Tử Thư Tây Hạ

Quyển 3 - Chương 23: Nội gián




Boris Mikhaii Ivanovich Ustinov? Cái tên tiếng Nga này ngay lập tức khiến Đường Phong trở nên căng thẳng. Đây không phải Là tên mà KGB đặt lại cho Mishci, khi ông trở về Lừ sa mạc Badain Jadan hay sao?

1

Đúng lúc Đường Phong và Hàn Giang kinh ngạc trước phát hiện của Yelena, thì phía giáo sư La cũng có tin tốt lành. Giáo sư La đã ghép thành công hai kệ tranh ngọc lại, hiện giờ bốn kệ tranh ngọc “Bạch”, “Cao”,

“Đại”, “Hạ” đang nằm trước mặt mọi người.

Giáo sư La hắng hắng giọng, chậm rãi nói: “Hiện giờ đã tìm thấy cả bốn kệ tranh ngọc, đáng mừng đáng mừng.

Giờ thì tôi đã có thể thực sự hiểu được bí mật của kệ tranh ngọc. Tuy hai tấm ở núi Hạ Lan và Đôn Hoàng đã vỡ, nhưng tôi đã gắn chúng lại bằng một loại keo đặc biệt. Còn nó có dùng được hay không, thi tôi vẫn chưa dám bảo đảm, nhưng ít nhất là hiện giờ chúng ta đã có thể đọc được hai kệ tranh ngọc này...”

“Giáo sư La, bác hãy nói luôn ra, trên hai kệ tranh ngọc này viết gì đi!”, Triệu Vĩnh nóng lòng hỏi.

Vị giáo sư già bắt đầu giải nghĩa: “Trên hai kệ tranh ngọc này viết gì, giờ đã không còn quan trọng nữa rồi. Trên kệ tranh ngọc ở Đôn Hoàng viết: ‘Thiết kị vạn thừa đại mạc lai, hoàng sa mạn mạn Hắc Thủy Thành, ô nha lai thê bạch tháp thượng’; đây rõ ràng là chỉ Hắc Thủy Thành. Những chữ ‘Thiết kị vạn thừa đại mạc lai’, là nói tới đại quân của Thành Cát Tư Hãn đã đột ngột tấn công đế quốc Tây Hạ, từ đại sa mạc phía bắc. Câu thứ hai: ‘hoàng sa mạn mạn Hắc Thủy Thành’ đã nói rõ vị trí của kệ tranh ngọc là ở Hắc Thủy Thành. Câu thứ ba: ‘Ô nha lai thê bạch tháp thượng’ càng nói rõ hơn rằng kệ tranh ngọc nằm trong đại Phật tháp bên ngoài Hắc Thủy Thành. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với những ghi chép của Kozlov về việc tìm thấy kệ tranh ngọc trong đại Phật tháp của Hắc Thủy Thành.

“Nghe qua rồi!”, mọi người đồng loạt gật đầu.

Kệ tranh ngọc trên núi Hạ Lan viết rằng: ‘Chỉ sinh chỉ nguyện nhập Phật quốc, thạch quật diện bích ban ngã Phật, lai sinh tái vi Đảng Hạng nhân’. ‘Phật quốc’ ở đây rõ ràng là chỉ Đôn Hoàng. Điều này cho thấy rõ: kệ tranh ngọc đó được cất giấu trong Đôn Hoàng, câu thứ hai nhắc tới ‘thạch quật’ lại khiến tôi nghĩ tới một chủ đề rất thú vị, các vị đều đã từng nghe tới Đôn Hoàng Tàng Kinh Động rồi chứ?”

“Năm 1900, Vương Đạo Sỹ phát hiện thấy Tàng Kinh Động vô cùng nổi tiếng, sau đó Stein người Anh, Pelliot người Pháp và cả người Nga, người Nhật, người Mỹ đều lũ lượt kéo tới..

Không đợi giáo sư La nói xong, Đường Phong đã hiểu ra ý của giáo sư: “Giáo sư La, ý của bác là kệ tranh ngọc ở Đôn Hoàng rất có khả năng trước đó là của Tàng Kinh Động, sau đó bị Vương Đạo Sỹ phát hiện ra?”

“Đúng vậy, kệ tranh ngọc trên tuyết sơn A Ni Mã Khanh và núi Hạ Lan, là do các cậu phát hiện ra. Kệ tranh ngọc ở Hắc Thủy Thành là do Kozlov phát hiện ra; chỉ có kệ tranh ở Đôn Hoàng này vẫn chưa biết là được phát hiện từ lúc nào và do ai phát hiện ra?”, giáo sư La nói.

“Hàn Giang suy đoán rằng: kệ tranh ngọc ở Đôn Hoàng này được phát hiện trước khi Kozlov phát hiện thấy kệ tranh ngọc ở Hắc Thủy Thành; và nói rằng là do một cao nhân ‘X’ phát hiện ra, rồi đã giúp đỡ Kozlov tìm thấy kệ tranh ngọc ở Hắc Thủy Thành; từ đó về sau người này đã gia nhập vào đội ngũ của Hắc Lạt ma”, Đường Phong nói.

“Đường Phong, thế nào, những gì giáo sư La nói ban nãy đã chứng thực cho những suy đoán của tôi. Rất có khả năng kệ tranh ngọc này có nguồn gốc từ Tàng Kinh Động ở Đôn Hoàng, sau đó được cao nhân X đó phát hiện ra. Tàng Kinh Động được phát hiện vào năm 1900, sớm hơn năm 1909 mà Kozlov phát hiện thấy Hắc Thủy Thành”, Hàn Giang có phần đắc ý.

“Nói như vậy thì cao nhân ‘X’ mà anh nói chính ỉà Vương Đạo Sỹ mù chữ?”, Đường Phong cười nói.

Hàn Giang ngay lập tức bị Đường Phong làm cho cứng họng. Giáo sư La nói: “Đường Phong, suy đoán của Hàn Giang không phải là không có lý, hiện giờ tôi lại nghiêng về phía suy đoán của Hàn Giang. Cậu nghĩ mà xem, tại Đôn Hoàng thì có nơi nào có thể cất giấu kệ tranh ngọc?”

“Nhưng theo như cháu biết thì, Tàng Kinh Động Đôn Hoàng bị bịt kín tò trước khi thể lực Tây Hạ xâm nhập Đôn Hoàng”, Đường Phong đưa ra thắc mắc của mình.

“Không sai, quan điểm chung của giới học thuật hiện giờ cho rằng, tăng nhân Đôn Hoàng đã phong kín kinh Phật trong Tàng Kinh Động, trước khi thế lực Tây Hạ tiến vào Đôn Hoàng. Nhưng đây không phải là quan điểm duy nhất, vì cũng có quan điểm cho rằng: trước khi thế lực Mông Cổ tiến vào Đôn Hoàng, thì các tăng nhân đã bịt kín Tàng Kinh Động; đó cũng chính là thời sau của Tây Hạ, phù họp với những gi mà Đại Lạt ma kể lại cho các cậu!”, giáo sư La phân tích.

