Vị Diện Giao Dịch Chi Nguyên Thủy Thế Giới

Chương 97: Khoác lác




Bạn cũ gặp nhau, vui vẻ bàn chuyện, có hệ thống phụ trợ ngôn ngữ, sau khi nghe Vu Qua nói tiếng người lùn một lát, Ngô Nặc cũng dần có thể làm phiên dịch, dịch lời ông nói lại cho đại vu và Bạch nghe.

Tộc người lùn cả đường ăn gió nằm sương, đi thật sự gian nan, nói đến những nguy hiểm họ gặp trên đường, cùng tộc nhân đã chết, Vu Qua và Đa Lặc mấy lần rơi lệ, thật sự đáng thương.

Thương tâm thì quả thật thương tâm, nhưng trong nước mắt của Vu Qua ít nhiều có mấy phần muốn lấy sự đồng tình, người lùn trời sinh tính cách thẳng đuột, không giỏi đóng kịch, Vu Qua tự cho rằng làm rất tốt, nhưng không ngờ ba người ngồi trước mặt đều đã thành tinh, vừa nhìn đã nhận ra ý đồ của ông.

Liếc thấy Vu Quyền lau nước mắt, bộ dạng còn thương tâm hơn mình, trong lòng Vu Qua càng cảm thấy, bạn già vẫn hệt như lúc trẻ, thiện lương nhân từ nhiệt tình, ông nghĩ mong muốn tộc người lùn nương tựa bộ lạc Trường Hà cắm rễ phát triển nhất định có thể thực hiện!

Vu Quyền cũng đang nghĩ, Vu Qua nhiều năm như thế vẫn không thay đổi, giống hệt lúc trước tâm tư gì cũng bày trên mặt, thu phục bọn họ lấy được cách chế tạo thần khí (đồ sắt) chắc không khó.

Đôi bên đều có mục đích, hơn nữa đều cảm thấy mục đích của mình có thể đạt được, phiên dịch Ngô Nặc cũng càng lúc càng xứng chức, Vu Quyền và Vu Qua tự nhiên càng nói càng vui, bất tri bất giác đến giờ cơm tối.

Hiện tại bộ lạc nhiều người, không cách nào tụ lại ăn chung như trước, sau khi hoàn thành công việc buổi chiều, mọi người trở về nhà mình tự ăn.

Khoai trắng bị đào hư tự nhiên trở thành thức ăn chính, khi thú triều trở về, Bạch dẫn các chiến sĩ săn giết trên trăm con long thú, những long thú này sau khi dùng muối huyết ướp, có một phần làm thành thịt sấy phơi ở nơi mát mẻ thông gió, một phần làm thành thịt muối hoặc thịt khô bỏ trong vại cất vào hầm. Lúc ăn, rửa đi chất muối dư phía trên, hoặc trực tiếp nấu hay xào hay hầm chung với khoai trắng, ăn sao cũng thấy mỹ vị.

Mùa thu hoạch vô cùng bận rộn, chân trước thu xong, chân sau đã phải vội mang giống ra trồng vào đất mới khai hoang, để đuổi kịp trước mùa đông thu hoạch đợt nữa, thời gian thật sự rất gấp, người có thể xuống ruộng đều đã xuống, để tránh chừa ra quá nhiều nhân thủ làm việc, những người sống gần có quan hệ tốt, luôn để lại hai ba phụ nữ ở nhà làm cơm, những người khác làm việc xong, tụ lại cùng ăn cơm, tiết kiệm thời gian lại tiết kiệm sức lực. Cũng coi như là một kiểu ăn chung biến tướng.

Thủy Sa là đệ tử của đại vu, một mặt theo đại vu học tập làm việc, còn phải chăm sóc ăn uống ngủ nghỉ của đại vu, cô lục tục theo Ngô Nặc học không ít tài nghệ nấu ăn, được biết hôm nay đại vu có bạn già rất quan trọng đến thăm, cô gọi hai tiểu nữ nô tuổi không lớn phụ giúp mình, lăn qua lăn lại nửa ngày trong bếp, làm ra vài món ngon.

So với tay nghề Ngô Nặc, cô nhiều lắm chỉ học được năm phần, nhưng những món sắc hương vị đều không tính là tốt lắm trong mắt Ngô Nặc, đối với người khác, đặc biệt là những người lùn chưa từng ăn qua mấy món này, quả thật phải nói là quý hiếm mỹ vị.

