Họ Đã Tu Tiên Như Thế Đó

Chương 151: Tùy Duyên Thuận Pháp




Diêm Đế đáp lại câu hỏi của A Nhất bằng một câu hỏi khác:

- Ngươi có còn tỉnh táo hay không?

Mặt nạ gỗ bình thản đáp:

- Vãn bối vẫn rất tỉnh táo.

Dù được mặt nạ Nhân hoàng hỗ trợ, A Nhất cũng không thể nán lại đây lâu dài được. Sức chịu đựng của hắn cũng có hạn.

- Đủ tỉnh táo để nhận ra rằng tiền bối đã khâm điểm cho vãn bối cái danh Nhân Hoàng.

Sau khi thần thức ổn định trở lại, A Nhất chống tay ghế đá đứng dậy, nhấc theo Lục Đạo tích trượng.

- Vãn bối thật không hiểu, tiền bối miệng thì nói chán ghét kế hoạch ngăn cản Kiếp Hoại, nhưng hết lần này đến lần khác, người luôn tặng vãn bối chiếc mặt nạ này.

Lần đầu tiên đến đây, cũng chính Diêm Đế đổi mặt nạ gỗ lấy quan tài của hắn.

Lúc nãy, cũng nhờ Diêm Đế xóa đi áp lực trên người của A Nhất nên hắn mới rời được ghế đá, giúp Phiêu Đạo giải thoát, đoạt lại mặt nạ gỗ.

Ngưu đầu giáp biến thành vương bào. Người đàn ông trung niên to lớn cao gấp đôi A Nhất mở ngọc giản ra xem một lượt, đồng tử sâu thẳm lộ một tia hài lòng.

- Tất cả là do ngươi cố chấp mà thôi.

Mặt nạ gỗ đi về phía chiếc quan tài bằng gỗ thô của Phiêu Đạo, bỏ tích trượng vào bên trong. Hư ảnh đệ nhất thánh cũng liền leo vào theo.

Hắn hướng về cánh cửa Mê Trì to lớn ở phía xa, khoanh tay, nói:

- Các vị sư điệt bảo trọng!

Hắn thầm nguyện cầu cho đám người Tứ Đế của Hỏa Dung đường và Lục Tiên của Nghi Thủy đường được bình an.

A Nhất lại quay về phía Diêm Đế, khoanh tay hành lễ:

- Đa tạ tiền bối!

Diêm Đế xoay người nhìn cảnh sắc xanh tươi bên trong Mê Trì địa ngục, cố khuyên bảo:

- Tùy duyên, thuận pháp tốt biết bao nhiêu?

Nam tử cứng đầu cúi người thật sâu trước bóng lưng cao lớn.

- Đại địa từ bi!

Nói rồi hắn bước vào nằm trong quan tài, cơ thể trùng khớp với hư ảnh đệ nhất thánh.

Nắp quan tài lật trở lên trên như thể thời gian chạy ngược. Khi quan tài đóng kín, những đường vân gỗ di động nhanh chóng rồi hóa thành vô số điểm sáng.



Khúc gỗ mục trôi trên dòng sông không thể dừng lại, cũng chẳng thể lội ngược dòng. Đôi khi hữu duyên cập bến lạ, hết duyên lại rời đi. Đôi lúc lại vô duyên, cứ trôi mãi ra Vô Tận Hải.

Tùy duyên là vậy đó!

Hai chữ “tùy duyên” của Diêm Đế A Ngưu đưa chiếc quan tài của A Nhất đến dãy Thiên Sơn hùng vĩ của Bắc Câu Lư Châu.

Bốn bề quan tài gỗ là biển mây trắng bạt ngàn. Xa xa những đỉnh núi gồ ghề được tự nhiên phủ tuyết trắng, ẩn hiện trong mây.

Gió rít gào cọ rửa đi chút tử khí còn sót lại trên quan tài. Những đường vân gỗ cầu kì không biết đã ngừng chuyển động từ khi nào.

Tiếng gió đánh thức nam tử mù lòa.

Tuy nơi này chỉ có âm thanh của tự nhiên thế nhưng A Nhất cũng không vì thế mà thả lỏng.

A Nhất niệm một chữ “Linh”. Khác với ở địa ngục, lần này một niệm của hắn lập tức có tác dụng.

Linh lực bốn phía ồ ạt trút vào chiếc nhẫn ngọc trắng trên ngón tay cái. Nó vừa lóe lên ánh sáng lạnh lẽo thì Cửu U Thất Sát Nha và Thái Bình kiếm đã nằm gọn trong hai tay của A Nhất.

