Mộ Vân Thâm

Chương 6




Hoàng hôn trầm dần xuống, mưa nhỏ đậu trên sông. Thái thú Biện Lương Tô Cẩn Khiêm theo thị tùy Tiểu Canh của Phương phủ cầm tán ô đi suốt nửa canh giờ trên mép sông mới tìm được Phương Đỗ Nhược vừa xuất phủ tuần tra. Ráng mây cuối ngày dần tắt lịm, nước sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy dưới con đê. Băng trôi va vào nhau, ầm vang tiếng rạn nứt. Gió sông gào thét, trường sam của Phương Đỗ Nhược mưa rơi đã ướt nửa mà người thì hoàn toàn không hay, chỉ thổi đi thổi lại một khúc sáo, âm điệu buồn bã.

Tiểu Canh bước lên che mưa cho y, cất giọng: “Đầu đê gió rất lạnh, chủ tử cẩn thận sức khỏe.”

Tiếng sáo của Phương Đỗ Nhược đột nhiên dừng lại, quay đầu nhìn gã, nở nụ cười nhạt, thấy Tô Cẩn Khiêm cầm ô đứng sau Tiểu Canh, vội vàng thi lễ: “Nơi này giang sơn mênh mông, Đỗ Nhược nhất thời phiền lòng quên về, nhọc công Tô huynh đến đây tìm kiếm, Đỗ Nhược thất lễ rồi.”

Tô Cẩn Khiêm gật đầu, lại nghe Phương Đỗ Nhược nói tiếp: “Lũ do băng tan vừa mới qua, xuân này trên sông đã không có gì đáng ngại. Đê sông kịp thời làm xong đều nhờ công giám sát của Tô huynh, Đỗ Nhược thay mặt mọi người của Công bộ tạ ơn Tô huynh.”

Tô Cẩn Khiêm cũng không muốn nói mấy câu khách sáo quan lại như vậy với Phương Đỗ Nhược, chỉ hỏi thẳng: “Vừa rồi một khúc ‘Tư mỹ nhân’ của đại nhân xót xa bức bối vô cùng, tuy không có chút tình ý nào, nhưng giống như đang tưởng nhớ, có phải… vừa chịu tang cố hữu?”

Phương Đỗ Nhược nghe vậy giật mình, chốc liền nói nhỏ: “… Tô huynh thực sự là tri âm.”

Tô Cẩn Khiêm nhìn dòng nước sông đang trôi, chầm chậm nói: “Tô mỗ cũng nguyện trở thành tri kỷ với đại nhân, đại nhân nếu có tâm sự, không ngại nói với Tô mỗ, cũng có thể cùng nhau khuyên giải.”

Phương Đỗ Nhược thầm nghĩ Tô Cẩn Khiêm ở quan ngoại đã lâu, trời sinh không mưu cầu danh lợi, càng không hề quen biết Cố Hoằng Chi, hà tất đem chuyện tranh đấu nội bộ ở kinh thành nói với y khiến y thêm ưu phiền, vì thế chỉ nói: “Bạn cũ trong kinh mất sớm, Đỗ Nhược nghe phải tin dữ nhất thời đau lòng. Tô huynh quan tâm, Đỗ Nhược cảm kích vô cùng.”

Tô Cẩn Khiêm nghe y nói năng mập mờ, chỉ rầu rĩ cười cười, không hề hỏi nhiều. Chốc lát hai người sóng vai ngắm dòng nước chảy, không ai nói chuyện. Phương Đỗ Nhược thấy Tô Cẩn Khiêm mi mày chất ưu sầu, biết y để bụng chuyện vừa rồi, vì thế chuyển chủ đề, “Lần trước học được khúc nhạc của Tô huynh, từng có duyên để Lục hoàng tử điện hạ nghe thấy, điện hạ gọi là Tô khúc, Đỗ Nhược thấy rất có hứng thú.”

“Dã khúc thô thiển có thể được điện hạ ngọc thính, Tô mỗ rất vinh hạnh, lại được điện hạ thưởng tên, Tô mỗ dù thấy rất hổ thẹn song rất cảm kích.”

Phương Đỗ Nhược cười nói: “Điện hạ không biết tên khúc, chỉ lấy Tô khúc gọi thay, Đỗ Nhược tập khúc lâu như vậy cũng không biết tên khúc, xin Tô huynh chỉ giáo.”

Tô Cẩn Khiêm đáp: “Khúc này Tô mỗ ngẫu nhiên viết ra, vẫn chưa đặt tên, nếu đại nhân hỏi, tạm thời cho tên… Thạch Tuyền.”