“Nhưng điều này vẫn chưa đủ để chứng minh!”, Đường Phong nghi ngờ.

Đôn Hoàng đã từng được mở ra vào cuối thời Tây Hạ...”, Đường Phong, đang định nói gì đó thì giáo sư La xua xua tay, nói: “Đường Phong, tôi biết điều này cũng khó mà chứng minh được, nhưng không quan trọng. Tôi đã nói rồi, “vẫn còn một khả năng nữa, tức là Tàng Kinh Động đó chỉ là một chủ đề thú vị. Chúng ta có thể mạnh dạn suy đoán rằng: có lẽ chẳng phải là cao nhân nào phát hiện ra kệ tranh ngọc Đôn Hoàng, mà rất có thể chính là Vương Đạo Sỹ mù chữ, chỉ có điều sau này quả thực đã xuất hiện một người biết chữ.”

“Người biết chữ? Stein, Pelliot và những người đó, nếu như ỉà những nhà thám hiểm nổi tiếng mà chúng ta đã biết, thì kệ tranh ngọc đó đã được người đời biết tới từ lâu rồi!”, Đường Phong lắc đầu nói.

“Đúng! Rõ ràng là những người này không phải là Stein, Pelliot hay những người đó; nhưng người này học thức uyên bác và đã nhìn ra giá trị của kệ tranh ngọc, đồng thời đã hóa giải được chữ Tây Hạ trước, hoặc cùng lúc với Ivanovich lvanov!”, suy luận của giáo sư La đã hoàn thiện thêm một bước nữa cho suy đoán trước đó của Hàn Giang.

“Nhưng người này là ai nhỉ? Một nhân vật tài giỏi như vậy, chắc là phải giống Stein, Pelliot, Ivanovich Ivanov, Kozlov ghi dấu ấn trong lịch sử chứ nhỉ! Hơn nữa, ông ta đã đoạt được kệ tranh ngọc vào lúc nào? Theo cách suy luận này, thì người đó chắc chắn phải đoạt được kệ tranh ngọc từ tay Vương Đạo Sỹ trước cả Stein. Nhưng nếu người này phát hiện ra Tàng Kinh Động sớm hơn cả Stein, thì tại sao-ỉại không hề động đến những kinh thư trong Tàng Kinh Động?”, Đường Phong chìm trong suy tư.

Giáo sư La khẽ thở dài: “Tất cả đều như sương khói thoảng qua, hiện giờ chúng ta khó mà khôi phục lại được diện mạo của cao nhân bí ẩn đó. Tóm lại, rất có khả năng giống như những gì Hàn Giang suy đoán trước đây, cao nhân ‘X’ đó đã giải mã được những chữ Tây Hạ trên kệ tranh ngọc, sau đó chỉ điểm cho Kozlov tới Hắc Thủy Thành. Nhưng sau khi phát hiện ra Hắc Thủy Thành, thì Kozlov đã vơ hết công lao về mình, nên cao nhân ‘X’ này không hề có tên trong sử sách, nhưng quả thực là ông ta có tồn tại.”

"Nếu như vậy, thì khởi nguồn của hàng loạt sự việc liên quan tới kệ tranh ngọc, đều được đổ hết lên phát hiện vê Tàng Kinh Động Đôn Hoàng, thật… thật là không thể tin được!”. Từ Nhân Vũ cũng thốt lên.

“Đúng vậy! Trước đây chúng ta luôn cho rằng: Hắc Thủy Thành là do Kozlov vô tình phát hiện ra, nên mới dân tới hàng loạt sự việc sau này, bây giờ thì xem ra mọi việc đã sớm bắt đầu ngay tò khi phát hiện ra Tàng Kinh Động Đôn Hoàng!”, giáo sư La nói tới đây liền dừng lại rồi mới nói tiếp: “Nhưng bây giờ thì ổn rồi, cuối cùng thì bốn kệ tranh ngọc đã được tập hợp lại, giờ thì chúng ta có thể ghép chúng lại với nhau rồi đấy!”, giáo sư La nói tới đây, tât cả mọi người đều thấy thật phấn khởi.

2

Giáo sư La sắp xếp bổn kệ tranh ngọc theo thứ tự “Bạch”, “Cao”, “Đại”, “Hạ” ngay ngắn trên bàn. Đứng trươc bon kệ tranh ngọc quý báu này, ông không khỏi xuýt xoa: ‘Hiện giờ chúng ta đã nhìn thấy tất cả văn tự trên bề mạt các kệ tranh ngọc. Thực ra, những kệ tranh ngọc này găn liên với nhau, đó chính là toàn bộ quá trình lịch sử của dân tộc Đảng Hạng. Tấm đầu tiên: ‘Hắc Đầu Thạch Thất’,

là giai đoạn lịch sử đầu tiên của người Đảng Hạng; tấm thứ hai: ‘Hạ Lan Thần Sơn’, nói về sự quật khởi của người Đảng Hạng, lịch sử kiến lập nên vương triều Tây Hạ; tấm thứ ba: nói về ‘Hắc Thủy cổ Thành’, đã phản ánh giai đoạn lịch sử người Mông cổ xâm chiếm Tây Hạ; tấm cuối cùng: tường thuật lại giai đoạn lịch sử thê lương, ám chỉ về thời kì diệt vong của vương triều Tây Hạ”.

“Đúng vậy! Bây giờ ghép lại nhìn quả thực là như vậy. Toàn bộ lịch sử của dân tộc Đảng Hạng và vương triều Tây Hạ, đều được cô đọng trong bốn kệ tranh ngọc này!”, Đường Phong gật gù tâm đắc với những suy luận của giáo sư La.

Tiếp sau đó, giáo sư La lần lượt lật bốn kệ tranh ngọc lên, ghép chúng lại theo đúng trật tự. Đường Phong thấy tay giáo sư La run rẩy, khi ghép tới tấm cuối cùng thì tay của ông run lên bần bật. Đường Phong vội vàng tới đỡ ông, giúp ông ghép kệ tranh ngọc íhứ tư lại.

Điều thần kì bỗng xuất hiện, khi kệ tranh ngọc cuối cùng được ghép lại, thì các khe hở giữa chúng đột nhiên lấp lánh ánh vàng, rồi bốn kệ tranh ngọc, chỉ trong một chớp mắt, đã gắn kết lại với nhau. Và ngay sau đó, bốn kệ tranh ngọc bỗng biến hóa khiến tất cả những người đang có mặt đều bất ngờ, tới nỗi đờ đẫn vì kinh ngạc. Mọi người cứ đứng sững một lúc như vậy quanh nó. Bốn kệ tranh ngọc tỏa ánh vàng lấp lánh, rồi chẳng mấy chốc đã hiện lên một hàng chữ dày đặc. “Là chữ Tây Hạ!”, Đường Phong nhận ra ngay đây là chữ Tây Hạ.

