do phấn khích hay do hoảng loạn, có lẽ phần lớn là do sự kì vọng vào thế giới còn chưa được biết tới phía sau cánh cổng, nên ba người đã bê đá rất nhanh.

Vẫn còn một số hòn đá cuối cùng ở phía dưới. Khi Đường Phong nhấc một hòn đá to tướng lên, thì người anh bồng cứng đờ, mắt không chớp nhìn chằm chằm vị trí dưới hòn đá! Hàn Giang nhìn bộ dạng đó của Đường Phong cũng hơi sững sờ, anh dùng đèn pin soi về phía mà Đường Phong nhìn không chóp mắt và cũng run bắn người lên. Anh vội vàng ngồi xổm xuống, rồi lại bê hai hòn đá đi, một đoạn xương trắng hiện lên trước mắt anh.

Hàn Giang từ từ đứng dậy, miệne lẩm bẩm: “Là một đoạn xương trắng! Xương người!”

‘Không! Là một bộ xương!”, Đường Phong chậm rãi nói.

“Một bộ?”, mọi người kinh ngạc.

Đường Phong không tiếp lời Hàn Giang, cúi ngay người xuổng, khẩn trương bê hòn đá bên cạnh đoạn xương trắng đó đi. Cứ mỗi hòn đá được bê đi, thì càng nhiều xương trắng hiện lên trước mặt họ.

Đường Phong vẫn ra sức bê, nhưng Hàn Giang ngăn anh lại: “Khoan đã!”

Đường Phong không hiểu Hàn Giang có ý gì, nhưng anh cũng dừng lại. Hàn Giang lấy từ trong túi ra một cái bàn chải và một túi đựng vật chứng, cẩn thận ngồi xuống, dùng bàn chải tỉ mẩn quét sạch từng chút bụi đất trên xương trắng.

Đường Phong thấy Hàn Giang cẩn thận như vậy liền cười: “Ồ! Anh cẩn thận như vậy chắc còn hi vọng lấy được cả dấu vân tay trên xương hả?”.

“Đó là sự hoang tưởng ngu ngốc. Tiếp đây cậu hãy làm theo những gì tôi dặn, tôi bảo cậu bê hòn đá nào thì hãy bê hòn đá đó!”, Hàn Giang nói bằng giọng ra lệnh.

“Tuân iệnh!”, Đường Phong bó tay lắc đầu.

Đường Phong làm theo lời Hàn Giang dặn, khẽ khàng bê nhữne viên đá vụn cuối cùng trước cổng đi, tất cả xương trắng đều đã phơi bày trước mặt họ.

Hàn Giang dùng máy ảnh kỹ thuật số chụp lại hai bức ảnh xương cốt, Đường Phong thì nghi ngờ, ngạc nhiên hỏi: “Hóa ra là một nửa bộ xương.”

Hàn Giang chụp ảnh xong, cất máy ảnh đi, thở dài, nói: “Không! Là một bộ, là một bộ xương hoàn chỉnh.”

“Nhưng chúng ta chỉ nhìn thấy nửa bộ hài cốt thôi mà! Hình như là nửa trên của người này!”, Đường Phong ngạc nhiên, không hiểu.

“Cậu nhìn kĩ lại xem, người này có nửa thân dưới đấy chứ”, Hàn Giang nhắc nhở Đường Phong.

Đường Phong cầm lấy đèn pin trong tay Hàn Giang rồi lại soi về phía bộ xương trước cổng, tò đầu tới chân, từng chút từng chút một, xương sọ, xương lồng ngực, xương cánh tay, xương chậu... tới phần xương chậu thì hết rồi. Đường Phong cũng không hiểu tại sao, lúc này tim anh đập loạn xạ. Anh lại tiến lên phía trước nửa bước, đột nhiên, mắt anh mở to, chiếc đèn pin trong tay xém chút nữa là rơi xuống đất. Anh trông thấy... trông thấy nửa phần dưới của bộ xương này bị kẹp bên trong cánh cổng bằng đồng bọc vàng nặng trịch.

“Cái... cái này thật...”, Đường Phong vô cùng hoảng hốt, trước mắt anh dường như lại hiện lên cảnh tượng giãy giụa trong đau đớn khủng khiếp của người trước lúc chết bị kẹt trong cánh cổng.

“Cậu nhìn rõ rồi chứ?”, Hàn Giang bình tĩnh hỏi.

“Người này bị cánh cổng kẹp chết sao?!”, Đường Phong ngạc nhiên.

“Tại sao người này chết thì hiện giờ vẫn chưa xác định được. Nhưng từ tư thế đau khổ trước lúc chết của người này thì có thể tưởng tượng: người chết chắc chắn đã gặp phải điều gì đó đáng sợ phía sau cánh cổng, nên mới bất chấp tất cả lao ra ngoài cổng thoát thân như vậy, nhưng kết quả vẫn bị cánh cổng nặng trịch này kẹp cứng”, Hàn Giang mạnh dạn suy đoán.

“Cầu chúa phù hộ cho con người bất hạnh này!”, đối diện với tư thế đặc biệt của bộ hài cot, Makarov không khỏi làm dấu chữ thập trước ngực.

“Rốt cuộc bên trong cánh cổng có thứ gì đáng sợ vậy?”, giọng Đường Phong có chút run rẩy, sự tự tin ban nãy đã biến mất.