Phương Đỗ Nhược vỗ tay nói: “Đỗ Nhược cũng thấy khúc này ôn hòa tự tại, thâm ý như lưu thủy, tên này rất hợp.”

Tô Cẩn Khiêm nghe vậy rũ mi, im lặng không nói.

Sơn trung nhân hề phương đỗ nhược, ẩm thạch tuyền hề ấm tùng bách, quân tư ngã hề… nhiên nghi tác*.

(Người trong núi khác nào cỏ thơm

Ăn bóng tùng, uống nước suối trong

Lòng nhớ chàng, một mình lặng lẽ

Phải vì chàng nghi hoặc ta chăng?)


Tri âm dễ kiếm, tri kỷ khó tìm, từ trước tới giờ vẫn vậy.

“Sáng nay nhận được công văn trong kinh, nói bệ hạ ủy nhiệm Đại Lý tự Hữu thiếu khanh Việt Lâm Xuyên đại nhân làm Khâm sai, đến kiểm tra công trình đê sông, đại nhân hôm nay không ở trong phủ chắc hẳn không biết.”

Tổ tiên Việt thị là trọng thần khai quốc, Việt Lâm Xuyên tuổi nhỏ thành danh, phong thần tuấn dật, tài hoa hơn người, những năm gần đây rất được Hoàng đế khen ngợi, thăng chức không ngừng, hai mươi ba tuổi đã làm Phó tịch Đại Lý tự. Cho nên, người này cậy tài khinh người, tính tình ngạo mạn, gia thế hiển hách, cuộc sống bình thường quy củ rất nhiều, rất khó sống chung. Phương Đỗ Nhược nghe hắn sắp đến, không khỏi cau mày, vậy nên tự nói với mình làm việc không thẹn với lòng, dù Việt Lâm Xuyên bản tính hà khắc, nếu không phạm vào vương pháp thì cũng không thể vô cớ làm khó. Phương Đỗ Nhược liền khuyên Tô Cẩn Khiêm: “Thủy lợi Hoàng Hà là kế hoạch lâu dài, phái khâm sai kiểm nghiệm cũng là tục lệ bản triều, Tô huynh không cần lo lắng, ta huynh toàn tâm phối hợp tiếp sứ giả là được.”

Tô Cẩn Khiêm gật đầu nói: “Dưới sự giám sát của đại nhân, công trình lần này thi công nghiêm ngặt, sổ sách rõ ràng, mặc dù từ trước đến nay việc sông nước luôn nhiều chuyện nhưng Việt khâm sai lần này nhất định tay không mà về rồi.”

Tiểu Canh đứng bên cạnh nhàn hạ nói chen vào: “Sắc trời đã tối, đồ chay trong phủ cũng đã chuẩn bị tốt, chủ tử và Tô đại nhân sớm về nghỉ ngơi đi.”

Phương Đỗ Nhược cúi đầu nhìn, Hoàng Hà mênh mông đã ẩn vào đêm tối, chỉ còn tiếng sóng vỗ mãi chẳng ngừng.

Khi hiệp định thông thương kí xong, một cọng cỏ xanh mướt đã dần nhú mầm trên thảo nguyên. Thổ Dục Hồn vương muốn thiết đãi Dục Thanh với mấy trăm Hán binh một bữa tiệc tiễn biệt, Dục Thanh mang lương thực cứu tế đường xa tới đây thực sự không dễ, song chỉ từ biệt rồi đi, tới đại trướng của Thiện Lan Triết uống chút rượu sữa ngựa.

Xin ý chỉ trong kinh về đợt lương thực xong, đại bộ phận quân đội đều bị đuổi về nước, Dục Thanh cả ngày nhàn nhã, thường kéo Thiện Lan Triết tới so võ nghệ luận binh pháp, đổi từ địch nhân ngày trước thành một nửa bằng hữu bây giờ. Hai vị vương tử nhàn rỗi ung dung, còn Dụ Thanh thì bận bịu đến mức đầu sắp bốc khói, nguyên nhân là hai bên Thổ Hán đều nhất trí quẳng hết chi tiết việc thông thương cho y sắp xếp, hiệp định công văn cũng đều do y khởi thảo. Dụ Thanh vì quyết định biện pháp hữu ích cho cả đôi bên, đa phương kết hợp, buộc phải đem hết tài năng cả người ra lo liệu, cho đến khi hiệp nghị kí xong, tất cả êm thấm mới có thời gian ngồi uống rượu.

Thiện Lan Triết ngồi cạnh Dụ Thanh, ngậm vành chén nhìn y chằm chằm. Dụ Thanh bị gã nhìn đến giật cả mình, hỏi: “Làm sao vậy?”