Nhưng đúng lúc Đường Phong định đọc những chữ này, thì chúng lại biến mất, và thay vào đó là một hình vẽ lấp lánh chói lóa... Không! Chính xác mà nói, thì đó là một tấm bản đồ. Dòng chảy vàng óng của sông ngòi, rặng núi xanh biếc, đại sa mạc màu vàng, tất cả đều rõ mồm một. Nhưng mọi người chưa kịp nhìn kĩ, thì trên kệ tranh ngọc lại biến đổi, vẫn là những dòng chừ Tây Hạ dày đặc đó. Lần này, Đường Phong đã lập tức phản ứng kịp thời, anh lao vào phòng mình, cầm lấy máy ảnh kỹ thuật số, phấn khởi reo lên: “Tránh ra, tránh ra, để tôi chụp nó lại”.

Đường Phong liên tục ấn nút chụp, kệ tranh ngọc không ngừng biến hóa. Tấm bản đồ và những dòng chữ đó thay nhau hiện lên, rồi sau biết bao nhiêu lần, thì rốt cuộc nó đã dừng thay đối và trở lại như bình thường. Đường Phong bật lại những bức ảnh vừa chụp, nhìn rõ mồn một, lúc này anh mới thở phào nhẹ nhõm. Nhìn lại, bốn kệ tranh ngọc đã trở lại như cũ, bề mặt tuy vẫn có thể trông thấy thấp thoáng rat nhiều đường nét, nhưng không thể nhìn rõ như trên tấm bản đồ ban nãy. “Đúng là thần kì, thật không ngờ kệ tranh ngọc này còn có thể biến hóa như vậy!”, Đường Phong thán phục.

“Đúng vậy! Tôi cũng không ngờ!”, nét mặt giáo sư La cũng vô cùng kinh ngạc.

“Tại sao lại như vậy nhỉ?”, Đường Phong hỏi.

Sau một hồi trầm ngâm, giáo sư La mới giải thích: “Trước đây tôi đã từng nghe người ta nói rằng, có những loại đá có tính năng ghi chép, nên tôi nghĩ: chất ngọc của kệ tranh ngọc này có tính năng như vậy.”

“Bản đồ thì trước đây chúng ta biết rồi, nhưng những dòng chữ đó là gì vậy?”, Hàn Giang hỏi.

Đường Phong hết những bức ảnh chụp trong máy ảnh vào máy tính xách tay. Giáo sư La nhìn lên màn hình hồi lâu, rồi bỗng lắc đầu, nói: “Tuy phần lớn chữ Tây Hạ trên này tôi đều biết, nhưng tôi đọc mãi từ nãy tới giờ ; cũng không sao hiểu được ý nghĩa của chúng, rất nhiều đoạn không thể nào ghép với nhau được, thật... thật là kì lạ.

Tôi nghiên cứu văn tự Tây Hạ bao năm nay rồi, cũng nhìn thấy không ít văn hiến Tây Hạ, vậy mà, đây là lần đầu gặp phải đoạn văn không thể hiểu được như thế này.”

Đường Phong cũng nhìn ra vấn đề, đoạn văn này quả thực không đọc nổi, nếu dịch từng từ một sang tiếng Hán, rồi ghép lại thành câu thì cũng chẳng có ý nghĩa gì: “Quả thực không đọc được, cháu cũng lần đầu tiên gặp phải trường hợp thể này.”

Mọi người đều im lặng, phòng hội nghị im phăng phắc, mãi cho tới khi Hàn Giang tuyên bố giải tán mọi người mới lục đục rút lui.

3

Bốn kệ tranh ngọc được cất trong két sắt kiên cố, cho dù là Đường Phong cũng khó mà nhìn thấy được. May mà Đường Phong có mấy tấm ảnh. Suốt hai ngày liền, anh giam mình trong phòng, nghiên cứu mấy tấm ảnh đó. Trên bản đồ xuất hiện rất nhiều địa danh sống động, đều là kí hiệu đánh dấu bằng văn tự Tây Hạ, có chữ Đường Phong hiểu, có chữ anh cũng không hiểu. Nhưng cho dù có hiểu đi chăng nữa, anh cũng không tài nào biết được vị trí của những địa danh đó hiện giờ ở đâu. Đường Phong chìm đắm trong khối từ điển, tài liệu mênh mông. Anh tự mình kiểm tra, đọc các tài liệu để hi vọng có thể tìm thấy những địa danh này, rồi lại tìm đến thỉnh giáo giáo sư La. Hôm nay, hai người nghiên cứu cả buổi sáng, mà cũng chỉ mới giải mã được hai địa danh.

Sau bữa trưa, giáo sư La đi nghỉ, còn một mình Đường Phong ngồi lại trong phòng, đờ đẫn ngồi nhìn màn hình máy tính. Nhìn chán rồi, anh liền ngả lưng ra giường, nhưng không tài nào ngủ được, bởi trong đầu toàn là chữ nghĩa Tây Hạ đủ hình đủ dạng. Trong lúc mơ màng, anh lại trông thấy bức ảnh trên màn hình máy tính - cả một trang kín mít chữ Tây Hạ, mà anh và giáo sư La không tài nào giải nghĩa ra nổi.

Trên đó là gì vậy? Tại sao giáo sư La cũng không giải mã được? Bản thân mình cũng biết không ít chừ Tây Hạ, vậy tại sao đến một câu chữ Tây Hạ trên đó mình cũng không hiểu nổi? Nghĩ tới đây, Đường Phong cảm thấy đầu óc nặng trĩu, toàn bộ trí não dường như sắp bị những những chữ cái kì quặc đó lấp đầy. “Đây thật giổng những lời nguyền!”, Đường Phong cảm giác những chừ Tây Hạ này giống như những lời nguyền đeo bám anh, dù anh muốn thoát ra nhưng không tài nào thoát nổi!

“Lời nguyền?!”, mắt Đường Phong bồng sáng lên, lời nguyền? Trước mắt anh lập tức hiện lên cảnh tượng lúc Tiểu Lô gặp anh và Hàn Giang, đề mục của bài luận văn đó là “Nghiên cứu lời nguyền Tây Hạ (lấy ‘Quỷ đoạn bách tự yếu quyết’ làm ví dụ)”, còn những dòng văn tự Tây Hạ khó hiểu trước mắt mình đây, có khi nào là một bản lời nguyền? Đường Phong không dám chắc chắn, anh định đi thỉnh giáo giáo sư La, nhưng nhìn đồng hồ thì hiện giờ chắc giáo sư La vẫn đang nghỉ ngơi. Anh đi đi lại lại trong phòng, đầu óc tư duy vận hành cao độ...