“Đúng vậy! Phía sau cánh cổng có gì vậy nhỉ?”, Hàn Giang cũng lộ rõ sự hoang mang.

Nhưng dưới sự thôi thúc khủng khiếp của lòng hiếu kì, Đường Phong vẫn bất giác đưa tay, ra sức đẩy cánh cổng bằng đồng bọc vàng trước mặt. Nhưng Đường Phong vẫn chưa kịp đẩy thì Hàn Giang bồng kêu lên: “Đợi đã!”

Đường Phong rụt ngay tay lại: “Anh hét linh tinh cái gì thế hả?”

Hàn Giang cũng không trả lời Đường Phong, anh tới trước cánh cổng, lấy tay khẽ nhặt nắm cửa bằng đồng mạ vàng ở hai bên cánh cổng lên. Ngắm nghía một hồi, Hàn Giang bỗng hỏi Đường Phong: “Cậu có nhìn ra chỗ nào đặc biệt trên vật này không?”

“Đây không phải là một đôi nắm cửa sao? Cũng chính là cái vòng cửa bên ngoài. Thời xưa, trước cửa nhà nào chẳng có thứ này?”

“Không! Không phải tôi hỏi cậu cái này. Cậu có nhìn thấy đoạn dây thừng trên vòng cửa không?”, Hàn Giang khẽ nhấc đoạn dây thừng đã mục nát trên nắm cổng bên trái lên.

Lúc này Đường Phong mới để ý thấy đoạn dây thừng này. Anh cầm lên nhìn kỹ: “Đoạn dây thừng này xem ra cũ lắm rồi, nhưng...”

“Nhưng gì cơ?”

“Nhưng loại dây thừng này chắc chắn không phải từ thời Tây Hạ. Lúc đó không thể có loại dây thừng này được, lai lịch của nó chắc chỉ trong vòng gần trăm năm nay thôi”, Đường Phong phán đoán.

“ừm, tôi cũng nghĩ vậy!”, Hàn Giang nói.

“Điều này cho thấy trong gần một trăm năm nay có người đã từng tới đây, nhưng chắc chắn không phải là cái gã bí ẩn đó!”, Makarov nói.

“Đừng quan tâm nhiều nữa, vào bên trong trước đã rồi tính!”, Đường Phong lại chuẩn bị lấy súng mở cửa, nhưng anh bỗng phát hiện ra cánh cổng bằng đồng bọc vàng không có khóa cửa bên trên... Đường Phong, Hàn Giang và Makarov ngạc nhiên nhìn nhau, ngây người ra một lúc mới định thần lại. Đường Phong và Hàn Giang mồi người đứng vững một bên, lòng đầy hi vọng, cùng dồn sức và cánh cổng bằng đồng bọc vàng trông nặng trịch nhường vậy đã nhẹ nhàng mở ra.

3

Ba người cẩn thận tiến từng bước vào bên trong, dùng đèn pin soi sáng phía trước: xung quanh là lối đi được mài phẳng. Ba người theo lối đi này tiến lên phía trước khoảng hơn ba chục bước chân thì đã đi hết lối đi, lại tới một tòa thạch điện khác.

Đường Phong bỗng cảm thấy mặt đất phía trước lấp lánh chút ánh sáng kì dị, anh vội dùng đèn pin soi chiếu:

“Là nước! Hóa ra phía trước lại có một đầm nước?”, Đường Phong ngạc nhiên kêu lên.

“Thật không thể ngờ trong huyền cung sâu hun hút này mà lại có một đầm nước?”, Hàn Giang cũng rất ngạc nhiên.

Nhưng Makarov lại phân vân nói: “Đó không phải là đầm nước đâu, bên trong cũng không phải là nước.”

“Ồ?”, Đường Phong và Hàn Giang cùng nhìn Makarov.

“Đó là thủy ngân!”, Makarov khẳng định.

“Thủy ngân!”, Hàn Giang ngạc nhiên.

“Đầm thủy ngân trong huyền cung!”, Đường Phong lập tức nghĩ tới những đầm thủy ngân ở trong lăng mộ của đế vương được ghi chép lại trong những cuốn sách từ thời cổ đại, đây... đây lẽ nào chính là “đầm thủy ngân” được ghi chép trong sử thi? Đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy.

“Thủy ngân cực độc, mọi người phải cẩn thận!”, Makarov cảnh báo.

Đèn pin trong tay Đường Phong quét một lượt khắp Phật điện, phía trước chỉ có đầm thủy ngân này, không có con đường nào khác để vòng qua đầm thủy ngân. “Thế... thế này là thế nào? Chúng ta làm thế nào để đi qua đó đây?”, anh hỏi.

Makarov và Hàn Giang cũng đang quan sát. Chùm ánh sáng từ đòn pin của ca ba rốt cuộc đều chụm lại tại bờ phía bắc của đầm thủy ngân, một đoạn cầu thang từ bờ phía bắc đầm thủy ngân kéo dài lên trên, cho tới tận bậc thềm của bờ phía bắc...

Đường Phong nhìn không rõ tình hình trên bờ, trước mắt họ chỉ có cái đầm thủy ngân này, chỉ có thông qua đây họ mới có thế bước lên được bậc thềm của bờ phía bắc. Đường Phong nhìn Hàn Giang, Hàn Giang nhìn Makarov, chẳng ai có cách nào để vượt qua cái đầm thủy ngân này. Một cái đầm thủy ngân bé tẹo mà lại trở thành vật cản mà họ không thể vượt qua.