Thịt nướng người lùn thường ăn, nhưng bọn họ chưa từng ăn qua thịt nướng có thêm mật ong, ớt cùng với các hương liệu hỗn hợp, thịt thú lí lạp non mềm được nướng chín vàng, nguyên con bỏ vào dĩa, hương thơm nồng mà đặc trưng của thú lí lạp trộn chung với chất điều vị, lớp da óng vàng còn phát ra tiếng xèo xèo, mùi thơm xộc thẳng vào mũi, nước miếng như lũ vỡ đê, trào ra không chịu khống chế.

Tuy tay nghề nấu nướng của Thủy Sa không bằng Ngô Nặc, nhưng công phu nướng thịt tuyệt đối không kém hơn Ngô Nặc.

Trừ thú lí lạp nướng, Thủy Sa còn làm một con dê nướng nguyên con, dê con non béo đặc biệt hợp miệng, nướng chín xong bỏ vào trong mâm lớn đặt giữa bàn gỗ, Đa Lặc và Vu Qua đói bụng căn bản không dời mắt được.

Khoai trắng hầm chim thịt, dưa dài hầm vụn thịt dê phủ thêm một tầng ớt xanh cắt nhỏ, chim thịt ớt ngâm chần tái, thịt long sấy màu sắc đỏ nhuận, cá bạc con hấp, lá khoai trắng xào, rau dại trộn miến làm thành gỏi, cuối cùng còn có một món canh chua miến.

Từng dĩa từng dĩa to chất đầy bày trên bàn, Vu Qua lại lần nữa đổi mới nhận thức về sự giàu có của bộ lạc Trường Hà, còn về Đa Lặc, hắn nhìn thức ăn đầy bàn, mắt thẳng tắp, lén nuốt nước miếng không biết bao nhiêu lần, hận không thể bưng dĩa lên đổ vào miệng mình.

Nhưng, làm khách trong hoàn cảnh xa lạ, sao có thể tùy tâm tùy ý?

Đa Lặc và Vu Qua vì một bàn thức ăn này mà đột nhiên trở nên bó buộc, cẩn thận theo đại vu vào vườn rửa sạch tay, sau đó mới trở lại ngồi vào bàn.

Hai người gây không ít chuyện cười, mới miễn cưỡng học được cách dùng đũa, Vu Qua tuổi lớn, dạ dày không tốt như lúc còn trẻ, so với thịt nướng, món cay, ông càng xem trọng món hầm, cũng đặc biệt yêu thích cháo thịt Thủy Sa hầm, cháo thịt đặc dính thơm nồng, ông ăn cả hai chén lớn, còn ăn khá nhiều chim thịt hầm và cá bạc con hấp, ăn đến cuối bụng cũng trướng lên không thẳng lưng nổi.

Đa Lặc trẻ tuổi, đặc biệt thích ăn thịt, đừng thấy vóc dáng hắn không cao bằng Ngô Nặc, nhưng dạ dày lớn hơn Ngô Nặc không biết bao nhiêu, gặm đủ hai con thú lí lạp nặng ba cân, ăn nguyên cái chân dê, một phần ba dĩa thịt long sấy đều vào bụng hắn, những món khác hắn cũng ăn không ít, lượng cơm hoàn toàn không thua kém chiến sĩ thuần nhân to con lớn tướng trong bộ lạc.

Ăn no uống đủ, đại vu dẫn Vu Qua và Đa Lặc cùng đi dạo bộ lạc tiêu cơm.

Lúc này cũng không khẩn cấp, còn có Ngô Nặc ở bên cạnh giảng giải cho họ, Vu Qua và Đa Lặc càng thêm hiểu rõ tình huống bộ lạc Trường Hà, ngưỡng mộ trong mắt hai người càng tích càng nhiều.

Nếu đã có lòng thu phục tộc người lùn, trong quá trình giảng giải Ngô Nặc đương nhiên hữu ý vô tình tiết lộ tình huống bộ lạc bên ngoài quy thuộc bộ lạc Trường Hà cho họ, đồng thời cũng cố ý tăng thêm độ gian nan sinh tồn xung quanh rừng, thêm mắm dặm muối vào thảm trạng mùa đông năm ngoái cho hai người nghe.