Cầm hai thanh thần khí trong tay, A Nhất cảm thấy tự tin hơn hẳn.

Hắn không dám hoàn toàn tin tưởng thính giác của mình. Vị thần mù lòa vỗ tay, tinh thần lực của hắn chậm rãi lan ra bên ngoài, hòa nhập vào đại tự nhiên.

Nữa khắc sau, hắn mới thở phào nhẹ nhõm.

Trong phạm vi năm trăm dặm chỉ có ý chí của mình hắn tồn tại, không có phàm nhân càng không có tiên nhân.

Ở trong khung cảnh thinh lặng đến tịch mịch này, chỉ có tiếng gió gào và tiếng lòng của hắn mà thôi.

Vị thần mù lòa hét lớn.

Thiên âm cao lãnh vang xa, lướt trên biển mây, đập vào mấy đỉnh núi ở nơi xa rồi vọng trở lại với A Nhất.

Mặt nạ gỗ thích ý cười ha hả.

- Đồ đần! Thiên âm vang xa hơn phạm vi tinh thần của ngươi.

- Lỡ tiên nhân đã nghe được rồi đang chạy đến đây thì sao? Trốn! Mau trốn!

- Hãy tế luyện mặt nạ đi! Lúc đó ở khắp Nhân giới, ngươi không cần phải sợ bất kỳ ai.

- Hắn có nghe thấy chúng ta nói không?

- Dĩ nhiên là có rồi!

A Nhất lấy ra một hồ lô nhỏ từ trong nhẫn trữ vật, đổ ra trên tay một nắm gạo rồi rải xuống đất.

Gạo binh hiện ra, kẻ nào kẻ nấy đầu trọc lóc, mặt mũi bình phàm trắng bệch, thần sắc có chút ngờ nghệch, thân thể nam nhân tráng kiện khoác áo vải thô sơ.

Nhìn đám gạo binh của Nhập Mộc đường, A Nhất lại nhớ hai vị sư điệt đã quá cố, Mộc Thanh và Mộc Hi.

Xua đi ký ức, A Nhất hạ lệnh:

- Mau giúp ta xây một căn nhà nhỏ!

Đám gạo binh dường như không nghe thấy A Nhất nói, vẫn đứng yên bất động, mắt nhìn hắn chằm chằm.

Hắn thử dùng thần thức hạ lệnh cũng vẫn không có tác dụng.

A Nhất cười khổ.

Hắn có thể tùy ý sử dụng pháp bảo bản mệnh của các vị đường chủ bởi chúng có chứa một tia ý chí của bọn họ, hỗ trợ cho hắn. Còn đối với một đống món linh ta linh tinh bên trong nhẫn trữ vật của Tịch Diệt đạo tổ, hắn hoàn toàn không rõ ràng.

Nếu không phải lúc trước Mộc Thanh và Mộc Hi tế ra một bình hồ lô y hệt để tặng cho công chúa Lãnh Vân Khanh thì A Nhất cũng không biết bên trong hồ lô là gạo binh.

Khổ nỗi lúc đó chưa kịp nghe hai vị sư điệt giải thích công dụng thì hắn đã ngăn cản bọn họ tặng thứ này vì không muốn Lãnh Vân Khanh dùng gạo binh tạo sát nghiệp.

- Đồ chơi của tiên nhân!

- Hắn cũng là tiên nhân!

- Hắn không phải!

- Có khi nào cần phải tưới nước bón phân không?

- Đứa trẻ đáng thương!

A Nhất còn đang thử đủ cách để điều động gạo binh thì đệ nhất thánh bên trong quan tài đã đứng dậy, lục đạo tích trượng leng keng vài tiếng.

Nam tử mù hốt hoảng nhảy về phía sau đám đậu binh, hi vọng có thể dùng chúng làm khiên chắn nếu có chuyện bất ngờ xảy ra.

- Ai?

Đệ nhất thánh dĩ nhiên không trả lời A Nhất. Tay của nó lắc nhẹ Lục Đạo tích trượng, miệng không ngừng lẩm bẩm.

Vị thần mù lòa xuất khiếu, vờn một vòng quanh quan tài nhưng không phát hiện được gì.

Sau khi đôi môi của đệ nhất thánh ngừng động đậy thì đám gạo binh cũng tản ra bốn phía, bắt đầu đào đất, phá núi.