Ba người nhìn nhau, chẳng có cách nào. Hàn Giang còn có vẻ trấn tĩnh hơn cả, anh lại móc vài cây nến ra, châm nến cắm lên những cái máng trên vách đá bên cạnh, trên lối đi cũng cắm thêm hai cây nến. Anh vừa mới cắm xong nến thì chân bỗng đá phải thứ gì đó. Mượn ánh nến, anh phát hiện ra bên trái lối đi có một tấm gồ đài.

Mắt Hàn Giang sáng lên: “Sao trong lối đi lại có một tấm gỗ thế này nhỉ?”

Đường Phong lập tức nghĩ tới nguyên do: “Chúng ta ngốc thật đấy, hồi đó chắc chăn cùng có người phải đi qua đây, thì nhất định phải có công cụ để đi qua, tấm gồ này không phải được chuẩn bị cho đầm thủy ngân sao? Đúng là trên đời này chẳng có con đường cùng!”

“Phải cẩn thận, vì tấm gỗ này trông cũng đã qua bao 5 năm nay rồi, ngộ nhỡ...”, Hàn Giang không nói tiếp, nhưng trong đầu cả ba người đều hiện lên cảnh tượng đáng sợ nếu trượt chân rơi xuống đầm thủy ngân.

Makarov ngồi xuống cẩn thận kiểm tra tấm gỗ. Mãi lâu sau ông mới khẽ gật đầu: “Tấm gồ này tuy cũ rồi nhưng nếu tải sức nặng của một người chắc, không có vấn đề gì, chúng ta từng người qua một.”

“Không! Chúng ta bắt buộc phải để lại một người ở đây đề phòng bất trắc!”, Hàn Giang đề nghị.

“ừm, hai người đi qua, một người ở lại đây”, Đường Phong cũng đồng ý.

Hàn Giang có ý muon Makarov ở lại đây, nhưng ông vẫn cố chấp muốn sang bên kia. Hàn Giang liền nghĩ lại, ở cái chỗ quái quỷ này thì chẳng chỗ nào an toàn. Vậy là, rốt cuộc anh đã đồng ý để Makarov và Đường Phong qua đó, còn mình thì ở lại thạch điện.

Gác tấm gỗ xong, không dài không ngắn, vừa đúng chiều dài của đầm thủy ngân, xem ra đúng là được chuẩn bị sẵn cho việc qua đầm. Đường Phong nhảy lên tấm ván đầu tiên. Tấm gỗ chỉ rộng 30 cen-ti-mét, lại cộng thêm năm tháng cũ kĩ nên Đường Phong bước trên đó nghicng nghiêng ngả ngả, giống như đang bước trên chiếc cầu độc mộc vậy.

Đường Phong dang hai tay ra, cố gắng hết sức giữ thăng bằng, anh không dám nhìn xuống dưới chân, nhưng không thể không nhìn. Trông thấy cả một đầm thủy ngân đầy ắp mà thấy đau đầu, toàn thân lắc lư, xém chút nữa là mất thăng bằng. May mà anh kịp thời ngồi xổm xuống để lấy lại thăng bằng.

Đường Phong từ từ đứng dậy, tiếp tục tiến lên phía trước, 34 bước! Đường Phong nhớ rõ từng bước chân trên tấm gỗ. Rốt cuộc, Đường Phong đã thắng lợi khi trông thấy bờ bắc, nhưng anh không dám nhảy phắt lên đó mà vẫn phải bước từng bước nhỏ dịch chuyển về phía đó.

Makarov cũng rất thuận lợi đi qua tấm gỗ, Đường Phong và ông cùng nhìn nhau một cái, không hẹn mà gặp cùng hướng về bậc thềm trên bờ phía bắc. Ở đó sẽ có gì vậy? Kho báu của vương triều Tây Hạ? Hay là kệ tranh ngọc thứ ba mà họ khổ sở tìm kiếm?

4

Bậc thang dẫn lên bậc thềm đó yừa vặn có thể cho hai người cùng đi, Đường Phong và Makarov cùng leo lên đó, tổng cộng có 14 bậc. Khi chân Đường Phong chạm tới bậc thang cao nhất, anh không khỏi run rẩy. Bởi vì dưới ánh đèn pin, anh đã thấp thoáng trông thấy cảnh tượng khiến anh chấn động.

Một Phật đài hoành tráng hiện lên trước mắt anh, bảy bức tượng Phật cao to xếp thẳng hàng trên Phật đài, hùng vĩ oai phong. Bên cạnh tượng Phật là những pho tượng Bồ tát, La hán xếp xung quanh. Cảnh tượng này khiến Đường Phong bồng nghĩ tới Linh Sơn ở Tây Thiên, lẽ nào đây chính là thế giới cực lạc Tây Hạ?

Đường Phong cố gắng hết sức giữ bình tĩnh, và chỉ nhìn một cái là anh đã phán đoán ra ngay: những thứ này đều là tượng Phật mang phong cách Tây Hạ, không cần phải hỏi, ở đây chăc chăn vân là kiệt tác của Hạo Vương.

Nhưng cảnh tượng còn khiến Đường Phong và Makarov chấn động hơn không chỉ có vậy.