Vu Qua không nghĩ Vu Quyền có mắt như thế, ông một lòng một dạ muốn an trí bộ lạc ở vùng này, vừa nghe tình huống mùa đông ở đây còn tệ hơn khu rừng họ ở tạm lúc trước, trong lòng bắt đầu đánh trống.

Lỡ đâu mùa đông năm nay còn ác liệt hơn năm ngoái, xung quanh còn có nhiều bộ lạc lăm le như thế, tộc người lùn họ làm sao đây? Từ khi bắt đầu chạy nạn đến nay, tộc nhân đã tổn thất quá nửa, không chịu nổi giày vò gì nữa, đừng để đến cuối cùng còn không bằng cả làm nô lệ.

Trong lòng có lo nghĩ, tâm trạng Vu Qua không kích động như lúc vừa tìm tới bộ lạc Trường Hà, đi dạo với Vu Quyền cho tới khi trời tối, được Vu Quyền giữ lại, tạm trú ở chỗ ông.

Đa Lặc thì theo Bạch, Ngô Nặc đến chỗ tộc nhân, Bạch đã an bài người đưa thức ăn cho họ từ trước, lúc này họ đều ăn no uống đủ, tạm thời an ổn ở ngoại vi bộ lạc Trường Hà.

Trong tộc người lùn gần như tất cả mọi người đều từng gặp Bạch, các người lùn có ấn tượng rất sâu sắc với thú nhân thực lực cường hãn này, thấy hắn cùng Đa Lặc qua, tảng đá trong lòng mọi người coi như triệt để buông xuống.

Đa Mộc vội chạy ra chào hỏi hắn, thấy Ngô Nặc có thể nghe hiểu tiếng người lùn của họ, đồng thời còn là đệ tử của đại vu Vu Quyền, trước là quái dị sau là kích động.

Sau một phen hàn huyên giao lưu, Bạch cùng Đa Mộc đạt thành nhận thức chung, hắn cho phép tộc người lùn tạm trú ở ngoại vi bộ lạc Trường Hà, đồng thời, dùng phương thức thuê người mời người lùn giúp họ làm nông, hắn sẽ xem tình huống thích đáng mà cho họ thức ăn làm thù lao.

Tộc người lùn mới đến đây, hoàn toàn không biết gì tình huống xung quanh, đang hận không có người giúp đỡ mình, Bạch chủ động đề xuất, cảm kích trong lòng Đa Mộc và các người lùn quả thật khỏi phải nhắc.

Tộc người lùn trời sinh thẳng thắn, yêu ghét rõ ràng, hiển nhiên đã xem Bạch đại miêu gian xảo thành đại nhân ân của toàn tộc, nhiệt tình kéo hắn nói chuyện mãi đến nửa đêm, suýt nữa bán sạch vốn gốc nhà mình. May mà, họ còn nhớ đồ sắt mang tới tai họa cho bộ lạc, còn có cảnh cáo của đại vu lúc thường, nên nén lại được không nhắc chuyện đồ sắt. Bọn họ hoàn toàn không biết, ngày đầu tiên Bạch thấy họ, chuyện đồ sắt đã bại lộ rồi.

Nếu không phải vì trong tay họ có cách luyện chế đồ sắt, Bạch đại miêu mới không nỡ lãng phí thời gian bồi tiểu sứ thần, xoay quanh mấy kẻ vừa lùn vừa ngốc này.

Ngô Nặc còn nhẫn nại hơn Bạch đại miêu, đặc biệt là nghe nói họ mang tới không ít hạt giống đặc biệt ở chỗ cũ của bộ lạc, trong những hạt giống đó, có một loại hạt giống rất có thể chính là một nhiệm vụ hệ thống giao cho y, y hận không thể lập tức bảo họ lấy ra cho mình xem thử, nhưng cuối cùng vẫn khắc chế được.

Tất cả trước đợi thu phục tộc người lùn rồi nói sau.

Cái này không chỉ liên quan đến thuật luyện thép trong tay họ, còn quan hệ với nhiệm vụ cưỡng chế hệ thống mới giao.

Tương tự như nhiệm vụ cưỡng chế thu phục bộ lạc Đại Thạch trước đó, thu phục những người lùn này cũng có phần thưởng 10-50 tích phân khác nhau, cộng thêm một lần rút thưởng tùy ý.