Đường Phong ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi quyết định mở cửa phòng, đi thắng tới phòng làm việc của Hàn Giang. Anh gõ cửa, không ai trả lời. Đường Phong đang định bỏ đi nhưng rồi lại quay lại cầm nắm đấm cửa; và không ngờ anh vừa đấy một cái, cửa đã mở ra. Anh lách người vào trong, thấy Hàn Giang không ở trong phòng. Đường Phong rất ngạc nhiên bởi anh biết rằng, đây không phải là phong cách của Hàn Giang. Tuy bề ngoài Hàn Giang tỏ ra rất cẩu thả, nhưng thực chất anh ấy rất cẩn thận, chu đáo, làm việc gì cũng tỉ mỉ, cẩn trọng. Nên cho dù là có ở trong tổng bộ đi chăng nữa, thì khi rời phòng làm việc, anh cũng sẽ tiện tay khóa cửa phòng, kể cả có ra ngoài một lúc thôi cũng vậy. Thê nhưng sao hôm nay lại không khóa cửa?

Đường Phong lòng đầy nghi ngờ, vào ngồi trước máy tính của Hàn Giang. Anh bật máy tính lên, gõ mật mã mà Hàn Giang nói với anh, để vào trong hệ thống. Đây chính là mục đích mà anh tới phòng làm việc của Hàn Giang, muốn lên mạng để tra tìm cái gọi là “lời nguyền Tây Hạ”.

Đường Phong gõ dòng chữ: “Nghiên cứu lời nguyền Tây Hạ (lấy ‘Quỷ đoạn bách tự yếu quyết’ làm ví dụ)”, vào ô tìm kiếm. Nhưng cũng giống như lần trước, vẫn không có kết quả nào khả dụng. Anh ngẫm nghĩ, rồi lại đăng nhập

vào hệ thống trích dẫn luận văn SCI, đây là hệ thống tìm kiếm trích dẫn luận văn hàng đầu Trung Quốc. Anh lần lượt dùng tiếng Hán và tiếng Anh để gõ ra dòng chữ: “Nghiên cứu lời nguyền Tây Hạ (lấy ‘Quỷ đoạn bách tự yếu quyết’ làm ví dụ), nhưng vẫn không có kết quả. Thế nhưng khi anh chỉ gõ mấy chữ: “Lời nguyền Tây Hạ”, thì đã tìm ra hai bài luận văn liên quan.

Một bài là: “Thử luận lời nguyền Tây Hạ” của Boris Mikhail Ivanovich Ustinov.

Boris Mikhail Ivanovich Ustinov? Cái tên tiếng Nga này ngay lập tức khiến Đường Phong trở nên căng thẳng, đây không phải là tên mà KGB đã đặt lại cho Misha, khi ông trở về từ sa mạc Badain Jaran sao? Tay Đường Phong có chút ran rẩy, anh kích chuột mở bài luận văn ra. Sau cái tên Boris Mikhail Ivanovich Ustinov, là đơn vị công tác của tác giả: Đại học Saint Petersburg. Điều này cho thấy bài luận văn này được Misha viết sau khi thoát khỏi sự bảo hộ của KGB, tói nhận công việc dạy học tại Đại học Saint Petersburg.

Đường Phong kiểm tra qua mục lục trích dẫn của bài luận văn này, trong đó không hề nhắc tới: “Quỷ đoạn bách tự yếu quyết”, anh lại xem tiếp kết quả tìm kiếm còn lại: “Phát hiện mới về lời nguyền Tây Hạ”. Tác giả của bài luận văn này còn khiến Đường Phong ngạc nhiên hơn"- Tymoshenko! Đường Phong giật mình mở bài luận văn ra xem, trong mục lục trích đẫn, Tymoshenko nhắc tới tên của mấy bài luận văn lời nguyền Tây Hạ, trong đó tất nhiên là có: “Quỷ đoạn bách tự yếu quyết”. Đường Phong ngạc nhiên tới nồi ngồi ngẩn một hồi trước máy tính.

Tymoshenko đúng là thiên tài, nghiên cứu của anh ta rõ ràng vượt qua cả giáo sư La. Nhưng điều khiến Đường Phong kinh ngạc hơn là: nghiên cứu của Tymoshenko lại vượt thời đại nhường vậy. Anh ta là người của Tướng quân,,, v thảo nào Stephen nói rằng người mà Tướng quân trọng dụng chính là Tymoshenko. Nghĩ tới đây, lòng Đường Phong thắt lại.

Đường Phong tắt máy tính, nhưng lại cảm thấy có chỗ nào đó không ổn. Anh ngồi tnrớc máy tính, trầm ngâm một hồi, và bồng nghĩ ngay tới Tiểu Lô. Bài luận văn mà Tiểu Lô đọc đó, Tướng quân, Tymoshenko, lời nguyền Tây Hạ... Tiểu Lô? ừm, chắc chắn Tiểu Lô có vấn đe! Đường Phong lao ra khỏi phòng làm việc của Hàn Giang, tới phòng ngủ của Hàn Giang, nhưng anh ấy cũng không có trong phòng. Anh gọi vào máy Hàn Giang, có tiếng chuông, nhưng không ai bắt máy. Anh cuống cuồng đi tìm Hàn Giang thì gặp ngay Triệu Vĩnh trong hành lang. Triệu Vĩnh thấy Đường Phong cuống quýt, liền hỏi anh đang làm gì vậy.

“Anh có trông thấy Hàn Giang không?”, Đường Phong hỏi Triệu Vĩnh.

Triệu Vĩnh lắc đầu: “Buổi sáng có thấy, nhưng ăn trưa xong thì không thấy anh ấy đâu nữa.”

“Kệ anh la vậy! Tiểu Lô, cái gã Tiểu Lô trợ lý của...

Trần Tử Kiến, anh ta có vấn đề!”, Đường Phong thở hổn

hển nói.

“Có vấn đề? Tiểu Lô?”, Triệu Vĩnh ngạc nhiên, “Sao anh biết Tiểu Lô có vấn đề?”

“Hiện giờ tôi không có thời gian giải thích với anh đâu, anh mau đưa tôi tới phòng thí nghiệm của Trần Tử Kiến!”, Đường Phong yêu cầu.

Triệu Vĩnh chần chừ một lúc rồi gật đầu đồng ý, lải xe đưa Đường Phong hướng tới phòng thí nghiệin của Trần Tử Kiến.

4

Khi Đường Phong và Triệu Vĩnh tới phòng thí nghiệm của Trần Tử Kiến thì đã là bốn giờ chiều. Người qua kẻ lại trong tòa nhà, nhưng phòng thí nghiệm của Trần Tử Kiến trên tầng hai lại vô cùng yên tĩnh.