Đường Phong dùng đèn pin soi vào phía sau tượng Phật, anh phát hiện ra sau Phật đài vần chưa kịch đường, tối om om, giống như vẫn còn một không gian rộng lớn. Đường Phong và Makarov vòng ra sau Phật đài, hai người kinh ngạc phát hiện ra trên vách đá phía sau Phật đài lại xuất hiện một cửa hang ra hình ra vẻ.

Đường Phong đang định bước đi thì bỗng dưới chân vang lên tiếng kim loại leng keng, anh vội vàng dùng đèn pin soi xuống dưới, trong lớp bụi bặm thấp thoáng hiện lên vật gì giống hai đồng xu. Anh cúi xuống nhặt “hai đồng xu” đó lên, rồi chỉ nhìn một cái đã kêu lên: “Quả nhiên đã có người từng tới đây!”

“Sao cơ? Cậu phát hiện ra gì vậy?”, Makarov hỏi.

“Lão Mã, bác xem, đây là tiền xu từ thời Dân quốc, chúng cháu gọi những đồng xu này với tên dân dã là: Viên đầu to”, Đường Phong đưa đồng bạc cho Makarov.

Makarov cúi nhìn: “Cũng có nghĩa là thời Dân quốc đã có người tới đây rồi!”

“Xem ra quả đúng như vậy. Sợi dây thừng trên tay nắm cổng, xương người trong khe cổng, lại còn cả cánh cổng bị biến mất phía nam thạch điện, tất cả những điều này đều nói lên rằng, trước chúng ta đã có người từng tới đây. Nhưng họ tới đây sớm hơn chúng ta rất nhiều, hai đồng xu này cho thấy những người đó đã vào đây khoảng thời kì Dân quốc!”, Đường Phong suy đoán.

Makarov cũng trầm ngâm một hồi: “Đường Phong, cậu nói như vậy tôi cũng bỗng nhớ tới hai bộ xương mà chúng ta phát hiện thẩy trong Thất sắc cẩm Hải.”

Mắt Đường Phong sáng lên, ngạc nhiên nói: “Đúng vậy! Lúc đó trong động thác ngầm chúng ta đã phát hiện thấy một số súng ống đạn dược và công cụ, đều từ thời Dân quốc, bởi vậy mới phán đoán hai bộ xương đó cũng thuộc thời Dân quốc.”

“Sau đó đại Lạt ma ở Thất sắc cẩm Hải cũng từng kể với chúng ta rằng: những năm 40 của thế kỷ trước từng có bốn người tới Thất sắc cẩm Hải tìm kiếm kệ tranh ngọc trong tuyết sơn A Ni Mã Khanh. Người dẫn đầu nhóm người đó còn tự xưng là thiếu tá của cục bảo mật chính phủ quốc dân”, Makarov nhớ lại.

“Lão Mã, nếu bác không nhắc lại thì cháu cũng quên mất đấy. Đúng là đại Lạt Ma đã nhắc tới bốn người xông vào Thất Sắc Cẩm Hải, sau đó những người trong bộ tộc của đại Lạt Ma đã bày kế lừa những người này vào trong động thác đá... Hôm nay, trên núi chùa Hắc Thứu, chúng ta lại phảt hiện ra di vật và hài cốt từ thời Dân quốc. Lẽ nào... lẽ nào thời Dân quốc đã từng có một nhóm người vi hí mật của kệ tranh ngọc, mà đã bày ra một trận tranh giành đổ máu như vậy?”

“Một trận chiến kéo dài cả trăm năm!”, Makarov lẩm bẩm.

“Có lẽ trận chiến này chưa từng dừng lại!”, Đường Phong than thở.

Makarov im lặng, dùng đèn pin soi xung quanh. Đột nhiên, ông chỉ vào phía sau bức tượng to nhất ở giữa, hét lên: “Đường Phong, ở đây có chữ!”

Đường Phong nhảy lên Phật đài, soi đèn pin lên lưng Phật, một dòng chữ Tây Hạ viết theo hàng dọc hiện lên trên lưng Phật. Đường Phong tập trung nhận biết, chầm chậm đọc ra: “Giới - Đàn - Thượng - Tự - Trung - Điện - Cát- Vị.”

“Đường Phong, nghĩa là gì?”

“Xem ra đây chính là Thượng tự mà chúng ta tìm kiếm!”, Đường Phong tự lẩm bẩm trong niềm phấn chấn.

“Không ngờ người Đảng Hạng lại xây đựng một tự viện hùng vĩ như vậy trong lòng núi!”, Makarov lại nhìn xung quanh cảm phục.

“Càng quan trọng hơn là câu này đã tiết lộ cho chúng ta biết vị trí hiện giờ mà chúng ta đang đứng. Đây chính là điện ở giữa của Thượng tự, như vậy cũng có nghĩa là tòa thạch điện mà chúng ta thấy ban nãy chính là tiền điện, đồng thời còn nói cho chúng ta biết phía sau chúng ta chắc là vẫn còn một hậu điện nữa!”, Đường Phong càng nói càng phấn chấn.

“Đường Phong, tôi biết trong văn hóa kiến trúc của Trung Quốc, thì thường những gì ở phía sau sẽ là quan trọng nhất, đúng không?”, Makarov hỏi.

“Không hẳn là vậy, nhưng thông thường thì lăng mộ trong địa cung sẽ là như vậy!”, Đường Phong buột miệng.