Từ sau mùa đông đến nay, Ngô Nặc đã làm hơn mười nhiệm vụ chuỗi khám phá, đều là những nhiệm vụ nhỏ tích phân ít, phần thưởng mỏng, mà hiện tại nhiệm vụ thu phục người lùn là nhiệt vụ cưỡng chế đầu tiên y nhận được sau mùa đông. Tộc người lùn hiện tại chỉ còn lại hơn năm trăm người, chút nhân số này tuy còn lâu mới so được với bộ lạc Đại Thạch lúc trước, nhưng muỗi có nhỏ cũng là thịt, nhiệm vụ này nếu làm tốt, nói ít cũng có mấy ngàn tích phân, còn được rút thưởng nữa!

Từ sau khi nhận nhiệm vụ, mấy người lùn thân hình ngũ đoản mập mạp cường tráng, trong mắt Ngô Nặc đã biến thành từng chuỗi con số tích phân biết đi, tự dưng trở nên rất đáng yêu.

Điều duy nhất không đủ đẹp, là lần này hệ thống cho thời gian rất eo hẹp, chỉ có 20 ngày.

Mùa đông hoàn cảnh ác liệt như thế, thu phục bộ lạc Đại Thạch còn tốn khá nhiều thời gian, hiện tại hoàn cảnh bên ngoài tốt hơn lúc đó không chỉ chút xíu, tộc người lùn cho dù có thoát ly bộ lạc Trường Hà trong thời gian ngắn cũng sẽ không gặp nguy hiểm diệt tộc, cho nên, Ngô Nặc không dám gây thêm chuyện, tất cả lấy hoàn thành nhiệm vụ cưỡng chế làm chủ.

Sau khi Bạch đạt thành nhận thức chung với Đa Mộc, sáng hôm sau, liền phái người tới dẫn họ vào ruộng khoai trắng làm việc.

Bạch đương nhiên không biết Ngô Nặc có nhiệm vụ mới, nhưng mục đích của hắn cũng là nhanh chóng thu phục tộc người lùn, lấy được biện pháp rèn đồ sắt (thần khí) trong tay họ, vì thế đặc biệt an bài những người lùn này làm việc chung với các cư dân sau khi diệt tộc đã gia nhập bộ lạc Trường Hà.

Người lùn trời sinh thẳng thắn thích nói chuyện, đầu óc cũng nhanh nhạy, bọn họ vốn đã biết gieo trồng thức ăn, công việc làm nông đơn giản rất nhanh đã thuận tay, lúc làm việc, tự nhiên không thiếu giao lưu với người khác, tuy ngôn ngữ bất đồng, nhưng họ có ngôn ngữ cơ thể phong phú. Người bên bộ lạc Trường Hà sau khi nhận được lệnh ở trên, bảo họ tìm cách giao lưu nhiều với tộc người lùn, một nhiệt tình một có tâm, mọi người tràn trề tinh thần ra dấu, thỉnh thoảng cũng học ngôn ngữ của đối phương, chậm rãi, có thể tiến hành một vài giao lưu đơn giản.

Vu Qua ở nhà đại vu mấy ngày, chủ động yêu cầu trở về chỗ bộ lạc, ông và Đa Mộc mỗi ngày thu được tin tức tộc nhân hồi báo, sắc mặt mỗi ngày mỗi khó xem.

Hoàn cảnh sinh hoạt nơi đây, ác liệt hơn họ tưởng tượng nhiều, tạm không nói mùa đông ở đây đáng sợ hơn nơi họ sinh sống trước kia, cho dù bộ lạc Trường Hà nguyện ý giúp đỡ họ, cũng nguyện ý cho giống khoai trắng. Nhưng họ chỉ có hơn năm trăm người, mấy bộ lạc cả ngàn người kia trong mùa đông nói hủy diệt là hủy diệt, họ lấy cái gì để so sánh với những bộ lạc đã cắm rễ ở Hắc Sắc sâm lâm nhiều năm?

Thật sự đến mùa đông, sợ là họ còn bị hủy diệt nhanh hơn những bộ lạc đó!

Lại nghĩ đến bộ lạc Hàn Nham mất hết tính người, cùng với bộ lạc ăn thịt người khác, đúng là không rét mà run.

Như vậy rốt cuộc phải làm sao mới tốt?

Biết tộc người lùn đã bị dọa, Bạch rất nhanh lại an bài những người lùn đó đi làm việc chung với người bộ lạc Đại Thạch.