“Trên mặt ngươi có một vết sẹo, trước kia không có, bị roi đánh?”

Dụ Thanh nâng tay xoa xoa mặt: “Sẹo cũng không còn rõ nữa mà.”

“Ai đánh, ta đi giết gã.”

Dụ Thanh nhớ đến gã giáo úy đã chết, trong lòng bỗng thấy xót xa, nhẹ giọng bảo: “Một sinh mạng mà so ra lại chẳng bằng một vết sẹo? Người thường nói chuyện đều là thật tâm cảm thông, còn người nắm quyền sinh sát toàn chỉ nói những điều đáng sợ.”

Dục Thanh nghe cách Dụ Thanh nói chuyện với Thiện Lan Triết không câu nệ như nói với mình, thấy hơi khó chịu, xen vào bảo: “Người đánh y ta đã phạt rồi.”

Thiện Lan Triết nhíu mày, bực mình thoáng chốc, lại nói: “Ba ngày rồi ngươi không gặp Vân Hỏa, nó buồn lắm.”

Vân Hỏa này là tên ngựa cưỡi của Thiện Lan Triết, tuyệt thế bảo mã, cũng là con ngựa chăn dắt của Dụ Thanh năm đó Thiện Lan Triết đem đi, hôm nay muốn trả Vân Hỏa lại cho y, nhưng Dụ Thanh luôn từ chối, nói ngựa đó là của chủ nhân trước kia, trả lại cũng không nên trả cho y, tiếc rằng Thiện Lan Triết chả thèm để ý đạo lý gì cả, khiến Dụ Thanh không thể không nhận.

“Mấy ngày nay tôi bận đến thế, đi đâu được, đã bảo điện hạ bắt nó lại đi mà, để nó ở bên tôi chỉ có tủi thân cho nó.”

“Ta muốn giúp ngươi, ngươi đã không cho, lại đuổi ta đi nữa.”

“Điện hạ cứ ở bên cạnh nhìn, người Thổ Dục Hồn làm việc cùng tôi đều sợ đến luống cuống cả tay chân, chắc hẳn ngày thường điện hạ ngạo mạn vô cùng, nghiêm khắc với người ngoài.”

“Dục Thanh không thế chắc? Bắt ngươi quỳ tới quỳ lui. Ngươi đến Thổ Dục Hồn đi, sau này ta sẽ hiền lành cho.”

Dục Thanh thấy buồn cười, nghiêm mặt nói: “Ta còn ngồi đây mà ngươi dám trắng trợn dụ dỗ người của ta như thế, đạo đãi khách của Thổ Dục Hồn là vậy hả?”

“Lang nhi không thích chiến tranh, đi theo ngươi không ổn, chỗ này của ta có đại sự cho y làm.”

“Y rời quê nhiều năm tất nhớ cố thổ, nhất định rất muốn trở về kinh thành, tự ngươi hỏi y đi.”

Thiện Lan Triết nhìn về phía Dụ Thanh, Dụ Thanh chần chờ chốc lát, gật đầu.

Dục Thanh nhếch miệng nói với Dụ Thanh: “Với tính tình của ngươi thực sự không nên ở lại trong quân, ta trở về thỉnh ý chỉ phụ hoàng, tiến cử ngươi tới Hộ bộ làm quan, được chứ?”

“Chỉ cần có thể quay về kinh đô cố thổ, đừng nói chỉ có thể làm Bút thiếp thức ở Hộ bộ, dù có phải đi quét đường quét phố Dụ Thanh cũng bằng lòng.”

(Bút thiếp thức: Người chuyên lo văn kiện, giấy tờ.)

“Bút thiếp thức cái gì, ngươi vẫn cứ tự xem nhẹ bản thân mình. Nếu không phải ngươi chưa qua khoa cử, tuổi tác lại nhỏ, chứ không thì làm Lang trung cũng là oan ức cho ngươi.”

(Lang trung là quan viên quản lý sự vụ ở các ti, chỉ đứng sau những quan viên cao cấp như Thượng thư, Thị lang, Thừa tướng.)

Vừa nói, Dục Thanh vừa như chợt nghĩ đến điều gì, đôi đồng tử trong ngần liếc Thiện Lan Triết, cười bảo: “Huống chi, ai lại đủ can đảm để ngươi đi quét đường quét phố, chẳng lẽ không sợ ngươi đem bọn ăn mày bị chó điên cắn nhặt hết về?”