Đường Phong vừa nói xong cả hai đều sững sờ. Lăng mộ trong địa cung? Lẽ nào vị trí mà họ đang đứng đây chính là một tòa vương lăng Tây Hạ? Đường Phong nhanh chóng gạt bỏ suy nghĩ này, vương lăng Tây Hạ đều nằm trong núi Hạ Lan thì sao có thể xuất hiện ở đây được?

“Vậy chúng ta mau tới hậu điện xem sao!”, Makarov chỉ vào cửa hang trước mặt thúc giục.

Hậu điện? Cửa hang trước mặt lẽ nào là lối đi thông tới hậu điện? Trong hậu điện sẽ có gì đây? Hàng loạt những câu hỏi không ngừng hiện lên trong đầu Đường Phong. Anh nhảy xuống Phật đài, anh đã vô cảm với những cửa hang tối đen sâu hun hút, nên hiện giờ chỉ muốn nhanh chóng thoát khỏi bóng tối. Chui vào trong này sẽ có thể chui vào một thế giới xán lạn, hay vẫn lại là bóng tối thăm thẳm đây?

5

Đường Phong và Makarov không chút do dự đã chui vào cửa hang dần tới hậu điện. Hai người đi được hơn năm chục bước trong lối đi, nhưng vẫn chưa trông thấy điểm kết thúc. Đường Phong trong lòng không khỏi nghi ngờ:

"Theo lý thì lối đi nối giữa trung điện và hậu điện không thể dài như vậy được chứ nhỉ?”

“Đúng vậy, lối đi từ tiền điện tới trung điện cũng không dài như vậy!”, Makarov cũng cảm thấy kì lạ.

“Lão Mã, bác có phát hiện thấy không, lối đi này không rộng bằng lối đi phía trước, nhưng rất quy củ, rõ l àng là có bàn tay con người mài giũa.”

“Đúng là có chút kĩ lạ. Nếu theo như dự đoán của chúng ta thì hậu điện quan trọng hơn, vậy thì lối đi vào hậu điện đáng lẽ phải rộng hơn, cổng của hậu điện cũng phải quý hơn, cao cấp hơn, không biết chừng lại là một cánh cổng bằng vàng ròng cũng nên..

“Cổng bằng vàng ròng?”, Đường Phong ngây người ra rồi lập tức cười, nói: “Lão Mã, bác giỏi tưởng tượng thật đấy, bác có biết để đúc được một cánh cổng bằng vàng ròng thì phải tốn mất bao nhiêu vàng không? Neu quả thật ở phía trước đang có một cánh cổng bằng vàng ròng đợi chúng ta, thì cánh cổng sơn vàng và cổng bằng đồng bọc vàng đều chỉ là phù du mà thôi, sơn vàng và bọc vàng tuy cũng đều dùng vàng, nhung so với vàng ròng mà nói thì đều chỉ là lượng vàng rất nhỏ. Cháu nghĩ, nếu quả đúng Tây Hạ có thể dùng vàng ròng để đúc một cánh cổng to nhường vậy, thì cũng phải tiêu hao gần cạn kiệt lượng vàng trong quốc khố của Tây Hạ mất.”

“Tôi chỉ suy đoán theo chế độ cấp bậc của Trung Quốc thôi mà.”

“Mong rằng cháu sẽ được trông thấy cánh cổng vàng ròng mà bác suy đoán!”

Đường Phong vừa dứt lời, anh bỗng phát hiện thấy hình như lối đi đã kết thúc. Anh không dám tin vào mắt mình, nhưng đôi mắt anh không hề lừa gạt anh, ánh sáng đèn pin đã chiếu lên một vách đá do những tảng đá lớn xếp thành.

“Đây là thế nào?”, Makarov cũng đã trông thấy.

“Thảo nào lối đi này không rộng rãi như lối đi trước đó, hóa ra là một ngõ cụt!”, Đường Phong thất vọng kêu lên.

“Không thể như vậy được! Rõ ràng phía sau pho tượng Phật ban nãy còn viết rõ đó là trung điện, phía sau trung điện thì phải có hậu điện chứ nhỉ!”, Makarov cũng không thể chấp nhận sự thật này.

Trong lúc nói chuyện hai người vẫn không ngừng bước, họ đi thật nhanh tới điểm cuối lối đi, quả nhiên không còn đường. Đường Phong thất vọng đưa đèn pin lên soi xung quanh, ở đây không hề có cánh cổng bằng vàng ròng như họ hi vọng, chỉ có những viên đá giống hệt như trong tiền điện, trung điện, xếp khít vào nhau không có lấy khe hở. Rốt cuộc là thế nào đây? Đúng là không có hậu điện sao?

Không! Không the! Nếu không có hậu điện thì tại sao phải mở lối đi dài như vậy làm gì? Đường Phong không tin đây chính là điểm kết thúc của lối đi, anh dùng đèn pin lục soát từng chút một trên vách đá... Đột nhiên, anh phát hiện ra bên trái lối đi, trên vách đá xuất hiện một dấu vết hình vòng cung, xem kĩ thi trong dấu vết này có một vài tảng đá, lộn xộn. Đường Phong đếm, tổng cộng là sáu tảng, trên hai tảng đá lớn anh nhìn thấy “lỗ mũi trâu”, và trong “lỗ mũi trâu” vẫn còn hai sợi dây thừng lòng thòng chạm đất.