Hai người vội vàng tới cửa phòng thí nghiệm, Đường Phong đẩy cửa, cửa có cài chốt; anh gõ cửa, nhưng bên trong không có ai trả lời. Đường Phong lại gõ tiếp, hai phút sau, trong phòng bỗng có tiếng động. Đường Phong nhìn sang Triệu Vĩnh, rõ ràng là Triệu Vĩnh đã hết kiên nhẫn, anh lùi lại vài bước rồi húc mạnh vào cửa. Cánh cửa bật ra, một cảnh tượng máu me phơi bày trước mắt họ.

Tiểu Lô đang nằm trên đất, trên người bị một vật sắc nhọn đâm sâu, máu chảy đầm đìa. Có một người tay cầm dao, đứng không vững bên cạnh thi thể của Tiểu Lô, người đó chính là Hàn Giang.

“Thế... thế này là thế nào?”, Đường Phong kinh ngạc nhìn cảnh tượng này.

Hàn Giang loạng choạng bước lên phía trước vài bước, Đường Phong và Triệu Vĩnh - không ai bảo ai, cũng cùng nhau lùi lại phía sau. Hàn Giang quang con dao trên tay xuống đất, chậm rãi nói: “Tôi... tôi cũng chẳng hiểu như thế nào nữa, buổi trưa, tôi...tôi nhận được điện thoại của Tiểu Lô. Tiểu... Tiểu Lô nói anh ta gặp nguy hiếm, bảo tôi khẩn... khẩn trương tới đây, anh ta có chuyện muốn nói với tôi.. Nhưng khi tôi tới nơi và vừa bước vào cửa thì... thì mất hết tri giác. Chắc…chắc chắn bị ai đó đánh lén, thật... thật chết tiệt. Ở núi Hạ Lan thì bị Stechkin đánh lén, về đây lại bị đánh lén tiếp..

“Vậy... vậy tại sao anh không gọi tôi cùng đi?”, Đường Phong hỏi.

“Đúng vậy! Theo như quy định thì nếu ra ngoài làm nhiệm vụ, ít nhất cũng phải có hai người đồng hành với nhau mà!”, Triệu Vĩnh cũng nói.

“Tôi... tôi nào biết được lại xảy ra chuyện này, tôi thấy... thấy các cậu đang nghỉ trưa nên đã tới đây một mình..

“Vậy Tiểu Lô đã nói gì với anh?”, Đường Phong hỏi.

“Chẳng... chẳng nói sì cả, anh ta chỉ nói rằng anh ta đang gặp nguy hiểm. Tôi có hỏi lại, nhưng anh ta không chịu nói qua diện thoại. Tới... tới khi tôi tới, vẫn chưa gặp được cậu ta thì... thì..Hàn Giang nói đứt quãng.

“Nói như vậy thì có hai khả năng, một là đúng như những gì Tiểu Lô nói, hai là Tiểu Lô đã cố ý dụ anh tới đây!”, Đường Phong suy đoán.

“Rất... rất có khả năng anh ta cố ý dụ tôi tới đây”, Hàn Giang lẩm bẩm.

“Nếu đã dụ anh tới đây rồi lại đánh lén anh, vậy tại sao không giết anh đi?”, Triệu Vĩnh hỏi lại.

“Cái này thì...”, Hàn Giang im lặng.

“Ngược lại, tôi lại cảm thấy Tiểu Lô nói anh ta gặp nguy hiểm là thật!”, Đường Phong nói.

“Tại sao?”

“Bởi vi tôi đã phát hiện ra bí mật của Tiểu Lô.”

“Bí mật?”

“Đúng! Bí mật. Có lẽ Tiểu Lô chính là người của Tướng quân!”, Đường Phong nói ra phát hiện mới của anh.

“Sao cơ? Tiểu Lô là người của Tướng quân?”, cả Hàn Giang và Triệu Vĩnh đều kinh ngạc.

“Bởi vì lời nguyền Tây Hạ đó!”, Đường Phong nói vắn tắt lại những phát hiện của mình.

Triệu Vĩnh ngồi xổm xuống cạnh thi thể của Tiểu Lô, miệng lẩm bẩm: “Trần Tử Kiến bị u hồn dọa cho đến chết, còn Tiểu Lô không thể bị u hồn đâm chết chứ!”

Mười lăm phút sau, đội trưởng Kim đem theo người của đội cảnh sát hình sự tới xử lý hiện trường. Đường Phong, Hàn Giang và Triệu Vĩnh đợi tới khi quân của đội trưởng Kim thu dọn xong hiện trường mới ra về.

5

Mấy ngày sau đó, Đường Phong được thông báo không được ra ngoài, bắt buộc phải ở trong tổng bộ, cũng không được tiếp xúc với ai. Đường Phong cảm thấy một mình ở trong phòng chán ngắt, anh không hiểu đây là biộn pháp gì, nhằm vào mỗi mình anh, hay là với tất cả mọi người cũng vậy.

May mà vẫn không hạn chố sự tự do của anh trong tổng bộ. Lúc ăn cơm, Đường Phong vẫn gặp Từ Nhân Vũ và giáo sư La, nhưng không trông thấy Hàn Giang. Cả ba người cũng không nói chuyện vơi nhau, Đường Phong chỉ có thể giao lưu với Từ Nhân Vũ bằng ánh mắt. Từ ánh mắt của Từ Nhân Vũ, Đường Phong hiểu rằng: biện pháp này không chỉ dành riêng ình anh mà là cho tất cả mọi người. Tại sao không thấy Hàn Giang? Lòng Đường Phong thấp thỏm không yên.

Rốt cuộc, Đường Phong, Từ Nhân Vũ và giáo sư La cũng được triệu tập tới phòng hội nghị. Triệu Vĩnh nghiêm nghị đứng trước bàn họp, tuyên bố với mọi người: “Do nguyên đội trưởng của lão K - Hàn Giang, có chút vấn đề không giải thích được rõ ràng, bởi vậy kể từ hôm nay tôi sẽ tạm thời quản lý lão K.”

Những lời Triệu Vĩnh nói đã chứng thực cho sự lo lắng của Đường Phong — Hàn Giang xảy ra chuyện rồi, thảo nào mãi không thấy anh ấy đâu.

“Hàn Giang sao vậy?”, giáo sư La hỏi.

“Hiện giờ Hàn Giang đang được cách ly để thẩm tra!”, Triệu Vĩnh nghiêm giọng trả lời.

“Cách ly để thẩm tra?”, mọi người đều ngạc nhiên.