Thiện Lan Triết dù không thể nghe hiểu hết, cũng biết Dục Thanh lại đem gã ra trêu chọc, song không giận, chỉ nói: “Ta bị sói đuổi, trời cao phái Lang nhi tới nhặt ta, vậy ngươi mà bị đuổi thì ai tới nhặt ngươi?”

(100% sát thương chí mạng =)))

Dục Thanh trong lòng khẽ động, tắt nụ cười, không đáp, nghe Thiện Lan Triết nói với Dụ Thanh: “Ngươi ở Thổ Dục Hồn cũng có thể có nhà, muội muội nhỏ nhất của ta Lan Cách Nhĩ, mẫu thân vốn là Lâu Lan công chúa. Nàng là người xinh đẹp nhất Thổ Dục Hồn, Tây Thương quốc chủ cũng vừa ý nàng, gả cho ngươi.”

“Công chúa thân phận tôn quý vô cùng, Dụ Thanh đảm đương sao được.”

Thiện Lan Triết mỉm cười vươn tay vỗ vai y, “Thổ Dục Hồn chúng ta không giống người Hán, cái gì là thân phận, chỉ cần thích, gả cho ai cũng được. Lan Cách Nhĩ từ nhỏ nghe ta kể về ngươi, vẫn nói phải gả cho một dũng sĩ có can đảm đương đầu với bầy sói, vừa đúng lại là ngươi!”

“Ngày ấy Dụ Thanh là một nô lệ Mục Dương, ngươi là thái tử cao quý, nếu y thật là nữ tử, ngươi có lấy y làm chính thê?”

Thiện Lan Triết nghe Dục Thanh hỏi gã như vậy, hơi đỏ mặt, giọng lại cao lên: “Nếu y thật sự là nữ tử, ngay cả trời cao ngăn cản ta cũng không quan tâm!”

Dứt lời nâng chén hướng thiên, trầm giọng nói với Dụ Thanh: “Trời xanh trên kia, kiếp sau ngươi là nữ tử, ta nhất định sẽ cưới ngươi, ta là nữ tử, ta nhất định gả cho ngươi, tiện đây nói luôn, kiếp sau ngươi đừng quên.”

Dụ Thanh buông mắt nhìn chén rượu trước mặt, Dục Thanh lẳng lặng uống hết phần rượu sữa ngựa trong chén, bữa tiệc nhất thời chẳng còn âm thanh, lát sau Dục Thanh mới cất tiếng: “Người Thổ Dục Hồn quả nhiên ngay thẳng bất kị, ta chịu lễ phép gò bó của nhà Hán đã lâu, cứ ngồi đây tiếp cũng không được tự nhiên, các ngươi cứ nói chuyện, ta đi kiểm tra hành trang ngày mai.” Dứt lời đứng dậy rời khỏi bàn tiệc.

Dụ Thanh vẫn không nói lời nào, Thiện Lan Triết tĩnh chốc lát, thấp giọng hỏi y: “Ngươi mất hứng? Ngươi… không muốn?”

“… Đồng ý. Cho nên không biết phải nói gì.”

“Đã nói đồng ý rồi mà, quy củ của người Hán phiền thật đấy.” Thiện Lan Triết vừa cười vừa nói: “Cạn chén, lời đã định.”

“… Hôn sự với công chúa…”

“Ngươi không muốn, vậy bỏ đi.”

“Tôi muốn về kinh, để công chúa theo tôi tới nơi đất khách, tôi không đành lòng.”

Thiện Lan Triết cười vỗ vỗ đầu Dụ Thanh, “Ngươi lại nói dối kiểu người Hán rồi. Ngươi thích nàng, xa nữa nàng cũng có thể theo ngươi, nếu ngươi không thích nàng, ta sẽ không đem muội muội gả cho người không thích nàng.”

Thiện Lan Triết nói đến ngay thẳng như vậy, làm Dụ Thanh xấu hổ không thôi, chỉ có thể thấp giọng: “Xin lỗi.”

“Xin lỗi cái gì, uống rượu.” Thiện Lan Triết vừa nói vừa rót đầy chén rượu của Dụ Thanh, “Kỳ thật ngươi cứ như vậy, ta rất cao hứng. Cưới ngươi không được thì ta nghĩ, cũng không cưới ai nữa.”

Dụ Thanh ngẩng lên nhìn vào đôi mắt xanh biếc của Thiện Lan Triết, lát sau cười thật nhạt, nâng chén uống cạn.

Khi Dụ Thanh kiểm tra hết những xe lương thảo cuối cùng và nước dự trữ, trời đã tối sầm, tìm Dục Thanh để bẩm báo. Dục Thanh ngồi bên bờ Thác Gia hồ, tà dương còn sót lại dập dìu trên mặt hồ, lặng yên như thuở hồng hoang ban sơ.