So với bàn thảm trạng mùa đông, người bộ lạc Đại Thạch càng thích nói chuyện thần tích, thần thú, sứ thần xinh đẹp… cứ thế ngày ngày nói, sắc mặt Vu Qua và Đa Mộc quả nhiên mỗi ngày mỗi tốt.

Mắt thấy còn hai ngày  nữa là đến kỳ hạn cuối của nhiệm vụ, Ngô Nặc đang do dự có nên nghĩ cách hạ thuốc mạnh cho tộc người lùn không, Vu Qua và Đa Mộc lại chủ động tìm tới cửa, hạ quyết tâm quy thuộc bộ lạc Trường Hà.

Vấn đề khác còn được, nhưng tín ngưỡng của hai bộ lạc khác nhau quả thật là vấn đề lớn.

Bộ lạc bên vùng Hắc Sắc sâm lâm này, toàn bộ đều tín ngưỡng thần thú, sau đó mới là tổ tiên của mình.

Tộc người lùn lại tín ngưỡng hỏa thần và tổ tiên của mình, đại vu của họ trời sinh có thể ngưng tụ hỏa lực sử dụng dị hỏa, nhưng lại không có năng lực nghe ngôn ngữ thiên phú của thú nhân.

Đối với Ngô Nặc mà nói, những cái này rất có thể là do gen quần tộc bẩm sinh khác biệt tạo ra, nhưng đối với tộc người lùn, thậm chí Vu Quyền, là vì tín ngưỡng bất đồng tạo nên.

Người lùn vì sống sót, có thể làm giống như bộ lạc Đại Thạch, từ bỏ đồ đằng bộ lạc, nhưng muốn từ bỏ tín ngưỡng với hỏa thần, họ làm không được.

Chuyện lại lần nữa chìm vào giằng co.

Ngô Nặc chợt bừng tỉnh đại ngộ, tích phân hệ thống làm gì dễ kiếm như thế?

Đã đến lúc khảo nghiệm năng lực hùng (thần) biện (côn) của y rồi.

Ngô Nặc trước tiên thuyết phục đại vu, sau đó mới tìm Vu Qua và Đa Mộc tới, cũng những ngôn luận đó nhưng dùng tiếng người lùn nói với hai người họ: “… Tôi tới từ bộ lạc Viêm Hoàng, bộ lạc Viêm Hoàng vô cùng lớn, ở nơi đó có tín ngưỡng thần thú, cũng tín ngưỡng hỏa thần còn có tín ngưỡng thần linh khác nữa, mọi người đều tín ngưỡng chủ thần của riêng mình, nhưng tôi không biết hai người có từng nghe qua chưa, trên chủ thần còn có phụ thần sáng thế…

Chư thần đều là con của phụ thần, phụ thần khởi đầu sinh mạng tỉnh dậy từ hỗn đục, ngài dùng đôi tay xé mở hỗn đục, sáng tạo ra tinh cầu mà chúng ta đang sinh sống…

… Ngài cảm thấy tinh cầu này quá quạnh quẽ, nên đã dùng thần lực biến hóa ra các chư thần…

… Phụ thần dùng hết thần lực chìm vào ngủ say, chư thần học theo phụ thần, chiếu theo suy nghĩ của mình sáng tạo ra chúng ta…

… Thần thú chưởng quản giết chóc, thần hỏa chưởng quản hủy diệt, thần mặt đất chưởng quản vạn vật sinh linh, nữ thần sinh mạng chưởng quản tuổi thọ…

… Chư thần sinh sống ở thần vực, chỉ có người lương thiện sau khi chết mới có thể trở về vòng tay chủ thần của mình…

… Tín ngưỡng vị chủ thần nào cũng không sai, vì chúng ta quả thật là con cái của những chủ thần khác nhau, nhưng tất cả chủ thần đều là con của phụ thần, họ là anh chị em thân mật, chỉ cần cùng thờ phụng phụ thần, họ sẽ không để ý đời sau của mình sống chung với đời sau của anh chị em…”

Ngô Nặc xuyên suốt cổ kim trong ngoài, kết hợp với thần thoại truyền thuyết từng nghe lúc nhỏ, tiểu thuyết tây huyễn từng xem sau khi trưởng thành, lại chêm vào một vài lời đồn thích đáng của thế giới này, vắt óc biên soạn một đoạn như thế.