“Bởi vậy, trong thời gian này, tôi hy vọng mọi người sẽ không rời khỏi đây, phối hợp cùng chúng tôi điều tra”, Triệu Vĩnh vừa đứt lời thì Từ Nhân Vũ định nói gì đó. Không kịp đợi anh ta mở miệng, Triệu Vĩnh đã lại nói tiếp: “Mong mọi người hãy thông cảm, thời gian điều tra sẽ không kéo dài lâu đâu, mọi người cứ yên tâm.”

Nói xong, Triệu Vĩnh liền vội vàng rời khỏi phòng hội nghị. Ba người nhìn nhau, ai cũng muốn nói chút gi đó, nhưng lại chẳng biết nói gì nên đành lặng lẽ rút lui.

Buổi chiều hôm đó, Triệu Vĩnh tới tìm Đường Phong: “Đừng lo lắng, không phải là thẩm vấn đâu, chỉ là đại diện cho tổ chức hỏi anh chút tình hình thôi!”, Triệu Vĩnh tươi cười với Đường Phong, nhưng Đường Phong cảm thấy anh ta cười thật gượng gạo.

“Anh hỏi đi!”, Đường Phong cố gắng để mình giữ bình tĩnh.

“Được! Tôi hỏi anh trước, sau khi từ núi Hạ Lan trở về, anh có phát hiện trong lão K có ai không bình thường không? Hoặc là có hành động khác thường?”, Triệu Vĩnh hỏi.

“Anh nghĩ kĩ lại xem!’

“Hành động khác thường?”, Đường Phong ngẫm nghĩ, đáp: “Không có!”

“Không có thật, nếu anh cứ cố hỏi thì chỉ có hôm Tiểu Lô xảy ra chuyện, tôi đã phát hiện ra vấn đề của anh ta, nên định tìm Hàn Giang, nhưng anh ấy không ở đây, điều này có chút không bình thường. Ngoài ra thì không thấy ai có biểu hiện khác thường cả!”

Triệu Vĩnh trầm ngâm một lúc, thu lại nụ cười, mặt nghiêm nghị, nói: “Đường Phong, chúng ta nói chuyện thẳng thắn với nhau nhé. Tôi nói cho anh biết, báo cáo khám nghiệm tử thi của Tiểu Lô đã có rồi, anh ta bị hung khí sắc nhọn đâm chết. Hung khí chính là con dao trong tay Hàn Giang, dấu vân tay trên dao cũng chính là của Hàn Giang. Quan trọng hơn nữa, con dao này lại chính là con dao chuyên dụng phát cho Hàn Giang, mua ở nơi khác cũng không có, còn bình thường không ra ngoài thực thi nhiệm vụ, Hàn Giang cũng không mang theo dao làm gì, bởi vậy...”

“Bởi vậy các anh chắc chắn rằng chính Hàn Giang đã giết chết Tiểu Lô?’5, Đường Phong hỏi lại.

“Đường Phong, anh nghĩ mà xem, nếu như có ai đó giết Tiểu Lô trước, thì làm sao mà lấy dao của Hàn Giang được? Cái chết của Tiểu Lô chắc chắn xảy ra sau khi Hàn Giang tới.”

“Như vậy cũng không thể xác định hung thủ chính là Hàn Giang. Có lẽ hung thủ tấn công Hàn Giang ngất đi trước, sau đó mới dùng dao của anh ây giêt Tiểu Lô thì sao?”

“Nói như anh thì chẳng lẽ Tiểu Lô giúp hung thủ à?", Triệu Vĩnh hỏi lại.

“Anh ta vốn dĩ có vấn đề, rất có khả năng anh ta đã dụ Hàn Giang tới phòng thí nghiệm, sau đó tấn công anh ấy bất tỉnh, rồi hung thủ thực sự đã dùng dao của Hàn Giang đâm chết Tiểu Lô!”, Đường Phong suy đoán.

“Đây chỉ là suy đoán của anh, nhưng trước khi chưa tóm được hung thủ thực sự như anh nói, thì Hàn Giang vẫn là người đáng bị tình nghi nhất”, Triệu Vĩnh ngập neừng rồi nói tiếp: “Còn nữa, chúng tôi đã kiểm tra danh bạ liên lạc điện thoại ngày hôm đó, 1 giờ 20 phút chiều, Tiểu Lô có gọi cho Hàn Giang một cuộc điện thoại, nhưng trước đó hai mươi phút, chính Hàn Giang lại gọi cho Tiểu Lô. Điều này chứng minh hai việc: thứ nhất, nguyên nhân Hàn Giang tới chỗ Tiểu Lô không đơn giản như những gì anh ấy nói; thứ hai, hai cuộc điện thoại này cũng có thể cho thấy giữa Hàn Giang và Tiểu Lô có mối liên quan gì đó.”

“Liên quan?” Đường Phong chẳng có gì để cãi, nhưng anh vẫn không cam tâm mà tiếp tục chất vấn: “Vậy tại sao Hàn Giang lại giết chết Tiểu Lô? Hoàn toàn không cần thiết phải làm vậy mà!”

Trước lời chất vấn của Đường Phong, Triệu Vĩnh im lặng. Mãi lâu sau, Triệu Vĩnh mới mở miệng: “Đường Phong, chắc có lẽ anh vẫn chưa biết, vào đúng hôm mà

Tiểu Lô bị hại, thì bốn kệ tranh ngọc của chúng ta để trong két sắt đã không cánh mà bay.”

‘Gì cơ? Kệ tranh ngọc mất rồi sao?”, Đường Phong vô cùng kinh ngạc.

“Đúng vậy!”

“Bởi vậy... bởi vậy các anh đã kết hợp hai việc này lại, cho rằng Hàn Giang chính là nội gián trong lão K?”, Đường Phong hiểu ngav ý Triệu Vĩnh.

Triệu Vĩnh nặng nề gật đầu: “Bốn kệ tranh ngọc được khóa trong két sắt kiên cố, lại ở trong tòa nhà, ai có thể lấy chúng đây? Tôi không tin người của Tướng quân lại thần thông quảng đại đến vậy, đột nhập vào chồ chúng ta, mở két sắt, lấy cắp kệ tranh ngọc, anh có tin không?”

Đường Phong ngồi sụp xuống giường, thẫn thờ lắc lắc đầu: “Chắc chắn có nội gián, nhưng... nhưng cũng không thể vì thế mà cho rằng chính là Hàn Giang.”

“Chìa khóa két sắt do Hàn Giang giữ, hơn ai hết, anh ấy là người có khả năng tiếp xúc với kệ tranh ngọc nhất.

Rồi liên quan tới việc Tiểu Lô bị hại, trước đó anh từng nghi ngờ Tiểu Lô có quan hệ với Tướng quân, đang định đi tìm Tiểu Lô thì anh ta đã chết rồi, đây rõ ràng là để triệt cỏ phải triệt tận gốc!”, Triệu Vĩnh suy đoán.