“Đây là cái gì vậy?”, Makarov cũng đã nhìn ra điểm khác biệt trên vách đá bên trái.

“Vấn đề là ở đây!”, Đường Phong khẽ thở dài, nói tiếp: “Ở đây vốn dĩ là một cái cổng vòm, cánh cổng này đã bị dùng đá bịt kín chặn đứng đường đi.”

“Vậy phía sau cổng vòm này là gì vậy?”

“Biết đâu chính là cánh cổng bằng vàng ròng mà bác nói!”, Đường Phong cười.

“Cậu xem trên tảng đá có chữ này, rất nhiều là đằng khác!”, Makarov chỉ vào một trong những tảng đá nói.

Đường Phong cũng trông thấy chữ trên tảng đá, anh nhận ngay ra đây là một dòng chữ Tây Hạ: “Giới Đàn Thượng Tự, Kim Thượng Tiềm Long Chi Địa, Đương Tường Gia Bảo Hộ. Kim Phụng Hoàng Đế Bệ Hạ Chỉ, Phong Bế Giới Đàn Thượng Tự Cung Điện, Sách Hủy Sạn Đạo, Vĩnh Tuyệt Ngoại Nhân Khuy Hà. Đả Đô Ngũ Niên Thập Nhị Nguyệt.”

“Những dòng chữ này nghĩa là gì?”, Makarov không hiểu.

“Cuối cùng là niên hiệu, là niên hiệu của hoàng đế Tây Hạ đời thứ hai Lượng Tộ. Từ những dòng chữ này cho thấy, Giới Đàn Thượng Tự chính là vùng đất long ẩn của Lượne Tộ. Để gìn giữ nơi đây, Lượng Tộ đã hạ lệnh đóng kín cung điện của Thượng tự đồng thời phá bỏ lối đi dẫn tới đây”, Đường Phong giải thích.

“Vùng đất long ẩn nghĩa là gì?”, Makarov nghe có chút không hiểu.

“Hoàng đế là chân long thiên tư, vậy nên trước khi chính thức đăng ngôi hoàng đế thì được gọi là ‘long ẩn’, cũng có thể dùng để chỉ tất cả những nơi đã sinh ra hoàng đế”, Đường Phong giải thích thêm.

“Hình như tôi nhớ ra rồi. Trước đây cậu đã từng kể rằng Nguyên Hạo và hoàng hậu Một Tạng đã gặp gỡ nhau tại chùa Giới Đàn, sau đó mới có Lượng Tộ.”

“Đúng vậy! Nhưng lúc đó Một Tạng Thị vẫn chưa phải là hoàng hậu, lúc đỏ bà mới chỉ là một ni cô xuất gia, bởi vậy hai người họ mới âm thầm hẹn hò trong chùa.”

“Lẽ nào chính là nơi đây, chính là chỗ mà chúng ta đang đứng?”

“Theo như đoạn ghi chép này thì ở đây chính là nơi mà Nguyên Hạo và hoàng hậu Một Tạng hò hẹn, hơn nữa còn nói rất rõ là Giới Đàn Thượng Tự vốn không phải là chỗ di chỉ mà chúng ta nhìn thấy dưới núi.”

“Ở đây đúng là u tịnh thật, nhưng nếu như sống trong hang núi này thì cũng kì quái đấy!”.

“Đúng vậy! Cháu cũng không hiểu lễ nào Nguyên Hạo và hoàng hậu Một Tạng lại hẹn hò trong hang núi này?”, một câu của Makarov khiến Đường Phong dường như tỉnh ngộ.

6

Makarov nhìn những dòng chữ Tây Hạ trên tảng đá khổng lồ, hỏi tiếp: “Điều khiến tôi vẫn không hiểu nổi là ở đây đã là nơi long ẩn của Lượng Tộ, lẽ ra cần phải gìn giữ cẩn thận, vậy thì tại sao phải bịt kín cung điện, phá bỏ đường đi làm gì nhỉ? Làm như vậy không phải là phá hoại sao?”

Đường Phong cười cười, giải thích: “Lão Mã, cái này thì bác không biết rồi. Bác đừng coi thường những dòng ghi chép này, bên trong chứa đựng rất nhiều thông tin đấy.

Nhìn bên ngoài thì chữ khắc trên vách đá là văn tự chính thống của triều đình, giống như một bức thư, nhưng nếu phân tích kĩ lưỡng thì lại rất ra trò. vẫn là cái niên hiệu này,

Đả đô ngũ niên! Nếu cháu nhớ không nhầm thì năm đó, cái năm mà Lượng Tộ hạ lệnh bịt kín cung điện trong Giới Đàn Thượng tự và phá hủy đường đi, cũng chính là năm mà Lượng Tộ giết chết cậu của mình là Một Tạng Ngoa Bàng, thoát khỏi sự khống chế của gia tộc Một Tạng, bắt đầu đích thân điều hành triều chính, và cũng chính vào năm này, gia tộc Một Tạng đã hoàn toàn thất thế.”