Đại khái thật sự cũng rất may mắn, tại một vài bộ lạc siêu cấp đại vu từng đi qua, thật sự mơ hồ có truyền thuyết tương tự như phụ thần sáng thế, cho nên y đánh bậy đánh bạ đã thuyết phục được đại vu.

Vu Qua lúc còn trẻ đi lịch lãm ở bộ lạc siêu cấp, cũng thỉnh thoảng nghe qua mấy lần, vì đều là những lời ông không để ý, nên cả ông và Vu Quyền đều không bận tâm.

Hiện tại nghe Ngô Nặc có hiềm nghi là sứ thần uyển chuyển nói, lập tức có cảm giác như nghe được tinh túy.

Chỉ cần họ tin, chuyện tiếp theo liền dễ làm.

Ngô Nặc kiến nghị họ làm theo phương thức của bộ lạc Viêm Hoàng, chia ra tổ chức nghi thức tế thần lớn nhỏ, nghi thức lớn chính là tất cả mọi người cùng bái tế phụ thần, nghi thức nhỏ chính là mọi người cứ theo truyền thống của mình tế bái chủ thần của mình, nghi thức lớn mỗi năm chọn thời gian cử hành thống nhất,  nghi thức nhỏ thì sẽ cử hành theo thời gian cũ của từng bên.

Cứ thế, sẽ không còn bất cứ xung đột nào.

Ngô Nặc hao tâm tổn sức tìm ra vị phụ thần sáng thế có lẽ có, không chỉ đơn thuần là muốn khiến câu chuyện này nghe càng có sức thuyết phục, mà là để tìm cái chung trên một ý nghĩa nào đó.

Với xu thế phát triển của bộ lạc Trường Hà hiện tại, cùng với ý tưởng của y và Bạch đại miêu, sau này sẽ càng ngày càng lớn, dung nạp chủng tộc bộ lạc cũng càng ngày càng nhiều, vấn đề tín ngưỡng một khi không cẩn thận sẽ ủ thành đại họa. Giống như ai cũng không nguyện ý thừa nhận mình là kẻ yếu, đồng dạng, họ cũng không nguyện ý tin tưởng thần linh mình tín ngưỡng yếu hơn thần linh khác, thậm chí là không được thừa nhận. Nhưng nếu mọi người đều có một thần linh tín ngưỡng chung, đồng thời thần linh này là cha của chúng thần, vậy rất nhiều vấn đề đều được giải quyết dễ dàng.

Chuyện về sau còn chưa thể nói rõ, nhưng ít nhất hiện tại đã có hiệu quả thiết thực.

Vu Qua và Đa Mộc nghe Ngô Nặc giải thích xong, lo nghĩ lớn nhất cũng là cuối cùng trong lòng đã triệt để tan biến.

Chẳng qua khác với bộ lạc Đại Thạch, tộc người lùn không xóa đi đồ đằng ngọn lửa của mình, mà trực tiếp thêm một đầu lâu thú nho nhỏ ở bên cạnh, để biểu thị quy thuộc bộ lạc Trường Hà.

Chịu đựng hai ngày, Ngô Nặc và đại vu còn có các tế ti khác, cuối cùng đã vẽ xong đầu lâu thú trong thời hạn hệ thống quy định.

Ngô Nặc cuối cùng được cho hơn 14000 điểm tích phân, nhưng vận may rút thưởng không tốt lắm, không rút trúng công pháp y tâm tâm niệm niệm, chỉ rút được một tờ phương pháp ủ rượu trái cây cấp thấp.

Ngô Nặc đã biết ủ rượu nho, vốn y không hứng thú mấy với phương pháp này, nhưng phương pháp ghi ở trên khác hẳn phương pháp y biết, chiếu theo phương pháp này, có thể dùng nhiều loại trái cây ủ thành rượu trái cây hỗn hợp, còn không cần phải thêm vào một lượng đường lớn như rượu nho, nồng độ rượu cao hơn rượu nho một chút, thấp hơn rượu trắng.

Ngô Nặc quả thật từng nghĩ sẽ ủ một chút rượu, trong Hắc Sắc sâm lâm cũng có thực vật vô cùng tương tự nho, hình dáng màu sắc mùi vị đều rất giống, chỉ là hơi chua, muốn ủ được rượu nho ngọt ngào thì phải thêm không ít đường mới được.