Nghe danh sách Dụ Thanh báo cáo, Dục Thanh chỉ nhìn nơi tận cùng trời nước, chưa hề quay đầu, hỏi y: “Thanh khiết phóng khoáng đến không câu không nệ như vậy, ngươi hâm mộ không?”

“Con người có bao giờ là hoàn toàn không câu nệ.”

Dục Thanh cười khẽ, “Dụ Thanh à, có khi ta thật sự cảm thấy trời cao đưa ngươi tới là để chỉ điểm cho ta.”

“Dụ Thanh sao dám, điện hạ quá khen.”

“Nhìn cho thật kĩ đi, chốn thanh tịnh như thế, trở về đất Hán sẽ không thấy được nữa.” Dục Thanh vừa nói vừa đứng dậy, khi đi qua người Dụ Thanh, nhẹ nhàng vỗ bờ vai y.

Nỗi buồn của Dụ Thanh bắt đầu dâng lên, cúi đầu nhìn đoản đao bên hông. Hoa văn thô lệ trên chuôi đao đã bị mài đến bóng loáng, hẳn là một thói quen.

Dùng Vân Hỏa đổi lấy vật này, một vì muốn giữ món đồ tùy thân của gã, hai vì cảm thấy ngựa tốt như thế chỉ hợp với người chủ biết điều khiển, để tung hoành dọc ngang khắp chốn thảo nguyên cách trời gần nhất này.

Cuối cùng, vẫn cầu không được.

Dưới tia nắng mặt trời cuối cùng, một hàng chữ nhạt nhạt đậm đậm hiển hiện bên bờ hồ. Dụ Thanh ngồi xuống xem, cành cỏ viết trên mặt bùn ẩm ướt, là nét bút khỏe khoắn của Dục Thanh.

Thiên lý kỳ như hà, vi phong xuy lan đỗ**.

(Xa xôi ngàn dặm làm sao

Gió bay hiu hắt thổi vào đỗ lan.)


Chữ cuối cùng dường như được tô đi tô lại rất nhiều lần, nét chữ sâu đậm cắt trên bùn đất như những vết thương.

***

Chú thích:

*Trích “Cửu ca – Sơn quỷ” của Khuất Nguyên. Bản dịch của Phạm Thị Hảo:

Dường như có người trên góc núi

Khoác cỏ thơm, lưng thắt dây tơ

Mắt ngóng nhìn, cười mỉm như mơ

Dáng thiết tha, dịu dàng, xinh đẹp

Xe tân di dùng báo đỏ kéo

Cờ ngọc quế dắt chồn hoa theo

Mui xe lan buộc đai đỗ hạnh

Tìm hoa thơm hái tặng bạn tình

Chốn thâm sâu, trời mây chẳng thấy

Đường gập ghềnh, ta tới trễ chăng?

Đứng lặng một mình nơi đầu núi

Phía bên kia, mây kéo giăng hàng

Ban ngày mà âm u mù mịt

Gió đông táp, mưa rơi nặng hạt

Ngóng đợi chàng, quên cả chuyện về

Hồng nhan tàn, tươi lại được sao?

Hái linh chi bên bờ khe suối

Đá lởm chởm, rậm rì cây cối

Oán bạn lòng quên cả chuyện về

Chàng nhớ ta nhưng chẳng rảnh chăng?

Người trong núi khác nào cỏ thơm

Ăn bóng tùng, uống nước suối trong

Lòng nhớ chàng, một mình lặng lẽ

Phải vì chàng nghi hoặc ta chăng?


Tiếng sấm rền, mưa mù u ám

Vượn hú đêm, não nuột tiếng kêu

Gió rì rào, lá cây xào xạc

Nhớ bạn lòng, luống những bi thương.

**Bắt nguồn từ bài thơ “Ðồng tòng đệ Nam Trai ngoạn nguyệt ức Sơn Âm Thôi thiếu phủ” của Vương Xương Linh.

Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Trong khi nằm ở Nam Trai

Mở màn trông thấy chân trời trăng lên

Nước cây đượm vẻ bóng quyên

Chập chờn lấp lánh ở bên cửa ngoài

Êm đềm mấy lượt đầy vơi

Lặng soi biến đổi cuộc đời xưa nay

Thanh giang bờ bến ấy ai

Khúc ngâm đêm ấy dễ hay được nào

Xa xôi ngàn dặm làm sao

Gió bay hiu hắt thổi vào đỗ lan