“Không! Không! Không thể như vậy. Tôi không thể tin, một người đã từng vào sinh ra tử cùng chúng tôi như Hàn Giang lại là nội gián được? Vậy tất cả những gì anh ấy đã làm trước đây là vì cái gì chứ?”, Đường Phong hói một tràng.

“Đường Phong, không thể không thừa nhận rằng: đối thủ của chúng ta quá gian xảo, chúng ta đều đã bị chúng lừa. Một mặt, chúng tranh giành kệ tranh ngọc với chúng ta, nhưng đến khi không tranh được với chúng ta, thì đã sử dụng nội gián mai phục trong nội bộ của chúng ta, một lúc cướp đi bốn kệ tranh ngọc, khiến chúng ta không kịp trở tay. Nghĩ tới khả năng bại lộ của Tiểu Lô, nên sau khi đánh cắp bốn kệ tranh ngọc, chúng đã giết chết anh ta. Người này, ngoài Hàn Giang ra, thì vẫn không thể nghĩ ra được là ai!”, Triệu Vĩnh nói.

Đường Phong vẫn không tin suy luận của Triệu Vĩnh. Vậy là Triệu Vĩnh lại hỏi tiếp: “Được rồi! Vậy thì tôi sẽ hỏi anh cụ thể một chút, chuyện trước đây không hỏi nữa. Nói về chuyến đi tới núi Hạ Lan vậy nhé, ai chính là người yêu cầu ở lại quán trọ một ngày?”

“Hàn Giang?!”, Đường Phong lẩm bẩm.

“Vậy ai chính là người rút mất tấm ván gỗ bắc qua đầm thủy ngân, sau khi anh và lão Mã vào trong hậu điện?”

“Là Hàn Giang?!”, Đường Phong lại lẩm bẩm.

“Những điều này đều là những gì anh viết trong báo cáo, giấy trắng mực đen đấy!”

“Nhưng... nhưng đều có nguyên nhân cả mà! Tại quán trọ là do tình hình thay đổi. Tại đầm thủy ngân là do Hàn Giang sợ lúc anh ấy không ở đấy, sẽ có người đột nhập vào hậu điện, thế nên...”

“Mọi hành động đều có thể tìm ra những lí do khác nhau!”, hình như Triệu Vĩnh không hứng thú với những giải thích của Đường Phong.

“Vậy các anh sẽ làm gì với Hàn Giang? Chúng ta có tiếp tục tìm kiếm Hạn Hải Mật Thành nữa không?”

“Hiện giờ Hàn Giang vẫn đang trong giai đoạn bị thẩm tra, trước khi có kết luận cuối cùng, Hàn Giang vẫn bị khốổng chế tự do cá nhân. Còn về việc có tới Hạn Hải Mật Thành nữa hay không, thì phải xem kế hoạch tiếp theo thế nào.”

Đường Phong thât vọng tới đinh điêm, thân thờ ngôi sát mép giường, không biết nên nói gì. Triệu Vĩnh thấy không còn gì để hỏi liền bỏ đi, nhưng lại bị Đường Phong kéo lại: “Đợi đã, tôi vẫn còn một câu hỏi.”

“Này rốt cuộc là tôi hỏi anh hay anh hỏi tôi thế?”

“Trên người Tiểu Lô có hình xăm đó không?”, Đường Phong hỏi.

“Hình xăm?”, Triệu Vĩnh ngớ người ra rồi nói ngay:

“Tôi đã được đặc cách tham gia khám nghiệm tử thi của Tiểu Lô, không phát hiện trên người anh ta có hình xăm đó, điều này quả thực rất kì lạ!”

“Bên trong chắc chắn có vấn đề. Những ai trong đám của Tướng quân đều có hình xăm trên người. Trên người Tiểu Lô không có, chứng tỏ anh ta không phải là người của Tướng quân?”

“Nhưng chính anh nói Tiểu Lô có vấn đề mà!”, Triệu Vĩnh phản bác lại.

“Tôi chỉ nói rằng khả năng Tiểu Lô có liên quan tới Tướng quân, tôi đâu có chắc chắn anh ta chính là người của Tướng quân. Hình xăm là minh chứng tốt nhất, nhưng trên người anh ta không có.”

“Như vậy thì là thế nào đây?”

“Điều đó cho thấy suy luận trước đây của anh khống đúng. Anh có thấy trên người Hàn Giang có hình xăm không?”, Đường Phong từng bước áp sát, phản bác lại Triệu Vĩnh.

“Không... không có!”, Triệu Vĩnh lắc đầu, “Nhưng có thể trà trộn vào nội bộ của chúng ta, thì trên người không thế có hình xăm được, nếu có cũng phải xóa nó đi.”

“Dù sao tôi vẫn không đồng ý với suy luận của anh!”, Đường Phong hét lên.

“Đây cũng không phải là suy luận của ricng tôi, mà cả thủ trưởng cũng nghĩ vậy. Được rồi, Đường Phong, tôi không nói với anh nữa, anh tự lo ình nhé!”, nói xong, Triệu Vĩnh liền vội vàng rời khỏi phòng Đường Phong.

7

Hai ngày sau, Triệu Vĩnh triệu tập mọi người tới phòng hội nghị, tuyên bố: “Bắt đầu từ hôm nay, lão K tạm thời giải tán. Mọi người có thể rời khỏi đây, nhưng lúc rời đi bắt buộc phải chịu sự kiểm tra, không được mang theo bất cứ vật gì liên quan tới cơ mật.”

Mọi người nhìn nhau, vô cùng kinh ngạc. “Chúng ta vất vả cả một thời gian dài! Bây giờ thì chẳng còn gì cả!”, Từ Nhân Vũ oán thán.

lòng trống rỗng.

Giáo sư La khẽ thở dài, nhưng ông im lặng, không nói gì cả.

“Tại sao lại như vậy?”, Đường Phong bỗng cảm thấy lòng trống rỗng.

Triệu Vĩnh mặt nặng trĩu, nhưng anh không trả lời

Triệu Vĩnh mặt nặng trĩu, nhưng anh không trả lời câu hỏi của mọi người, cuối cùng mọi người đành phải giải tán.

Ngày hôm sau, giáo sư La và Từ Nhân Vũ lần lượt thu dọn hành lý, rời khỏi tổng bộ. Đường Phong vẫn không cam tâm, vẫn muốn chờ đợi thêm. Nhưng đợi thêm hai ngày nữa cũng không có tin tức của Hàn Giang, anh đành phải thu dọn hành lý, chuẩn bị rời khỏi đây.

Lúc thu dọn hành lý, Đường Phong nảy ra ý định lưu mấy bức ảnh anh chụp kệ tranh ngọc vào trong một cái USB nhỏ. Đây là một chiếc USB cực nhỏ, hình dáng giống như một chiếc móc phéc mơ tuya nhỏ xíu. Đường Phong tháo chiếc móc phéc mơ tuya trên áo mình xuống, thay chiếc USB đó vào, tưởng rằng như vậy có thể lọt qua được sự kiểm tra của Triệu Vĩnh.