Mía y mua được từ thú nhân hùng tộc ở hội chợ bộ lạc lúc trước đã được trồng xuống, thế phát triển không tồi, nhưng số lượng không nhiều, ít nhất phải sang năm trồng thêm một đợt nữa, mới có dư lấy luyện đường.

Tờ phương pháp ủ rượu này, tuy không quý báu như công pháp, nhưng cũng đúng lúc có tác dụng.

Chẳng qua thời gian này, trong rừng không nhiều trái cây đã chín hẳn, chuyện trong bộ lạc lại chất đống như núi, Ngô Nặc chỉ có thể cất phương pháp đi trước, sau này lại thử.

Sau khi tộc người lùn quy thuộc bộ lạc Trường Hà, cũng coi như một thành viên bộ lạc, so với làm nông, họ càng có thiên phú rõ rệt ở việc chế tạo công cụ. Họ khéo tay, cũng rất có tính sáng tạo, công cụ đơn giản vào tay họ luôn dễ dàng có thể được họ cải tạo sử dụng tốt hơn. Ngô Nặc phát hiện ưu điểm này, dứt khoát cho họ thoát ly sản xuất, chuyên môn chế tạo, cải tạo công cụ bộ lạc.

Đừng xem thường nông cụ do người lùn làm ra, còn thật sự vô cùng thực dụng, có nông cụ mới, hiệu suất làm việc của mọi người tăng hơn trước không ít.

Toàn bộ lạc trước trước sau sau bận rộn hơn một tháng, cuối cùng thu hoạch xong khoai trắng, còn trồng mầm đã ươm vào đất hoang mới khai khẩn.

Ngô Nặc không phải rất hiểu nông vụ, nhưng y vẫn biết cách nói ‘cho đất nghỉ’. Tạm nói bộ lạc không có phân bón hóa học, ngay cả cung ứng phân bón cũng thiếu hụt nghiêm trọng, chỉ luận riêng độ phì của đất, dù có phì nhiêu cỡ nào cũng không chịu nổi cày cấy liên tục, đặc biệt còn là gieo trồng loại thực vật lực sinh mạng cực mạnh, tiêu  hao độ phì như khoai trắng.

Cho nên sau khi gieo trồng đợt khoai trắng trước, Ngô Nặc đã có kế hoạch hóa an bài người ở ngoại vi bộ lạc khai khẩn một số đất hoang mới, dù sao xung quanh bộ lạc đâu đâu cũng là đất phì nhiêu vô chủ, không chiếm thì uổng. Tiến độ xây nhà bên Tinh không nhanh, chỉ có số ít người có chỗ ở cố định, phần lớn mọi người đều ở trong lều đơn giản, an bài họ đến nơi mới cũng dễ dàng.

Đất trống ra, tự nhiên sẽ trở thành phạm vi hoạt động của các gia súc.

Sau đó, các chiến sĩ thủ hạ cùng Bạch săn bắt không ít con mồi mang về, long thú săn trước, động vật chết lúc săn bắt bình thường trên cơ bản đã đủ cung cấp lượng thịt hằng ngày cho mọi người, vật sống toàn bộ giữ lại sinh sôi.

Thông qua săn bắt và thuần dưỡng số lượng trước đó, các loại gia súc gia cầm trong bộ lạc hiện tại lớn lớn nhỏ nhỏ cộng lại đã quá chục ngàn, trên cơ số này, tốc độ sinh sôi cũng sẽ trở nên cấp tốc.

Chỉ với sức của hai ba chục tiểu đậu đinh nhóm sư tử con, sớm đã không trông nổi nhiều gia súc như thế. Ngô Nặc vừa phái thêm người canh chừng, thuần dưỡng gia súc, vừa để mọi người học theo nhà y xây chuồng gia súc, dùng chuồng lớn nhỏ chia gia súc khác chủng loại ra nuôi. Ngô Nặc thậm chí còn đề nghị mọi người chỉ chuyên chú nuôi một loại hoặc mấy loại động vật, đi con đường chuyên nghiệp hóa nuôi trồng, để tiện tích lũy càng nhiều kinh nghiệm nuôi trồng, những động vật không dễ hầu hạ hoặc giỏi sinh sôi, sẽ cố nuôi ít một chút.

Mọi người ngẫm lại, phát hiện kiến nghị của Ngô Nặc  quả thật vô cùng có lý.