A Nhất từ từ lại gần quan tài, hai tay không ngừng sờ soạng tích trượng. Mắt hắn không thấy đệ nhất thánh, tinh thần lực của hắn lại không thể tra dò hư ảnh.

‘Chẳng lẽ đây chính là khí linh của pháp bảo?’

Tịch Diệt đạo tổ có nói với hắn rằng thanh Cửu U Thất Sát nha của hắn có khí linh, tự có ý thức.

‘Lục Đạo tích trượng hẳn cũng như vậy.’

Nghĩ đến cây tích trượng này vốn là pháp bảo của Phật gia, lại là của một vị bồ tát đạo hạnh cao thâm, A Nhất không lo lắng nữa.

Hắn sửa soạn lại y phục cho chỉnh tề, khoanh tay trước tích trượng.

- Đa tạ!

Nhân hoàng lễ bái hư ảnh do chính hắn tạo ra. Nghe thì có vẻ buồn cười, nhưng chẳng phải bao đời nay thế nhân đều tự tạo ra điều huyền bí để tự kính sợ đó sao?



Đêm về, bầu trời phía trên đỉnh núi cũng khoác lên chiếc áo gấm lấp lánh sao trời.

Bởi núi cao hơn tầng mây nên trăng cũng sáng hơn và tròn trịa hơn.

Kẻ mù lòa không biết điều đó, tinh thần lực mạnh mẽ của hắn cũng vô phương với đến ánh trăng trên cao.

A Nhất ngồi thẩn thờ trên quan tài, bên cạnh có cắm một cây dù vải lớn. Hắn cũng không ngờ chiếc dù nhỏ khi mở ra lại hóa to đến vậy.

Đêm nay mây thấp, trên núi không có mưa cũng chẳng có tuyết, nhưng A Nhất vẫn mở dù che đầu. Bởi lúc này hắn rảnh rỗi.

A Nhất cởi chiếc mặt nạ gỗ xuống, cảm thán:

- Xin lỗi Nhập Mộc huynh! Tiểu đệ mù lòa, thân căn cũng đã mất, nên chẳng rõ hướng nào là hướng Tây Bắc.

Phía sau lưng kẻ mù là một chùa tháp nhỏ, vừa đủ cho một hộ gia đình cư ngụ. Kiến trúc tuy không hoành tráng như lại rất tinh tế, tháp có ba tầng, mái đá cong cong đều đặn, bề mặt tháp có khắc đầy kinh văn. Cửa chính có điêu khắc của một bánh xe sáu trục.

Đệ nhất thánh đang nhắm tọa thiền ở bên trong tháp, Lục Đạo Tích Trượng cắm trên bệ đá ở ngay bên cạnh.

Vì hắn đã quy hết mọi lý do lên ‘khí linh’ của Lục Đạo Tích Trượng nên cũng không mấy ngạc nhiên khi phát hiện thứ mà gạo binh xây là chùa tháp.

Lúc này kẻ mù lòa không muốn suy nghĩ. Hắn chỉ muốn được nghe bản giao hưởng của gió.

Bởi ai biết được khi nào thì vận mệnh trớ trêu kia lại ập đến, cuôn trôi hắn.

U Linh cổ cầm đỏ như máu tươi nằm trên đùi A Nhất.

Bàn tay thon gầy gảy vài âm thanh thúy, hòa nhịp với tiếng gió.

A Nhất mặc kệ những tiếng nói ma mị thi thoảng vẫn vang lên bên tai, chỉ tập trung vào tiếng đàn.

Dây đàn rung vài lần, những thanh âm ai oán cũng nhạt dần.

A Nhất thích ý, cười mãi.

Trước giờ không phải là hắn không muốn gảy đàn, chỉ là không có dịp.

Âm thanh của U Linh làm rối loạn nhân tâm, lại hấp dẫn cô hồn dã quỷ thế nên hắn chỉ có thể gảy nó ở nơi vắng vẻ mà thôi.

Có lẽ cuộc đời hắn vốn nên tịch mịch, như cái bóng tối của sự mù lòa.

Tiếng đàn du dương làm A Nhất chạnh lòng.

Hắn cao giọng hát hòa nhịp.



Như vọng về từ vạn cổ

Như được chắt lọc từ đêm

Thấm đẫm máu từ biển khổ

Tiếng U Linh vọng trong đêm

Tặng người một khúc êm đềm

Mong người chớ giận sợi câm

Gió hát tùy duyên thuận pháp

Tặng ta một thoáng diệu âm…