“ừm, giai đoạn lịch sử này đại Lạt Ma cũng từng kể qua. Gia tộc của đại Lạt Ma chính là bắt nguồn từ gia tộc Một Tạng ”

“Vậy thì tại sao khi vừa mới đích thân điều hành triều chính, mà Lượng Tộ đã vội vàng hạ lệnh bịt kín nơi này, theo như cháu suy đoán thì ở đây có bí mật gì đó mà ông ta không thế để ọi người biết. Bí mật gì đây? Nghĩ tới pho tượng Phật trong cung điện Mùa đông, tượng Phật mà Kozlov phát hiện được trong đại Phật tháp ở Hắc Thủy Thành, nếu như xương sọ trong tượng Phật đúng là của hoàng hậu Một Tạng, vậy thì điều đó đã chứng minh cho suy đoán của Tymoshenko, đó chính là cuối cùng, chính Lượng Tộ đã ép mẹ ruột của mình phải chết. Điều này cũng có thể lý giải cho ý đồ bịt kít cung điện nơi đây của Lượng Tộ, ông vừa mới đích thân điều hành triều chính, để củng cố sự thống trị của mình, muốn nhanh chóng quét sạch sự ảnh hưởng của mẹ ông và gia tộc Một Tạng đói với vương triều, nên ông đã đày ải mẹ mình tới Hắc Thủy Thành xa xôi, rồi lại lấy lý do đường đường chính chính để bịt kín Giới Đàn Thượng tự, nơi mà gia tộc Một Tạng coi là phúc địa.”

“Quả đúng là một dân tộc còn nguyên sói tính. Năm đó Nguyên Hạo cũng vì tranh giành quyền lực với gia tộc Vệ Mộ, mà đã bức chết mẹ mình là Vệ Mộ Thị, mấy chục năm sau, con trai ông - Lượng Tộ lại lặp lại hành động mà ông năm đó đã làm!”, Makarov nhận xét.

“Không chỉ có Nguyên Hạo và Lượng Tộ đâu, những việc như vậy trong lịch sử của những triều đại sau này cũng không ngừng xảy ra”, Đường Phong dừng lại một lúc rồi nói tiếp, “Bởi vậy cháu có thế suy đoán tiếp rằng, bức tượng Phật khổng lồ trên núi và cung điện ở đây rất có khả năng được xây dựng trong giai đoạn gia tộc Một Tạng khống chế triều chính.”

“Ồ? Lẽ nào không phải là lúc Nguyên Hạo còn sống sao?”

“Chùa Hắc Thứu, cũng chính là chùa Giới Đàn, đã có từ thời Nguyên Hạo, bởi vậy hoàng hậu Một Tạng mới có thể tới đây xuất gia, rồi còn hẹn hò với Nguyên Hạo tại đây mà sinh ra Lượng Tộ. Nhưng quy mô của chùa Hắc Thứu thời đó không thể to như ngày nay mà chúng ta nhìn thấy,

không thể hùng vĩ thê này. Tất cả những gì xây dựng và tu sửa ở đây, chắc đều từ sau khi Nguyên Hạo chết, lấy danh nghĩa là để tưởng nhớ Nguyên Hạo, gia tộc Một Tạng đã tu sửa và xây dựng lại với quy mô lớn hơn. Phải hiểu rằng, trước khi Một Tạng Thị lọt vào mắt Nguyên Hạo, gia tộc Một Tạng chỉ là một gia tộc nhỏ, vốn chẳng mấy hiển hách trong các danh gia vọng tộc. Quyền hành và thế lực của gia tộc Một Tạng sau này, đều là nhờ Nguyên Hạo phải lòng hoàng hậu Một Tạng, bởi vậy sau khi có được thế lực, chắc chấn gia tộc Một Tạng cho rằng nơi này chính là phúc địa của gia tộc họ, nên mới mượn cớ xây dựng một công trình hoành tráng như vậy để tưởng nhớ Nguyên Hạo, nhưng thực chất là để gia tăng sự thống trị của gia tộc Một Tạng”, Đường Phong giải thích một tràng.

“Danh nghĩa là vì Nguyên Hạo, nhưng thực chất là vì Một Tạng?”, Makarov vẫn đang nghiền ngẫm lời nói của Đường Phong.

“Như vậy cũng đã có thê hoàn toàn giải thích ệnh lệnh của Lượng Tộ sau khi đích thân điều hành triều chính. Tuy ở đây là nơi ông sinh ra, nhưng đúng hơn còn là phúc địa mà gia tộc Một Tạng phất lên, bởi vậy Lượng Tộ tuy rất hận thù gia tộc Một Tạng chuyên quyền - nên cũng không thế yêu thích nơi này, nhưng vì gia tộc Một Tạng đã lấy danh nghĩa đây là nơi tưởng nhớ Nguyên Hạo, và đã khởi công hoành tráng, xây dựng chùa Giới Đàn, nên Lượng Tộ cũng không dễ trực tiếp phá hủy nơi này, mà chỉ có thể lấy danh nghĩa là gìn giữ đế bịt kín nơi đây, để người ngoài không trông thấy được.”

“Những dòng chữ này còn nhắc tới đường đi nữa?”, Makarov nhạy cảm phát giác ra chút gì đó.

“Đúng! Nhắc tới việc phá hủy đường đi.”

“Cũng có nghĩa là bên ngoài núi đáng lẽ có một đường đi, nhưng Thượng tự ở trong ngọn núi này, ‘phá hủy đường đi, vĩnh viễn không có người ngoài trông thấy’ để làm gì vậy?”

“Đây quả thực là một vấn đề. Đường đi...”, Đường Phong ngẫm nghĩ một hồi, nhưng vẫn không hiểu đường đi này là chỉ chỗ nào.