Heo thú đặc biệt mắn đẻ, rất dễ nuôi sống, có thể ăn có thể ngủ có thể mọc thịt, tính tình tương đối ôn thuận, tự nhiên trở thành đối tượng mọi người tranh nhau nuôi dưỡng. Trình độ được hoan nghênh của răng dài, chim thịt và heo thú không phân trên dưới, tiếp theo chính là dê và bò man, nai gạc vị ngon, nhưng nuôi nhốt thường sinh bệnh, con con dễ chết yểu hơn mấy loại trước, không dễ chăm sóc, sau khi nghe Ngô Nặc kiến nghị, người thích nuôi chúng cũng ít đi. Bộ lạc lớn lớn nhỏ nhỏ có mười mấy loại gia súc, trong đó khó nuôi nhất chính là thú lí lạp, chúng giỏi đào hang, hơi chút sơ sẩy là chúng chạy mất, nuôi phí công, trừ thật sự là người có tình cảm chuyên biệt với thú lí lạp, những người khác hầu như đều không thích nuôi nó.

Xây chuồng dễ hơn xây nhà nhiều, người có nhà gạch ngói lợi dụng thời gian nghỉ ngơi bình thường, mô phỏng theo số chuồng của Ngô Nặc, dọn dẹp vườn sau nhà mình rồi dùng gỗ khoanh lại mấy cái chuồng, xong lại đến bên bờ sông nhặt chút đá, dùng đất dính xây nhà dán đá đó lại thành vách tường, lại lấy đất dính bôi lên đất, phía trên phủ một tầng đá phiến, đợi đất dính khô cứng, đá phiến cũng được cố định chặt dưới đất.

Các gia súc ở trong chuồng như thế, không chỉ ít đánh nhau, thu dọn phân của chúng cũng dễ hơn, cả ngày ăn rồi ngủ ngủ rồi ăn, còn dễ phì thịt hơn nuôi thả.

Tuy nói dễ phì thịt, nhưng mấy gia súc này dù sao chỉ ăn cỏ xanh mà thôi, tốc độ sinh trưởng tự nhiên tất nhiên còn lâu mới có thể sánh với những động vật được ăn thức ăn gia súc hiện đại.

Cứ lấy heo thú ra nói, từ khi sinh ra đến trưởng thành, phải mất gần ba trăm ngày, tương đương một năm hiện đại, để ở tinh cầu một năm có 480 ngày, cũng đã mất hơn nửa năm, nếu nuôi thả tốc độ sinh trưởng sẽ càng chậm.

Đương nhiên chỗ ích lợi vẫn có, trừ chất thịt ngon hơn, những gia súc ăn cỏ xanh trưởng thành, cũng rất ít bệnh.

Mọi người xây chuồng xong, chiếu theo con số đã đăng ký, nhận gia súc nhà mình về. Những gia súc đã được thuần dưỡng đó, ôn thuận hơn lúc trước nhiều, sống chung với các đồng tộc khác trong chuồng, trừ giành thức ăn, giành giống cái, bình thường rất hiếm khi đánh nhau. Sau đó, mọi người cũng ý thức được tách thú đực và thú cái ra nuôi, thậm chí học được sau khi thiến thú đực, tình huống đánh nhau càng ít hơn.

Nhưng, người có nhà còn có chuồng vẫn chỉ là bộ phận nhỏ, phần lớn gia súc sau khi đăng ký vẫn do bộ lạc thống nhất nuôi thả.

Gia súc thành niên cơ bản đều có chủ, nhưng con của chúng thì không dễ chia, Ngô Nặc và đại vu thương lượng xong nghĩ ra một biện pháp điều hòa, chính là chia số con con đó cho thuần nhân không có gia súc nuôi.

Tộc người lùn vận khí không tệ, gia nhập bộ lạc Trường Hà không bao lâu, thì lục tục có người đăng ký được phân gia súc con. Cho dù những gia súc con này chỉ được ghi dưới tên họ, phải đợi sau khi có nhà và chuồng cố định mới có thể lĩnh về tự nuôi. Nhưng đối với họ mà nói, đã là cổ vũ và động lực rất lớn.

Vì, nó có nghĩa là, bọn họ cuối cùng thành công cắm rễ ở bộ lạc giàu có cường đại ngày càng thịnh vượng này