Ai ngờ, lúc kiểm tra hành lý vẫn bị Triệu Vĩnh lục soát ra. “Đây là cái gì?”, Triệu Vĩnh tháo chiếc USB trên áo Đường Phong xuống, cười nhạt: “Chiếc móc phéc mơ tuya này của anh hơi to đấy!”

“Kiểm tra qua xem bên trong có gì!”, Triệu Vĩnh đưa USB ột người lính vạm vỡ đứng bên cạnh.

Anh trả lời rất nhanh: “Bên trong chỉ có vài bức ảnh.”

Triệu Vĩnh chỉ liếc một cái rồi nghiêm mặt, nói: “Vật phẩm vi phạm, tịch thu!”

Đường Phong không nói thêm gì cả, đeo hành lý ra ngoài. Đến cổng, anh nhìn những rặng núi trùng trùng điệp điệp xung quanh, thâm chửi rủa: “Nơi quái quỷ chó ăn đá gà ăn sỏi này, muốn gọi chiếc xe cũng chẳng có.”

Đường Phong đang rầu rĩ thì Triệu Vĩnh lái một chiếc “Dũng sỹ”1 tới dừng ngay trước mặt anh. “Lên xe đi!”, Triệu Vĩnh gọi anh.

Đường Phong đành phải lên xe Triệu Vĩnh. Triệu Vĩnh vừa lái xe, vừa nhìn Đường Phong, cười nói: “Sao? Giận rồi à?”

“Tôi nào dám giận anh.”

“Anh phải biết rằng, ban nãy anh mang theo vật phẩm liên quan tới cơ mật, chúng tôi có thể căn cứ vào luật ăn cắp cơ mật quốc gia bắt anh đấy!”

“Theo như anh nói thì tôi phải cảm ơn anh à? Bây giờ anh bắt tôi cũng không muộn đâu!”, tính ngang ngạnh của Đường Phong lại trồi dậy.

“Được rồi, tôi không tóm anh đâu. Đi đâu nào? Tôi đưa anh đi!”

“Bến xe phía nam!”, Đường Phong cáu kỉnh gào lên.

Triệu Vĩnh nhấn ga, lái xe về hướng bến xe phía nam.

Nhưng khi xe của Triệu Vĩnh vừa mới tới đường quốc lộ, vẫn chưa vào thành phó, thì điện thoại của anh đổ chuông. Triệu Vĩnh nghe điện thoại, sắc mặt nghiêm trọng. Đường Phong chỉ thấy Triệu Vĩnh “ừm” vài câu rồi lại “vâng” và tắt điện thoại.

“Đường Phong, tôi có nhiệm vụ gấp, không đưa anh tới bến xe được rồi! Tôi đưa anh tới ga tàu hỏa, rồi anh tự đến đó nhé!”, Triệu Vĩnh nói.

“Nhiệm vụ quái gì nữa, không phải lão K giải tán rồi sao? Anh vẫn còn nhiệm vụ cơ à?”, Đường Phong hậm hực nói.

Triệu Vĩnh không trả lời, dừng xe trước ga tàu hỏa, thả Đường Phong xuống rồi lao thẳng đi. “Mẹ kiếp! Cứ phải ép phần tử trí thức nói bậy!”, Đường Phong khoác ba lô, không quên chửi với theo xe Triệu Vĩnh một câu.

8

Đường Phong thấy còn lâu tàu mới khởi hành nên tìm một quán cơm ăn uống no nê, rồi lại đi gặp một người bạn, sau đó mới ung dung đi vào phía đường ray phía nam.

Đường Phong cùng dòng người bước vào trong toa tàu, nhưng đúng lúc này, bên ngoài cửa tàu điện ngầm, trên cầu thang máy hướng lên thềm ga bồng nhốn nháo cả lên. Anh vẫn chưa nhìn rõ xem chuyện gì xảy ra thì một bóng đen đã lách vào trong toa, rồi ngay sau đó, cửa toa tàu đã đóng lại. Nhìn qua cửa kính, anh phát hiện trên thềm ga có mấy gã to cao vạm vỡ, chính là Triệu Vĩnh và vài người khác trong nhóm, ăn mặc như thường dân. Đường Phong giật thót tim, vội vàng quay lại nhìn vào trong toa tàu, rồi anh trông thấy một khuôn mặt quen thuộc. Bóng đen chui vào đây trong khoảnh khắc cửa toa tàu khép lại, chính là Hàn Giang.

Đây là lần đầu tiên anh gặp lại Hàn Giang sau khi anh ấy bị cách ly để điều tra. “Hàn…”, Đường Phong đang định gọi tên anh, thì Hàn Giang khẽ lắc đầu.

Hai người đi tới góc khuất trên toa tàu, Đường Phong thì thào hỏi: “Chuyện này rốt cuộc là thế nào? Sao anh lại thoát được ra ngoài? Anh làm vậy tội càng nặng thêm đấy! Anh có biết kệ tranh ngọc mất rồi không?”

Trước hàng loạt câu hỏi của Đường Phong, Hàn Giang không trả lời. Đợi Đường Phong hỏi xong, Hàn Giang nói: “Hiện giờ tôi không có thời gian để giải thích với cậu, người của Triệu Vĩnh sẽ xuất hiện ở ngay bến sau. Tôi chỉ có vài phút, cậu đừng nói gì cả, hãy chỉ nghe tôi nói. Cậu có tin tôi vô tội không?”

“Tin!”, Đường Phong gật đầu.

“Tốt! Nhớ kĩ, bất luận lão K có giải tán hay không thì chúng ta cũng không thể thua cuộc, chúng ta nhất định phải tìm thấy Hạn Hải Mật Thành!”, Hàn Giang nói như đinh đóng cột.

“Nhưng chúng ta chẳng còn gì cả, thì làm được gì chứ?”

“Chỉ cần chúng ta vẫn còn sống là sẽ có cơ hội thay đổi tất cả, cầm lấy!?” nói xong, Hàn Giang đặt một vật vào tay Đường Phong.

Đường Phong định thần lại nhìn, chính là chiếc USB v hình móc khóa của mình. “Anh... anh làm thể nào mà lấy được vậy?”, Đường Phong vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ.

“Đừng hỏi nhiều, hãy nhớ lời tôi nói. Bây giờ cậu hãy quay trở lại trường học, nếu cần đi dạy học thì hãy dạy học trở lại, nếu cần tiếp tục nghiên cứu thì nghiên cứu. Tóm lai, cần sống thế nào thì hãy sống thế, tôi sẽ đi tìm cậu!”

HẾT TẬP 3.