7

Đường Phong và Makarov không hiểu “đường đi” ghi chép trên vách đá là chỉ chỗ nào. Makarov lắc đầu, nói: “Thôi nào, chúng ta hãy nghĩ chuyện trước mắt đã! Bây giờ chúng ta phải làm thế nào?”

“Bác có trông thấy hai cái lỗ mũi trâu kia không?”, Đường Phong chỉ lên tảng đá có đục hai cái lỗ.

“Trông thấy rồi, còn cả hai đoạn dây thừng nữa. Xem ra trước chúng ta cũng có người nhanh chân hơn rồi, ít nhất là họ cũng có ý đồ dọn những tảng đá này đi.”

“Không sai! Cái lồ mũi trâu đó không thể do người Đảng Hạng đục được, mà chắc chắn là sau này người ta - vì muốn vào được bên trong, nên đã đục hai cái lồ đó để luồn dây thùng vào kéo những tảng đá ra.”

Makarov nhặt hai đoạn dây lên, nhìn kỹ rồi lại kéo thử: “Giống hệt như dây thừng trên cánh cổng bằng đồng bọc vàng, xem ra là của cùng một hội.”

“Có lẽ cũng cùng hội với chủ nhân của hai đồng tiền trong trung điện”, Đường Phong sờ sờ lên tảng đá trước mặt rồi nói tiếp: “Hơn nữa bác có đế ý thấy không, trật tự xắp đặt của sáu tảng đá này đã bị người ta tráo đổi rồi.”

“Ồ! Nói như vậy thì đám người đó đã di chuyển được những tảng đá này, tiến vào bên trong. Vậy tại sao họ lại phải bịt kín lại làm gì nhỉ?”

“Có lẽ bên trong cũng cất giấu bí mật của đám người đó..ể”

“Bí mật của đám người đó?”, Makarov không hiểu.

“Nhưng họ cũng đã giúp chúng ta được thuận tiện hơn, vì không có hai cái mũi trâu này thì trong lúc này chúng ta cũng không thể vào bên trong được đâu.”

“Ý cậu là chúng la cũng kéo những tảng đá khổng lồ này ra?”

“Thử xem sao!”, nói xong, Đường Phong liền nắm sợi dây thừng bộc vào lỗ mũi trâu chính giữa tảng đá, dốc sức lôi kéo, tảng đá bỗng nhúc nhích được một chút, “Có cửa rồi, tảng đá này không nặng như cháu tưởng.”

“Hai chúng ta cùng kéo thì sẽ có thể lôi được nó ra!”, Makarov xắn tay áo định tiến đến.

“Lão Mã, sức khỏe của bác có ổn không? Nếu không ổn thì để cháu gọi Hàn Giang vào!”, Đường Phong có chút lo lắng cho xương cốt của lão Mã.

“Đừng coi thường, tảng đá này hai chúng ta kéo ra được đấy!”, Makarov không chịu khuất phục.

Đường Phong đành phải đưa một đoạn dây thừng cho lão Mã. Đường Phong phía trước, lão Mã phía sau, hai người cùng nhau dốc sức, tảng đá nhích ra ngoài một chút. Nghỉ ngơi chốc lát, lại kéo tiếp, tảng đá khổng lồ lại được kéo ra ngoài thêm một đoạn, vài lần như vậy, rốt cuộc tảng đá đã được kéo ra ngoài hơn một mét.

Sắp xong rồi, Đường Phong muốn cùng Makarov dồn sức, “ầm...” một tiếng, cùng với bụi bay mù mịt, tảng đá đã hoàn toàn được kéo ra.

Đường Phong cảm giác mũi mình ngửi thấy mùi đất tanh, xung quanh toàn là bụi. May mà Makarov phản xạ nhanh, vội vàng kéo Đường Phong lui lại phía lối đi.

Lui tới đoạn rộng rãi trong lối đi, hai người hít một hơi lớn, đợi cho bụi bặm trong lối đi tản bớt, cả hai mới quay lại phía cuối đoạn đường. Sáu tảng đá thiếu mất một tảng, lộ ra một cửa hang vừa đủ ột người bò qua. Đường Phong lấy đèn pin soi vào bên trong, một cảm giác ớn lạnh tức tốc trào lên, khiến anh bất giác rùng mình, lùi lại phía sau.

Đường Phong và Makarov bàn bạc, rồi kéo tiếp một tảng đá cũng có một lỗ mũi trâu, để mở rộng thêm miệng hang chút nữa mới tiến vào bên trong. Vậy là, hai người dùng cách cũ, kéo tiếp tảng đá thứ hai ra. Lần này, Đường Phong có kinh nghiệm rồi nên cũng ăn ít bụi hơn.

Hai tảng đá khổng lồ được kéo ra, một cửa hang đủ ột người đi qua xuất hiện trước mặt họ. Từng cơn gió lạnh buốt từ trong động xộc ra. “Xem ra không gian phía trong rất rộng!”, Đường Phong suy đoán.

“Kết cấu giống hệt như lối đi này!”, Makarov dùng đèn pin soi vào trong hang.

Đường Phong chầm chậm bước vào thế giới trong cổng vòm, Makarov cũng theo sau. Đường Phong phát hiện lối đi trong này thẳng tap, tạo thành góc 90 độ với lối và đi bên ngoài. Anh lại phán đoán phương hướng, và quả quyết đây là một lối đi hướng về phía tây.